Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

BÀI 7 tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân,vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.84 KB, 44 trang )

BÀI 7: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM
I. Đặt vấn đề
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng
lợi vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta. Năm 1951, trong Báo cáo chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc
địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính
quyền toàn quốc”(T6, tr. 159).
Thật vậy, đây là một cuộc cách mạng long trời, lở đất, nhân dân ta đã đập
tan ách phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài gần 100
năm và xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, giành chính quyền về tay
nhân dân, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước công nông
đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam từ thân phận của
người nô lệ trở thành người chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Thắng lợi đó đã mở đầu cho việc hiện thực hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tiếp tục nghiên cứu và vận dụng
sáng tạo tư tưởng đó của Người trọng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là l một vấn đề quan trọng và cần thiết của
toàn đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính quyền.
II. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích: Bài học này giúp cho học viên:
- Về kiến thức
+ Hiểu chính xác, đầy đủ và nắm vững những nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
1


+ Thấy được sự cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận và
thực tiễn trong việc xây dựng nhà nước kiểu mới để từ đó hiểu rõ việc Đảng ta


vận dụng và phát triển tư tưởng của Người về nhà nước vào việc xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay là hết sức
cần thiết và đúng đắn.
- Về tư tưởng, thái độ
+ Giúp học viên xây dựng niềm tin vững chắc vào quan điểm, đường lối
của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay; tích cực đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, chống phá nhà nước ta.
+ Giúp học viên thấy được những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam, từ đó xây dựng tình cảm, niềm tin và sự kính
trọng đối với vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của cách mạng và dân tộc Việt Nam.
- Về kĩ năng
+ Thu thập, xử lý các tài liệu có liên quan để nghiên cứu vấn đề.
+ Vận dụng kiến thức của bài học để nghiên cứu những vấn đề có liên
quan ở bài học khác, môn học khác và trong cuộc sống.
2. Yêu cầu
- Học viên học tập với tình cảm và trách nhiệm cao nhất, ý thức học tập
phải nghiêm túc, chấp hành tốt kỷ luật.
- Tích cực đọc giáo trình, tài liệu; nghe, ghi chép và thảo luận, phát biểu ý
kiến xây dựng bài…
III. Nội dung và thời gian
1. Nội dung: gồm 3 phần (Trọng tâm phần II, trọng điểm 2.1)
- I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
- II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam.

2


- III. Một số vấn đề xây dựng nhà nước hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh

2. Thời gian:
- Thời gian lên lớp:
- Thời gian thảo luận, ôn luyện:
IV. Phương pháp
- Giáo viên: Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề...
- Học viên: Đọc tài liệu, nghe, ghi chép, thảo luận...
V. Giáo trình, tài liệu
- Giáo trình:
+ HĐTW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb CTQG, H, 2003 (Tái bản 2008).
- Tài liệu tham khảo:
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng trong
các trường đại học và cao đẳng), Nxb CTQG, H, 2006 (Tái bản 2008, 2010,
2011, 2013).
+ Tổng cục Chính Trị, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb QĐND, H, 2006.
+ Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội và xon đường quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2008.
+ Song Thành (Chủ biên), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb CTQG, H, 2010
+ Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 1 – 15.

3


I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM
* Khái niệm về Nhà nước
- Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H, 2004:
“Nhà nước, tổ chức quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp; bộ máy
để quản lý xã hội và duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền. Nhà nước xuất
hiện khi có sự phân chia xã hội thành giai cấp và mất đi khi xã hội không còn

giai cấp. Chức năng cơ bản của nhà nước: tổ chức xây dựng, quản lý xã hội,
đồng thời trấn áp sự phản kháng của các giai cấp khác nhằm củng cố địa vị của
giai cấp thống trị” 1.
- Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt
nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp
thống trị trong xã hội.
- Nhà nước có 5 đặc trưng cơ bản:
+ Có chủ quyền quốc gia.
+ Quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ.
+ Thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt.
+ Ban hành pháp luật.
+ Đặt ra thuế và thu thuế.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh rằng nhà nước ra đời là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, là kết quả của sự phân chia giai cấp. Nhà nước
xuất hiện, phát triển và sẽ mất đi khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại
và phát triển của chúng không còn nữa. Trong xã hội loài người từng tồn tại 4
kiểu nhà nước, tương ứng với 4 hình thái kinh tế - xã hội. Đó là kiểu nhà nước
chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1

Bộ Quốc phòng - Trung tâm từ điển bách khao, Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H, 2004,
Tr.737

4


- Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, ra đời do kết quả đấu tranh cách
mạng của nhân dân lao động mà nòng cốt là giai cấp công nhân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản. Nhà nước kiểu mới xoá bỏ ách áp bức bóc lột, thiết lập

chính quyền cách mạng về tay nhân dân, nên về bản chất của nó khác hẳn với
các nhà nước bóc lột trước đó. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của
giai cấp công nhân, nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
* Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới
Quá trình tìm đường cứu nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc và lãnh
đạo nhân dân ta xây dựng chế độ mới của Hồ Chí Minh cũng là quá trình Người
xác lập cơ sở hình thành, lựa chọn, xây dựng và phát triển nhà nước kiểu mới
cho cách mạng Việt Nam. Cơ sở hình thành nhà nước kiểu mới được Hồ Chí
Minh xem xét rất toàn diện. cả trên lĩnh vực lý luận và thực tiễn, cả bình diện
dân tộc và thế giới.
1.1. Cơ sở lý luận

 Kinh nghiệm xây dựng nhà nước trong lịch sử dân tộc.
- Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã tích
lũy được bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được phản ánh trong
các bộ sử lớn của dân tộc như: Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương
loại chí…; kinh nghiệm làm luật trị nước cũng được ghi lại trong các bộ luật nổi
tiếng như: Hình thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Trần), bộ luật Hồng Đức
(đời Lê)… với những tư tưởng nổi bật như vấn đề bình đẳng đối với phụ nữ:
Cho phép ly hôn, có quyền thừa kế tài sản, cho phép nhận con nuôi…
- Những tư tưởng tích cực của nhà nước thân dân thời kỳ phong kiến hưng
thịnh trong lịch sử dân tộc đã được khẳng định rằng: muốn duy trì sự trường tồn
của dân tộc và quyền điều hành đất nước, những nhà lãnh đạo dân tộc Việt Nam
phải biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Nổi bật như: Trần Hưng Đạo ở thế kỷ
XIII từng khuyên vua Trần Anh Tông: “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc,
5


đó mới là thượng sách giữ nước”2. Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV cũng chỉ ra cội nguồn
của sức mạnh giữ nước chính là lòng dân, “chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền

cũng là dân”…

 Hồ Chí Minh tiếp thu những tư tưởng dân chủ tiến bộ trong văn hóa
nhân loại về xây dựng nhà nước.
+ Hồ Chí Minh tiếp biến những giá trị của Nho giáo về trị nước như tư
tưởng dùng “Đức để trị quốc”, “Thế giới đại đồng”, xây dựng xã hội An ninh
hòa mục, có tôn ti trật tự; những tư tưởng thân dân, trọng dân như: Dân vi bang
bản, bản cố bang ninh (Dân là gốc của nước nhà, gốc có vững thì nước mới
yên), Dân chi sở dục, thiên tất tòng chi (cái gì dân muốn thì trời cũng phải thuận
theo), Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Dân là quan trọng, xã tắc tiếp
theo, vua chỉ coi nhẹ).
+ Chủ thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn với tư tưởng chính là dân tộc
độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến phong
trào đấu tranh giành độc lập ở Việt Nam, đặc biệt là tổ chức Quốc Dân Đảng Việt
Nam và tầng lớp trí thức yêu nước Việt Nam trong những năm 1920-1930. Hồ Chí
Minh đã tìm thấy, tiếp thu những điều thích hợp với điều kiện của nước ta ở chủ
thuyết này. Sau này Người đưa vào Quốc hiệu của nước Việt Nam những tinh túy
nhất của chủ thuyết đó là: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
+ Tư tưởng tiến bộ về nhà nước, pháp luật của các nhà khái sáng Pháp như
Môngtetxkiơ, Rútxô, Vônte…
• Môngtetxkiơ (1689 - 1755) một nhà luật học nổi tiếng với tác phẩm “Tinh thần
pháp luật” ông đã đưa ra nguyên tắc tách biệt giữa 3 quyền lực: quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp. Ông cho rằng nhà nước lập hiến ở Anh thời đó là mẫu
mực của thể chế chính trị, phù hợp với tình hình chung của xã hội. Qua Mông – tet – xki
– ơ, Người tiếp cận được tư tưởng về “Nhà nước pháp quyền”.
2

Hỏi đáp Lịch sử Việt Nam, Nxb Trẻ, TP HCM, 2008, tập 2, tr.236

6



• Vônte (1694 - 1778) là một bậc thiên tài với khả năng hiểu biết toàn diện và đã
thành công trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu như: (Triết học, văn học, sử học, vật lý học)
ông đã công kích gay gắt chế độ chuyên chế và nhà thờ Pháp. Chủ trương xoá bỏ chế độ
chuyên chế nhưng vẫn giữ thể chế quân chủ với những vị vua sáng suốt, nếu vua trở nên
tàn bạo thì nhân dân có quyền đánh đổ. Qua Vôn – te, tư tưởng chống phong kiến, phủ
nhận vua, vốn đã lớn dần ở Người từ trước được khẳng định lại và phát triển. Người đã
đoạn tuyệt với chế độ phong kiến.
• Rútxô (1712 - 1778), xuất thân nghèo khổ, phải làm nhiều nghề, đi nhiều nước,
thấu hiểu tình cảnh cùng cực của người dân thường nên tư tưởng của ông là lên án chế
độ Phong kiến, phê phán chế độ sở hữu tư nhân và tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.
Ông chủ trương thiết lập chế độ cộng hoà, người dân có quyền chính trị như nhau, được
hưởng quyền tự do và bình đẳng. Ông khẳng định: “Quyền lực tối cao được thiết lập từ
các cá thể thành viên hợp lại tạo ra nó”3 và “Những người được ủy thác nắm quyền
hành pháp không phải là ông chủ của nhân dân mà chỉ là những công chức”4. Qua tác
phẩm “Khế ước xã hội” của Rút – xô, Hồ Chí Minh được tiếp cận với “nền cộng hòa
dân chủ” mà ở đó nhân dân là người nắm chính quyền.

 Đặc biệt Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về
nhà nước, nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước XHCN của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử đã chứng minh rằng nhà nước ra đời là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, là kết quả của sự phân chia giai cấp. Nhà nước xuất hiện, phát triển và sẽ
mất đi khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng
không còn nữa. Trong xã hội loài người từng tồn tại 4 kiểu nhà nước, tương ứng

3


G.G. Rousseau: Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận, H, 2004, Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, chú thích và
bình giải, tr. 71
4
G.G. Rousseau: Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận, H, 2004, Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, chú thích và
bình giải, tr. 71

7


với 4 hình thái kinh tế - xã hội. Đó là kiểu nhà nước chủ nô, nhà nước phong
kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả đấu tranh cách mạng của
nhân dân lao động mà nòng cốt là giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, khác xa về bản chất so
với các nhà nước bóc lột trước đó. Đây là nhà nước xoá bỏ ách áp bức bóc lột,
thiết lập chính quyền cách mạng về tay nhân dân, mang bản chất của giai cấp
công nhân, nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do nhân dân làm chủ.
- Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, chính quyền là vấn
đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Do đó, sau khi giành được chính quyền về
tay nhân dân, giai cấp công nhân phải thiết lập ngay một nền chuyên chính vô
sản, tức là phải xây dựng ngay một nhà nước vô sản, thực hiện sự lãnh đạo chính
trị của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội. Theo Lênin, chuyên chính vô sản
là phương thức, là phương tiện, là hình thức để bảo vệ sự thống trị về chính trị
của giai cấp công nhân.
- Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân cần có sự hỗ
trợ, cộng tác, liên minh vững chắc và ngày càng củng cố với những người lao
động khác. Do vậy, chuyên chính vô sản là một loại liên minh đặc biệt giữa giai
cấp công nhân với quần chúng nhân dân lao động. Nhà nước vô sản là chính
quyền của nhân dân, là Nhà nước của nhân dân, do dân, vì dân. Do đó, chế độ
dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó. Đó là nền

dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó lấy dân chủ trên
lĩnh vực kinh tế làm cơ sở.
- Nhà nước vô sản là tổ chức mà thông qua đó Đảng của giai cấp công
nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công
nhân của mình. Do vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
Nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của
8


Đảng đối với Nhà nước không chỉ là yếu tố bảo đảm bản chất vô sản của Nhà
nước, mà còn là điều kiện để giữ tính nhân dân của Nhà nước đó.
- Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Công xã
Pari năm 1871 đã sản sinh ra Nhà nước vô sản kiểu Công xã. Hình thức thứ hai
của chuyên chính vô sản là Nhà nước kiểu Xô viết. Ở một số nước, Nhà nước vô
sản còn tồn tại dưới hình thức nhà nước dân chủ nhân dân...
 Chính những quan điểm lý luận nền móng đó đã định hướng để Hồ Chí
Minh lựa chọn chính xác một kiểu Nhà nước phù hợp với nhu cầu phát triển và
điều kiện thực tế của Việt Nam.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đi khắp các châu lục, tìm
hiểu các nền văn minh, các cuộc cách mạng trên thế giới để tìm ra những gì tiến
bộ nhất, phù hợp với cách mạng Việt Nam, nhằm giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình khảo cứu đó đó, Hồ Chí Minh rất chú ý xem xét những vấn đề
về chính quyền Nhà nước - một vấn đề cơ bản của các cuộc cách mạng xã hội
theo quan điểm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học. Thực tế,
Người đã nghiên cứu kỹ ba kiểu nhà nước đã tồn tại trong lịch sử đó là nhà nước
thực dân phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.

 Đối với nhà nước thực dân phong kiến.

Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất vô nhân đạo, phi nhân tính của kiểu
nhà nước này. Người chỉ rõ bản chất cái gọi là “công lý” mà thực dân đế quốc
thi hành ở xứ “bảo hộ”. Theo Người, đây là nhà nước đi ngược lại lợi ích của đa
số nhân dân, nên nhân dân có quyền đuổi chính phủ đó đi.
- Năm 1924, trong tác phẩm Cuộc khai hóa giết người, Hồ Chí Minh đã
vạch rõ bản chất của cái gọi là “Khai hóa văn minh” mà chủ nghĩa thực dân
đang rêu rao ở các nước thuộc địa. Người viết: “Nếu lối hành hình theo kiểu

9


Linsơ5 của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những người da đen là một hành
động vô nhân đạo, thì tôi không còn biết gọi việc những người Âu nhân danh đi
khai hóa mà giết hàng loạt những người dân châu Phi là cái gì nữa” (T1,
tr.321).
• Đó là việc Người da trắng châu Âu đi xâm chiếm, truyền đạo, bắt bớ,
buôn bán và hành hạ những người da đen ở châu Phi. Người ta coi người da đen
như một loại súc vật và đo đếm họ bằng kiện, bằng tấn chứ không phải bằng đầu
người. Ví dụ: “Công ty Bồ Đào Nha ở Ghinê, năm 1700, đã ký một hợp đồng là
sẽ cung cấp 11.000 tấn người da đen”(T1, tr.324).
• Cùng với những cuộc tàn sát quy mô lớn nhằm giết hại người bản xứ. Ví
dụ: “Năm 1908, dân số xứ Cônggô thuộc Bỉ có 20 triệu, đến năm 1911,chỉ còn
8.500.000 thôi. Trong xứ Cônggô thuộc Pháp, những bộ tộc gồm có 40.000
người mà trong 2 năm chỉ còn lại 20.000, nhiều bộ tộc khác không còn lấy một
người” (T1, tr.327)
- Trong tác phẩm Đông Dương (1923 -1924), Người đã chỉ rõ thực trạng
của các nước thuộc địa Đông Dương dưới sự cai trị của chủ nghĩa thực dân:
• Những tội ác của chủ nghĩa quân phiệt (đó là việc bắt phu, bắt lính một
cách cưỡng bức và xử phạt những người chốn chạy một cách dã man).
• Đông Dương - Những thảm họa của nền văn minh : “Để truyền bá văn

minh Pháp, bảo vệ danh dự lá quốc kỳ Pháp ở các thuộc địa xa xôi, người ta
dùng những đội quân gồm toàn những tên lưu manh, những bọn lười biếng,
những tên lọt lưới pháp luật, những tên giết người, nói tóm lại, gồm những tinh
hoa của những cạn bã, lượm lặt ở tất cả các nước châu Âu. Đến nước đã bị xâm
chiếm hay sắp bị xâm chiếm cũng vậy, người ta thả những tên sát nhân này vào
trong đám dân chúng thiếu tự vệ. Và để kích thích chúng, người ta buông lỏng
5

Lối hành hình kiểu Linsơ : Tên chủ đồn điền ở bang Viếcgini, Mỹ đã trói người vào gốc cây, châm lửa đốt, bẻ
răng, móc mắt, rứt tóc khỏi đầu, xẻo từng miếng thịt; Trói người da đen, đổ cao su nóng vào bộ phận sinh dục,
nhét mìn vào mồm, vào hậu môn rồi cho nổ…Từ 1889 – 1919 đã có 2.600 người da đen bị hành hình kiểu
Linsơ (Xem Hành hình kiểu Linsơ, Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 1, tr.306)

10


cho bọn côn đồ tha hồ hoành hành theo thú tính tàn bạo của chúng” (T1, Tr.
349).
• Tâm địa thực dân : “Đời sống ở thuộc địa chỉ làm những tật xấu của con
người phát triển: những kẻ đã quen mùi chiến tranh lại càng không còn gì là ý
thức đạo đức, càng trụy lạc, bất lương và độc ác; bọn con buôn và những tay
lưu manh càng thích thú cướp bóc và trộm cắp” (T1, 363).
• Tập đoàn kẻ cướp: “Để hút đến giọt máu cuối cùng của đất nước khốn
khổ chúng tôi, nghề ăn cướp thực dân như con bạch tuộc, đang xiết chặt bằng
nhiều cái vòi độc quyền không biết chán: độc quyền muối, độc quyền rượu, độc
quyền thuốc viện vv…” (T1, tr. 377)
• Công lý: “Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp,
một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người An Nam
thì không có hội đồng bồi thẩm, không có luật sư… Nếu có kiện cáo giữa người
An Nam với người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên này

ăn cướp hay giết ngươi” (T1, tr.420).

 Đối với nhà nước Tư sản.
- Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhà nước Tư sản trên đất Mỹ, Anh, Pháp…
Người nhận thấy rõ ở đó có những tư tưởng tiến bộ như “Tự do – Bình đẳng –
Bác ái”, “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Nhưng trên
thực tế, nhà nước Tư sản không thực hiện được triệt để những tư tưởng ấy cho
tất cả mọi người, mà đó chỉ là quyền của giai cấp tư sản.
• Đánh giá về Cuộc cách mạng Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tuy Tuyên
ngôn độc lập 1776 của Mỹ đã khẳng định: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do,
quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn sung sướng... Hễ Chính phủ nào
mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đập đổ Chính phủ ấy đi, và gây lên
Chính phủ khác. Nhưng bây giờ Chính phủ Mỹ lại không muốn cho ai nói đến
cách mệnh, ai đụng đến Chính phủ” (T2, tr.270). Vì vậy, Hồ Chí Minh kết luận:
11


cách mạng Mỹ là “cách mệnh tư bản”, tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập của
Mỹ tuy phản ảnh quyền lực tối cao của nhân dân trong việc xây dựng chính
quyền Nhà nước, nhưng Nhà nước ở Mỹ lại rơi vào tay một bọn ít người, do đó:
“Mỹ tuy cách mệnh đã thành công hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ
cực khổ, vẫn cư lo tính cách mệnh lần thứ hai” (T2, tr.270).
• Đối với cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII, Hồ Chí Minh đánh giá:
Nhà nước tư sản Pháp ra đời là thành quả của cuộc cách mạng 1789 lật đổ
chế độ phong kiến, với những khẩu hiệu nổi tiếng: Bình đẳng, Tự do, Bác ái.
Đây là tư tưởng rất tiến bộ, phản ánh tư tưởng của các nhà cách mạng Pháp ở
Thế kỷ ánh sáng chống lại chế độ phong kiến.
Giai cấp tư sản Pháp thấy được rõ vai trò và sức mạnh to lớn của nhân
dân nên đã tìm cách lợi dụng nhân dân để chống lại ách thống trị của giai cấp
phong kiến: “Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi

dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó thay phong kiến
mà áp bức dân” (T2, tr.274).
- Khi nghiên cứu hai cuộc cách mạng tư sản ở Pháp và ở Mỹ, Hồ Chí
Minh rút ra những kết luận chung nhất:
• Một là: Giai cấp tư sản Mỹ và Pháp đã lợi dụng sức mạnh của nhân dân,
tìm cách mị dân bằng những lời hoa mỹ để lôi kéo nhân dân vào cuộc đấu tranh
chống lại chế độ phong kiến.
• Hai là: Khi giành được chính quyền, thiết lập được bộ máy nhà nước tư
sản trên cơ sở đập tan bộ máy nhà nước phong kiến rồi thì giai cấp tư sản quay
lại đàn áp, bóc lột nhân dân; không thực hiện chính những điều mà họ khẳng
định trong Tuyên ngôn của họ là quyền lực tối cao trong thiết chế của chính
quyền nhà nước thuộc về nhân dân. Vì vậy: “Cách mệnh Pháp cũng như Cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng
hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức

12


thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần 6 rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu cách
mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ
những điều ấy” (T2, tr. 274).
- Qua nghiên cứu hai cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp, điều mà Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm là tính chất nhà nước, nhà nước đó có phải là nhà nước
của dân không? Đây là điểm mấu chốt nhất trong quá trình hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước thực sự của dân khi nước nhà giành
được độc lập. Cũng có thể nói rằng, đây là tiêu điểm để nhìn nhận về tính chất
của một Nhà nước, để đánh giá Nhà nước đó có tiến bộ hay không, có dân chủ
triệt để hay không.

 Đối với nhà nước Xô viết.

- Hồ Chí Minh đã để nhiều tâm sức vào khảo cứu cuộc Cách mạng xã hội
chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917. Người đã tìm thấy một mô hình nhà nước
kiểu mới: “Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra chính phủ công, nông, binh
phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi
chết cho tư bản nữa… ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế
giới đại đồng” (T2, tr.280).
Người nhận thức sâu sắc đây là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân, mà
đội tiền phong của nó là Đảng bônsêvich (cộng sản) Nga lãnh đạo. Cuộc cách
mạng vô sản này thật sự đề cao vai trò của nhân dân, huy động tất cả mọi lực
lượng, chủ yếu là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và binh lính chống lại
giai cấp tư sản để giành lấy chính quyền về tay nhân dân, lập nên các xô - viết
công nông binh; đây là cuộc cách mạng triệt để, đưa lại quyền lợi thật sự cho
nhân dân lao động. Nhà nước Xô viết được lập ra dựa trên cơ sở quyền lực của
nhân dân.

6

Lần 1 (1792 -1804), lần 2 (1848), lần 3 (1870), lần 4 (1871 – Công xã Pari). Xem: Cách mệnh Pháp, Hồ Chí
Minh, Toàn tập, T2, tr. 271.

13


- Từ những nhận thức trên, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
• “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp
năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất.
Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và
sâu xa như thế” (T12, tr.300).
• “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình

đẳng thật, không phải tự do bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại
ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa cách mệnh để
đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”(T2, tr.280).
 Muốn thành công, cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường của
cách mạng Nga. Bởi vì, “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc” (T2, tr. 280).

 Nhân tố chủ quan ở Hồ Chí Minh
- Đó chính là lòng yêu nước, thương dân vô hạn, lý tưởng suốt đời vì
nước, vì dân cùng với một đạo đức tận trung với nước, tận hiếu với dân của Hồ
Chí Minh cũng là một cơ sở không thể thiếu để Người hình thành tư tưởng về
một nhà nước kiểu mới – nhà nước của dân, do dân, vì dân cho dân tộc.
- Thực tế, Hồ Chí Minh đã lựa chọn kiểu Nhà nước Xô Viết, đó là Nhà
nước công, nông, binh để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Qua tác
phẩm Đường cách mệnh (1927) chúng ta thấy quan điểm của Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước kiểu mới, Nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân lao
động. do nhân dân lao động làm chủ. Người khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh
làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc” (T2, tr.270).

14


- Quan điểm về Nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh được tiếp tục thể
hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930) là “Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
Dựng ra Chính phủ công nông binh” (T3, tr.1). Thực tế, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, những năm 1930 – 1931, cách mạng Việt Nam đã hình thành các Xô viết

ở nhiều địa phương, nhất là Xô viết Nghệ - Tĩnh.
- Đặc biệt, trong văn kiện Hội nghị TW 8 (tháng 5 năm 1941) do Hồ Chí
Minh chủ trì, đã khẳng định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách mạng là giải
phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định: “Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật sẽ
thành lập một Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà…
Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra” 7.
Từ mô hình nhà nước công, nông, binh chuyển sang mô hình nhà nước đại
biểu cho khối đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng suốt của
Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp với sự
chuyển hướng sách lược và chiến lược của cách mạng Việt Nam
- Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, lật đổ chính quyền thực dân,
phong kiến, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, là chính quyền
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ
nhân dân là chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng và bảo vệ Nhà nước dân chủ
nhân dân non trẻ, bảo vệ độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Rõ ràng, từ ý tưởng thành lập chính quyền công, nông, binh đến việc
thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một
sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Sự ra đời của hai văn kiện quan trọng đó là Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 và
Hiến pháp 1946, thể hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước độc
lập, dân chủ thực sự của dân, do dân và vì dân.
 Như vậy, từ việc tiếp thu truyền thống dân tộc và những tư tưởng dân
chủ tiến bộ trong văn hóa nhân loại về xây dựng nhà nước, đặc biệt là sự vận
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, t7, tr.150

15



dựng và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và cách
mạng; từ khảo sát các loại hình nhà nước trên thế giới cùng với lý tưởng suốt đời
vì dân vì nước, tận trung với nước, tận hiến với dân, Hồ Chí Minh đã đưa ra
quan điểm Nhà nước kiểu mới và xây dựng thành công nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn để tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân, do dân và vì dân hình thành và phát
triển.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM
2.1. Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động
- Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Trong đó, vấn đề cốt lõi làm lên bản chất của chính quyền đó là ở chỗ nó thuộc
về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai? Trong lịch sử, quan niệm về nhà nước của
dân, do dân, vì dân đã được giai cấp tư sản nêu ra∗. Nhưng Hồ Chí Minh đã nhận
thấy rõ, họ chỉ nói mà không làm.
- Xây dựng một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam đã
thể hiện rõ trong tư tưởng và hoạt động của Hồ Chí Minh.
• Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927) chúng ta thấy quan điểm của
Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới, Nhà nước XHCN, nhà nước của
nhân dân lao động. do nhân dân lao động làm chủ. Người khẳng định: “Chúng
ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách
mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít
người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc” (T2,
tr.270).



Thực ra, đây là tư tưởng của vị Tổng thống thứ 16 của Mỹ là Lincon (1809 - 1865), ông đã giải phóng dân da
đen khỏi ách nô lệ. Ông cũng là một trong những người sáng lập Đảng Cộng hòa của Mỹ. Ông làm tổng thống

Mỹ nhiệm kỳ 1861 – 1865.

16


• Cách mạng thành công, nước nhà độc lập, trong tác phẩm Dân vận
(1949), Người khẳng định:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (T5, tr.698).
Đó là điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với các nhà
nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
2.1.1. Nhà nước của dân
- Xây dựng nhà nước của dân, quyền lực thuộc về nhân dân là điều cơ bản
để phân biệt sự khác nhau về bản chất của Nhà nước ta so với Nhà nước tư sản ở
châu Âu, châu Mỹ và Nhà nước thực dân phong kiến ở Việt Nam trước năm
1945.
- Nhà nước của dân thì dân phải là chủ và dân làm chủ.
+ Nhân dân là người có vị thế cao nhất, có quyền lực cao nhất và quyết
định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh dân tộc, đất nước. Hay nói một cách
khác mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về dân.
(Bộ máy nhà nước: Quốc Hội, HĐND; Chính phủ, UBND; Tòa án, Viện
kiểm soát. Hệ Thống chính trị: ĐCS, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn,
Các tổ chức chính trị xã hội khác).
+ Theo Hồ Chí Minh: “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của
chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân… Nhân dân là ông chủ nắm
chính quyền” (T7, tr. 218).

+ Điểu 1 - Hiến pháp năm 1946 do Người làm Trưởng ban soạn thảo đã
khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính
17


trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giầu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
+ Điều 32 – Hiến Pháp năm 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”.
Nhân dân thực hiện quyền lực của mình trực tiếp hoặc gián tiếp.
Quyền lực trực tiếp thực chất là chế độ trưng cầu dân ý, tức là lấy ý kiến
đóng góp của tất cả nhân dân về một công việc nào đó của nhà nước chẳng hạn
như việc xây dựng và sửa đổi hiến pháp.
Quyền lực gián tiếp, tức là nhân dân bầu ra người đại diện cho minh là Đại
biểu Quốc Hội và cơ quan đại diện cho mình đó là Quốc Hội để giải quyết các
vấn đề của nhà nước.
- Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước.
Năm 1954, trong Lời kêu gọi nhân ngày Thủ đô giải phóng, Hồ Chí Minh
viết: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, Chính phủ chỉ có mục đích là
phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn
đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung
thành tận tụy của dân”(T7, tr.361).
Năm 1959, trong Báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11,
Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”
(T9, tr. 591).
Như vậy, nhân dân không chỉ bầu ra người đại diện cho mình để thực hiện
quyền làm chủ đất nước mà nhân dân còn có quyền thường xuyên kiểm tra giám
sát việc thực hiện quyền lực ấy của người đại diện.


- Nhân dân có quyền và nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
18


Trong nhà nước của dân thì nhân dân là chủ, người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ, nghĩa là nhân dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật
không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành các thiết chế dân chủ
để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời các vị đại biểu của nhân dân,
do nhân dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của dân và chỉ là công bộc của dân.
2.1.2. Nhà nước do dân
- Nhà nước do nhân dân lựa chọn và bầu ra.
+ Sau ngày Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời, khi nêu ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đó là tư tưởng về xây dựng nhà nước dân
chủ, muốn thể hiện đầy đủ tính dân chủ nhân dân thì nhà nước phải tổ chức ra
một bộ máy thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu và phải có hiến pháp và pháp
luật để quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong bài Những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (3/9/1945), Người khẳng định: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân
chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên
nước ta không có hiến pháp... Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề
nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ
thông đầu phiếu” (T4, tr.8).
+ Tổng tuyển cử là một biểu hiện về quyền dân chủ chính trị của nhân
dân, đảm bảo chế độ dân chủ, tự do. Chính sách bầu cử và ứng cử là vấn đề cốt
tử để đảm bảo tính hợp hiến trong xây dựng bộ máy nhà nước. Chính sách đó là
tự do hay hạn chế, bình đẳng hay phân biệt, giả hay thật, áp đặt hay tự do lựa
chọn, là những chuẩn mực để xem xét một bộ máy chính quyền có thực sự của

dân hay không.
+ Hồ Chí Minh đã chỉ ra tính chất của nhiệm vụ ấy: “Tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài có đức, để gánh vác
19


công việc nhà nước. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc
nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử.
Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là
công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức
là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết. Do Tổng tuyển cử mà toàn dân
bầu ra Quốc hội...” (T4, tr.133). Người còn nhấn mạnh: “Chế độ tuyển cử của
nước ta thực hiện dân chủ đồng thời thực hiện sự đoàn kết toàn dân”(T9,
tr.591).
+ Với một Quốc hội được bầu ra bằng phổ thông đầu phiếu đã bảo đảm
cho đất nước một Hiến pháp dân chủ. Tổng tuyển cử là tự do, bình đẳng, là dân
chủ và đoàn kết trong tổ chức bộ máy nhà nước, là một bảo đảm cho Nhà nước
ta thể hiện bản chất giai cấp lại vừa đại diện cho quyền lợi của toàn dân tộc. Đó
là tư tưởng của Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước dân chủ, nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
+ Thực tế, bằng việc chỉ đạo, động viên nhân dân tham gia vào cuộc sinh
hoạt chính trị trọng đại nhất của đất nước, Hồ Chí Minh đã tổ chức thành công
cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước, đại biểu cho ý chí của toàn dân và
Quốc hội cử ra Chính phủ chính thức. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ đó
thật là chính phủ của toàn dân”, điều đó khẳng định sự ra đời của chế độ xã hội
mới dựa trên nền tảng dân chủ. Thông qua nhà nước do mình cử ra, quyền lực
của nhân dân trở thành quyền lực mang tính nhà nước với chủ thể là nhân dân.
- Nhà nước do nhân dân ủng hộ và giúp đỡ.
+ Nhân dân ủng hộ giúp đỡ nhà nước bằng cách thực hiện tốt nghĩa vụ

công dân theo pháp luật quy định, tự giác chấp hành tốt mọi đường lối, chủ
trương, chính sách và pháp luật của nhà nước.
+ Nhân dân tự giác, tự nguyện nộp thuế, đóng góp về vật chất tiền của để
bộ máy nhà nước chi tiêu và hoạt động.
20


Ví du: Sau cách mạng Tháng Tám, trong điều kiện ngân khố quốc gia chỉ
có 1 triệu đồng của chế độ cũ để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động Chính phủ
lập quỹ “Quỹ Độc lập”, tổ chức “Tuần lễ vàng”, động viên nhân dân đóng góp
được 20 triệu đồng và 370kg vàng giúp Chính phủ hoạt động.
+ Bên cạnh đó nhân dân tích cực giúp đỡ, phê bình, góp ý xây dựng nhà
nước trong sạch, vững mạnh.
Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào
nhân dân, phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến nguyện vọng của
nhân dân và chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân. Các cơ quan nhà nước
không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền
bãi miễn họ.
2.1.3. Nhà nước vì dân
- Nhà nước đem lại lợi ích thực sự cho nhân dân.
Chẳng hạn như về lợi ích của nhân dân, Hồ Chí Minh phân tích hết sức
sâu sắc về những vấn đề nhà nước cần quan tâm đến nhân dân, Người nhấn
mạnh: “Nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực, lợi ích gần và lợi ích xa, lợi
ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cục. Đối với nhân dân
không thể lý luận suông, chính trị suông” (T6, tr.292).
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi
mà dân ăn no, mặc đủ, nhân dân được hưởng mọi quyền công dân và quyền con
người. Trong Thư gửi UBND các cấp, Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm: “Nếu
nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập chẳng có
nghĩa lý gì”(T4, tr.56).

- Nhà nước toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.
+ Quan điểm phục vụ nhân dân đã được Hồ chí Minh khẳng định qua Thư
gửi cho UBND các cấp: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ
từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc
chung của dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
21


thống trị của Pháp, Nhật” (T4, tr.56). Do đó, “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết
sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh” (T4, tr.56-57).
Đó là tư duy về xây dựng bộ máy nhà nước phục vụ nhân dân vô điều
kiện, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết, đó là sự sống còn của chế
độ mới.
Bản thân Hồ Chí Minh – một người Chủ tịch vì dân, là một tâm gương
mẫu mực về sự phục vụ. Khi trả lời phỏng vấn của phóng viên nước ngoài, Hồ
Chí Minh đã thể hiện rõ quan điểm về phục vụ của mình: “Tôi tuyệt nhiên không
ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch, là vì
đồng bào uỷ thác thì tôi gắng sức làm, cũng như một người lính, vâng mệnh lệnh
của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui
lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (T4, tr.161).
Người nhấn mạnh: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho
quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp
nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích
đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi
gánh vác Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng cũng vì mục đích
đó” (T4, tr. 240).
- Cán bộ nhà nước vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ, công bộc
của dân.

+ Hồ Chí Minh chỉ rõ mới quan hệ giữa chính phủ với nhân dân, theo
Người: “Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ” do đó “Nếu Chính phủ làm
hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Ngược lại, “Nhưng khi dân dùng đầy
tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ” (T5, tr.60).

22


Người nhấn mạnh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy
viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải
làm quan cách mạng” (T8, tr.375).
Về mối với Đảng, Người cũng chỉ rõ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ,
nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán
bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và
ngành nào – đều phải là đầy tố trung thành của nhân dân” (T10, tr. 323).
+ Người lãnh đạo và người đầy tớ của nhân dân hoàn toàn không mâu
thuẫn gì với nhau. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa nhiệm vụ lãnh đạo và
nghĩa vụ phục vụ của người cán bộ.
• Là người đầy tớ, người công bộc của dân nghĩa là cán bộ, đảng viên phải
tuyệt đối trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ…
Tinh thần trách nhiệm của nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước đối
với nhân dân được Hồ Chí Minh đề cập một cách sâu sắc: “Chính sách của
Đảng và chính phủ là phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân. Nếu dân
đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi”(T7, tr.572].
• Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt,
nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân nhân, trọng dụng hiền tài, phải “Công bình
chính trực”; không được tư thù, tư oán, cậy thế, cậy quyền, kéo bè, kéo cánh,

quan liêu, kiêu ngạo… Người chỉ rõ: “Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên
cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân thì dân không cần đến nữa” (T6,
tr.365).
Sớm nhận rõ những sai lầm khuyết điểm của cán bộ khi có quyền hành,
sau khi cách mạng thành công, ngày 21/11/1946 Bác ký sắc lệnh 223 quy định
những hình thức xử phạt các tội hối lộ, tham ô, biển thủ công quỹ mức phạt tù
23


khổ sai từ 5 đến 20 năm, phạt về vật chất gấp đôi giá trị đưa và nhận hối lộ cho
tới tịch thu 2/3 gia sản.
2.2. Quan điểm về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước
2.2.1. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta
- Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó sinh ra để phục vụ cho một giai
cấp, giúp cho giai cấp đó dù là thiểu số trong dân cư vấn có thể thống trị, áp bức,
bóc lột đại đa số dân cư. Cho nên nhà nước mang bản chất giai cấp.
- Khi nói nhà nước của dân, do dân, vì dân không có nghĩa là nhà nước phi
giai cấp hay siêu giai cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tính chất nhà nước là
vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền.
Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ
nội dung của Hiến pháp… Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên
nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo” (T9, tr. 586).
Như vậy, Người đã khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước ta là bản chất giai
cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước được biểu hiện ở chỗ:
+ Nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
• Cách mạng Việt Nam từ sau năm 1930 đến nay là do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Dù còn hoạt động bí mật hay đã công khai, dù chưa có chính
quyền hay sau khi giành được chính quyền, lúc nào Đảng ta cũng giữ vai trò
lãnh đạo tuyệt đối của mình đối với cách mạng, trong đó có nhà nước.

Điều 4, Hiến Pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
cũng ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là
lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”.

24


• Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối, chủ trương được thể chế hóa
thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách, kế hoạch của nhà nước. Đảng không
bao biện làm thay nhà nước.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua tổ chức của đảng và đội ngũ đảng viên
trong hệ thống bộ máy nhà nước.
+ Thể hiện ở tính định hướng đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Năm 1959, trong Báo cáo về dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 11
Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người viết: “Đường lối tiến
lên CNXH là: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ
nhân dân lên CNXH bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo
CNXH, biến nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế XHCN với công nghiệp và
nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Chính sách kinh tế của Việt
Nam là không ngừng phát triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân” (T9, tr. 588).
Như vậy, trong xây dựng Hiến pháp cho nhà nước, Hồ Chí Minh đã xác
định rõ định hướng phát triển đất nước theo con đường XHCN. Đây chính là con
đường cách mạng của giai cấp công nhân, là mục tiêu phấn đấu của giai cấp
công nhân.
+ Thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung
dân chủ.

Từ Quốc hội, Hội dồng nhân dân, Chính phủ; các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến các địa phương đều phải hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Theo Hồ Chí Minh: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ… Có
phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân
dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh
đạo nhân dân xây dựng CNXH” (T9, tr.592).
25


×