Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.07 KB, 27 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của
dân, do dân và vì dân
Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành
độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. "Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Khát
vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc
đời cách mạng của Người.
Trong Tuyên ngôn Độc lập đọc trước quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945 tại Quảng
trường Ba Đình, Bác Hồ đã chỉ rõ: "Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100
năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ
mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hòà". Bản chất nhân dân của Nhà nước ta -
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước CHXHCN Việt Nam - do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập là thành quả của các phong trào yêu nước của nhân dân ta
chống phong kiến và ngoại xâm, là thành quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Ngay từ đầu
và trong quá trình hiện diện của mình, Nhà nước không chỉ là của riêng giai cấp công
nhân, mà còn là đại biểu ý chí, tâm nguyện và trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam. Quan
điểm xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nhân dân là chủ thể quyền lực, nhà
nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân
tộc vào sự nghiệp chung chứ Nhà nước không phải là nơi để "thăng quan, phát tài",
chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Người khẳng định: "Bao nhiêu quyền hạn đều
là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra"...
Đã là nhà nước của dân thì chính quyền ấy nhất thiết phải do dân quyết định, tức là
nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua
các đại biểu của mình. Đó là những hình thức cơ bản của nền dân chủ. Dân chủ vừa là
thành quả đấu tranh cách mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người
"Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân... làm cho mọi
người công dân Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước". Chính quyền
của nhân dân phải do nhân dân tự tay mình thực hiện. Như vậy nền tảng xã hội sâu và
rộng, ý thức chính trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân là yếu


tố đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là "Có việc gì
thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người
theo hơn thì được. Ấy là dân chủ". Phải chăng, phương châm chúng ta đang thực hiện
"dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chính là thể hiện tư tưởng của Bác Hồ về dân
chủ, thực hành dân chủ.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước
phải căn cứ vào chỗ bộ máy nhà nước giải quyết những nhu cầu thiết yếu hằng ngày
của dân chúng tốt hay chưa, có vì lợi ích của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân
dân hay không. Trong điều kiện có chính quyền, Người đã tiên lượng: "Dù to hay nhỏ,
có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi
tư". Thực chất những căn bệnh đó là vi phạm quyền làm chủ của nhân dân lao động, là
độc tố phản văn hoá đi ngược lại bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngoài
việc giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, "Pháp luật phải thẳng tay trừng
trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì" (*), còn phải là
công việc thường xuyên, liên tục và được đông đảo quần chúng nhân dân cùng tham
gia kiểm soát, giám sát mọi hoạt động của bộ máy nhà nước để phòng tránh tha hóa
quyền lực và chống giặc "nội xâm" đó có hiệu quả.
Để Nhà nước ta luôn trong sạch vững mạnh, điều không thể thiếu mà Bác Hồ luôn đặc
biệt quan tâm xây dựng, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn là những "công
bộc" của nhân dân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân; "việc gì có lợi cho dân phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh". Bởi xét tới cùng cán bộ luôn là cái
gốc của mọi công việc. Do đó, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ,
đặc biệt biết sử dụng nhân tài "vừa hồng vừa chuyên" là một khâu quan trọng để hoàn
thiện bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn chúng ta đang xây dựng Nhà nước Pháp
quyền XHCN. Đảng phải có cơ chế, chính sách để sớm phát hiện và bồi dưỡng các tài
năng giới thiệu vào các cơ quan nhà nước... Người yêu cầu : "Làm cán bộ tức là suốt
đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc
đâu, phải học mãi, học suốt đời mới được".
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người về xây dựng
Nhà nước của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị. Giá trị trường tồn của

những luận điểm đó không chỉ soi sáng mà còn là sự tiếp sức để quyết tâm chính trị của
Đảng và Nhà nước ta vững tin trong tiến trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN -
một bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, "một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ ra sức
làm việc" đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, nhằm thực hiện mục tiêu, dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ trong chính trị
Ngày cập nhật: 07-04-2010
Dân chủ là một vấn đề có tính thời đại và thời sự sâu sắc, nhất là trong sự phát triển của xã hội hiện đại
ngày nay. Dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản, để đánh giá sự tiến bộ của mọi thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng địng: dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân, nó có vai trò tác động to lớn đối với sự phát triển
của con người và xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng vấn đề dân chủ, thấy được tầm quan trọng của nó trong đời
sống xã hội và coi dân chủ là mục đích chính trị trực tiếp của cách mạng. Đời sống xã hội cần đến dân
chủ trong mọi lĩnh vực hoạt động của nó, trước hết là trong chính trị và kinh tế. Đây là hai bộ phận quan
trọng của hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của kinh tế tùy thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó
không thể thiếu vai trò của dân chủ đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà hạt nhân là lợi ích của
các chủ thể kinh tế. Cũng như vậy, dân chủ trong chính trị nhằm thúc đẩy chính trị phát triển. Chính trị
là những hoạt động liên quan đến lợi ích của các giai cấp, đảng phái, dân tộc, quốc gia, mà vấn đề
quan trọng nhất của nó là tổ chức chính quyền Nhà nước. Cho nên, thiếu dân chủ trong chính trị tất sẽ
dẫn đến chính trị độc tài, chuyên quyền, sẽ đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại.

Tư tưởng dân chủ chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thấm nhuần sâu sắc bản chất giai cấp công
nhân và tinh thần thời đại, vừa thể hiện đặc sắc những giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp
thu một cách sáng tạo những tinh hoa của giá trị dân chủ nhân loại.

Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ được kiến giải một cách giản dị, dễ hiểu. Người
không định nghĩa dân chủ theo kiểu hàn lâm, bác học nhưng lại phản ánh được chiều sâu giá trị lý luận
của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt giản dị định nghĩa khái niệm dân chủ: Dân chủ là dân là chủ
và dân làm chủ. Đây được xem là một định nghĩa kinh điển về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh -

một định nghĩa ngắn gọn, nhưng lại bao quát đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất của dân chủ. Định
nghĩa này đã nhấn mạnh chủ thể chân chính của chế độ mới là nhân dân. Họ trở thành người chủ của
đất nước.

Dân là chủ đã khẳng định rõ ràng địa vị người chủ trong chế độ chính trị, trong xã hội và Nhà nước
thuộc về người dân. Dân là chủ đối lập với nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến cũng
như thân phận nô lệ trong tình cảnh bị bọn thực dân thống trị.

Dân là chủ còn biểu hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của người dân.

Nhưng nếu dân chủ chỉ dừng lại ở chỗ Dân là chủ thì chưa hoàn thiện mà còn là Dân làm chủ. Làm chủ
phản ánh năng lực thực thi dân chủ của người dân. Năng lực đó được biểu hiện ở trình độ văn hóa,
bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm...; đó là nội hàm của năng lực dân chủ, thể hiện hành vi làm chủ. Chính
địa vị người chủ và năng lực làm chủ đã khái quát đầy đủ nhất trong nhận thức về dân chủ của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Làm chủ nó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành dân chủ, thước
đo về trình độ phát triển ý thức dân chủ của dân với tư cách là chủ thể quyền lực, thực hiện sự ủy
quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị và thể chế Nhà nước.

Địa vị và năng lực đó biểu hiện ra trong sự vận động của chính trị đó là: “Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân... Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (1). Như vậy, dân là chủ thể gốc của quyền lực và Nhà
nước là chủ thể đại diện cho dân. Nhà nước là một vật thể mà dân là chủ sở hữu, là chủ thể ủy quyền,
Nhà nước thực hiện sự ủy quyền của dân.

Thực hiện sự kết hợp và thống nhất năng lực và địa vị của người chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân
dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân” (2). Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ là gì. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” (3). Và: “Nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có
quyền nói” (4). Hay như: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ” (5) và “Nhiệm vụ của
chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”, “Chính quyền dân chủ có nghĩa chính là quyền do người
dân làm chủ” (6)

T.tHCM về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người
mới.
Mọi người chia sẻ những bài liên quan vào đây, đừng post lung
tung nha. Thank you!
Bài 1:
. TƯ TƯỞNG Hồ Chí Minh VỀ ĐẠO ĐỨC
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng
- Đạo đức là “gốc” nền tảng của mỗi con người
- Đạo đức có vai trò quan trọng trong xã hội
- Vai trò của đạo đức còn được thể hiện trong chức năng điều chỉnh
b. Những phẩm chất đạo đưccs của con người Việt Nam trong thời
đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Trung với nước, hiếu với dân
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
- Yêu thương con người
- Tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng thủy chung
c. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
- Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
- Xây dựng đạo đức mới đi đôi với chống hành vi vi phạm đạo đức
- Tư dưỡng đạo đức suốt đời
. QUAN ĐIỂM CHUNG CỦA Hồ Chí Minh VỀ VĂN HÓA.
a. Quan điểm về vị trí vai trò của văn hóa
- Văn hóa là gì?
- Văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh (ĐN Hồ Chí Minh đưa ra năm
1942- 1943)
- Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội
- Chính trị xã hội có được giải phóng thì văn hóa mí được giải phóng...
- Xây dựng kinh tế để tạo đk xây dựng và phát triển của văn hóa
- Văn hó k thể dứng ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị, thúc đẩy kinh
tế và chính trị phát triển

b. Quan điểm về tính chất của văn hóa
- Tính dân tộc ( bản sắc văn hóa dân tộc)
- Tính khoa học
- Tính đại chúng
c. Quan điểm về chức năng của văn hóa
- Bồi dưỡng tư tưởng đúng và tình cảm cao đẹp
- Nâng cao dân trí
- Bòi dưỡng phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh luôn hướng co
người đi tới chân, thiện mỹ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân 16:44', 18/11/ 2003
(GMT+7)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là
kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết
hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác- Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực:
từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi
cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước.
Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do
đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và
làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu
cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung
ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi
miễn.
Vì sao dân có quyền hạn to lớn như vậy? Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người
đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không
thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ

của nước.
Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn
mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ
Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát
triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của
Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa
gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo
vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Làm thế nào để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Đây là vấn đề được Hồ Chí
Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực
lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng
trước Cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác- Lênin, chưa có cuộc cách mạng
nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi
họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực
hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt
khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu" và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ
không thể thực hiện được vai trò làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm
chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ
thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội
ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc 16:10', 11/11/ 2003 (GMT+7)
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất
quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần

cụm từ "đoàn kết", "đại đoàn kết" trong các văn bản viết. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn
kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn
mạnh sức mạnh của đoàn kết: "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi".
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!"
Năm 1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc nhân buổi ra mắt
Đảng Lao động Việt Nam: "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Như vậy, đoàn kết toàn dân là một đường lối lãnh đạo
của Đảng. Không dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
khẳng định nhiệm vụ của toàn Đảng là giữ gìn sự đoàn kết. Trong Di chúc, Người dặn lại
chúng ta "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình".
Dân tộc Việt Nam được hiểu là mỗi người dân Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở Việt Nam và
những người Việt sinh sống, làm ăn ở nước ngoài có gốc gác là người Việt Nam, không phân
biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số, họ theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, không
phân biệt họ giàu hay nghèo, họ là nam hay nữ, già hay trẻ. Đại đoàn kết toàn dân tộc có
nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một mục tiêu chung. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải
đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục
vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ".
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi nhưng phải xác định lực lượng nào là nền tảng
của khối đại đoàn kết. Người chỉ rõ "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết".
Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Mặt trận là nơi
quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt trong nước và
ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh
phúc của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn mọi người phải khắc phục đoàn kết xuôi chiều,
hình thức, đoàn kết thiếu đấu tranh với những mặt chưa tốt. Người viết: "Đoàn kết thật sự
nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa
đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê
bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân". Người cổ vũ mọi người vào Mặt trận Việt Minh:
Dân ta phải nhớ chữ đồng: "đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh".
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, cách mạng nhất, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận Dân tộc
thống nhất đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết
bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta
có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và
yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta".
Đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế và là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết
quốc tế. Ngược lại, đại đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách
mạng Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
HCM Câu 14 Tthcm về đạo đức? Vận dụng tư tưởng
nhân văn - đạo đức HCM trong điều kiện đất nước
hiện tại?
Wednesday, 21. October 2009, 06:00
1. Những quan điểm chung của HCM về văn hóa.
+ Văn hóa là toàn những sáng tạo và phát minh. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nói mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Văn hóa là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là đời sống tinh thần của xh. Chính trị,
xh được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường
cho văn hóa phát triển. HCM đã vạch ra đường lối: phải tiến hành cách mạng chính trị
trước, cụ thể là cách mạng gpdt để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hóa, mở
đường cho văn hóa phát triển. "Xã hội thể nào thì văn hóa thế ấy. Văn nghệ của ta rất
phong phú, nhưng dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, thì văn
nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được."

Xây dựng kt để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa. "Văn hóa là kiên
trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xh có kiết thiết rồi thì văn hóa mới được
kiến thiết và có đủ điều kiện phát triển được". Như vậy, văn hóa phải ở trong kt và
chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển
kinh tế.
Trong kháng chiến, Người định hướng hoạt động văn hóa, thực hiện khẩu hiệu: "văn
hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa", những người hoạt động văn hóa cũng
là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa.
+ Chức năng của văn hóa.
- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người.
Người thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng cho cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân. Đó là chức năng cao quý của văn hóa. HCM nói phải làm cho văn
hóa soi đường cho quốc dân đi, đi sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng tình cảm cho
con người.
- Hai là, nâng cao dân trí, "mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình...phải có kiến
thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ". Khi miền bắc quá độ lên CNXH, người nói "chúng ta phải
một nước dốt nát, cực khổ thành 1 nước văn hóa cao và đời sống vui tươi hạnh phúc".
- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng
con người vươn tới chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình.
+ Tính chất của văn hóa:
Tính dân tộc
Tính khoa học
Tính đại chúng
2- Tthcm về 1 số lĩnh vực chính của văn hóa
+ Văn hóa giáo dục: Trong nền giáo dục phong kiến, kinh viện xa rời thực tiễn, coi
kinh sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức. Giáo dục phong kiến hướng tới kẻ sĩ,
người quân tử, bậc trượng phu, phụ nữ bị tước quyền học. Trong nền giáo dục thực
dân, không mở mang trí tuệ, thực hiện ngu dân. Đó là nền văn hóa đồi bại, xảo trá và
nguy hiểm hơn cả sự dốt nát.

Nền giáo dục của nước VN sau khi được độc lập là nền giáo dục mới.
- Mục tiêu của giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng dạy và học. Đó
là đào tạo những con người mới có đức có tài. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ.
Cải tạo tri thức cũ, đào tạo tri thức mới. Đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách
mạng x/dựng đất nước giàu mạnh và văn minh. Mở mang dân trí từ việc xóa nạn mù
chữ, chống giặc dốt, kết hợp phổ cập và nâng cao.
- Phải cải cách giáo dục, xây dựng hệ thống trường, lớp với chương trình và nội dung
dạy học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với bước phát triển của ta. Phải luôn gắn giáo
dục với thực tiễn VN, học đi đôi với hành, học kết hợp với lao động sản xuất. Giáo dục
phải có tính định hướng đúng đắn, rõ ràng, thiết thực.
- Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo
và đào tạo lại. "Học không biết chán, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học"
- Phải không ngừng nâng cao dân trí. Học tập văn hóa gắn với học tập khoa học kỹ
thuật.
+ Văn hóa văn nghệ:
- Văn nghệ là mặt trận, nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong
đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xh mới, con người mới. "Ngòi bút của các bạn
cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà". "Cũng như các chiến
sỹ khác, chiến sỹ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự tổ quốc, phụng sự
kháng chiến, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm tròn nhiệm vụ,
chiến sỹ nghệ thuật cần có lập trường vững vàng, tư tưởng đúng...đặt lợi ích của kháng
chiến, của tổ quốc, của nhân dân lên trên hết."
- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. "Thật là 1 thế giới thần tiên.
Nhưng tôi nhớ mường tượng như Lỗ Tấn, nhà đại văn hào của cách mạng Trung Hoa
đã nói 1 câu đại ý như thế này: Người trần lên tiên có lẽ cũng thích thật. Nhưng nhìn
mãi cái đẹp không thay đổi rồi cũng thấy chán, thấy nhật nhẽo và mới biết rằng muốn
tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật thì phải trở về với cuộc sinh hoạt thực tại của con
người." Thực tại đem lại nguồn sinh khí vô tận cho văn nghê. Chiến sỹ văn nghệ phải
thật hòa mình với quần chúng và không được quên rằng "...chỉ có nhân dân mới nuôi
dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên

điều đó-thì nhân dân cũng sẽ quên anh ta." Thực tiễn không chỉ là nguồn nuôi dưỡng
những sáng tác, mà còn là những tinh hoa trong sáng tác dân gian đã được chắt lọc từ
thế hệ này qua thế hệ khác. Nhân dân cũng sáng tác văn hóa văn nghệ và hưởng thụ văn
nghệ, chúng ta thường gọi là sáng tác dân gian. Những sáng tác ấy là "những hòn ngọc
quý".
- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của
dân tộc. Phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp của cách mạng của nhân dân.
"Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình
thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì bổ ích". "Cần làm
cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn 1 món
thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người thấy nhiều loại hoa đẹp." Như vậy
văn nghệ phản ánh chân thực những gì đã có trong đời sống của nhân dân, mà còn
hướng dẫn nhân dân loại bỏ cái giả, cái sai, cái không đúng, để vươn tới cái lý tưởng,
đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Chính điều đó mở đường cho
sáng tạo không giới hạn của văn nghệ sĩ.
+ Văn hóa đời sống
Quan điểm xây dựng đời sống mới thực sự là quan điểm độc đáo của HCM về văn hóa.
Khái niệm đời sống mới bao gồm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới, ba
nội dung ấy có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu.
- Đạo đức mới. Theo HCM là thực hành đời sống mới cần, kiệm, liêm chính.
- Lối sống mới. Đó là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp
của dt và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Cần phải "sửa đổi những việc rất cần thiết, rất
phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở,
cách đi lại, cách làm việc". Năm cách phải sửa đổi...có nghĩa là nói về mặt văn hóa của
ăn, mặc, ở...Mặt văn hóa của ăn, mặc, ở...phụ thuộc vào lối sống có văn hóa hay không
có văn hóa của con người.
- Nếp sống mới. Quá trình xây dựng lối sống mới làm cho nó dần dần trở thành thói
quen ở mỗi người, thành phong tục tập quán của cả cộng đồng trong phạm vi địa
phương hay cả nước gọi là nếp sống mới. Nếp sống mới phải kế thừa những truyền
thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục lâu đời của nhân dân ta. Cái gì cũ mà xấu thì

bỏ. Cái gì cũ mà không xấu thì phải sửa đổi cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phát triển
thêm. Cái gì mới mà hay thì phải làm.
Câu 15 Tt HCM về xây dựng nền văn hóa mới, con
người mới? Vận dụng tthcm trong việc xây dựng nền
văn hóa mới hiện nay?
Wednesday, 21. October 2009, 04:54
1- Tthcm về xây dựng nền văn hóa mới, con người mới:
- Tthcm về xây dựng nền văn hóa mới bao gồm nhiều lĩnh vực, trong đó có 3 lĩnh vực
chính là văn hóa giáo dục, văn hóa nghệ thuật và văn hóa đời sống mới. Người nói: Xã
hội XHCN mà chúng ta sẽ xây dựng là 1 xh có một trình độ phát triển kt rất mạnh và
ngày càng hiện đại, đồng thời còn có 1 trình độ văn hóa rất cao, rất toàn diện và rất sâu
sắc. Nền văn hóa mới đó thể hiện sự văn minh và tính ưu việt của CNXH. Nhân dân lao
động là chủ thể sáng tạo và cũng là chủ thể hưởng thụ nền văn hóa XHCN đó.
- Tthcm rất coi trọng vấn đề xây dựng con người mới tương ứng với 1 chế độ xh mới.
Người đã nhiều lần chỉ rõ: Muốn xây dựng CNXH phải có con người mới XHCN.
Người coi việc xây dựng con người mới XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của
CNXH. Con người mới XHCN có các đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Có ý thức và trình độ, năng lực làm chủ.
+ Là người lao động mới, có tri thức, có năng lực thực hành, có sức khỏe, làm việc có
hiệu quả và chất lượng.
+ Là người sống có văn hóa, có tình nghĩa, đạo lý, có kỷ luật và trách nhiệm;
+ Là người có tinh thần yêu nước trong sáng và tinh thần quốc tế chân chính;
2-Vận dụng tthcm trong việc xây dựng nền văn hóa mới hiện nay:
Vận dụng tthcm về văn hóa, trong nhiều nghị quyết của Đảng và nhà nước, nhiều lần
đã chỉ rõ: phải chú trọng xây dựng và phát triển nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản
sắc dt và xây dựng con người mới XHCN.
Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới theo tthcm tron giai đoạn hiện nay là:
a) Giáo dục tinh thần yêu nước và yêu CNXH, có ý chí phấn đấu vươn lên làm cho đất
nước thoát khỏi tình trạng kt nghèo nàn lạc hậu, làm cho đất nước VN trở thành một
quốc gia dân giàu, nước mạnh, xh công bằng dân chủ và văn minh, sánh vai cùng các

quốc gia tiên tiến trên TG.
b) Bồi dưỡng TG quan, phương pháp luận của CNMLN và tthcm.
c) Giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống cao đẹp, có nhân phẩm, lương tâm, danh dự,
giản dị, tiết kiệm. Sống và làm việc theo p/luật.
d) Về nhân văn: bồi dưỡng tinh thần nhân ái, khoan dung, đoàn kết, tương thân tương
ái, chân thành giúp đỡ lẫn nhau.
e) Về văn hóa: có thói quen tự học chủ động sáng tạo; biết tự rèn luyện mình, nâng cao
trình độ dân trí về mọi mặt, phù hợp với tri thức thời đại; vươn lên chiếm lĩnh các thành
tựu về khoa học kỹ thuật tiên tiến trên TG; biết giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dt
trong quá trình hội nhập.
f) Dũng cảm đấu tranh chống và xóa bỏ từng bước các tệ nạn và tiêu cực xh, làm cho
môi tường xh ngày càng trong sạch lành mạnh...
HCM: Câu 13: Tthcm về đạo đức? Vận dụng tư
tưởng nhân văn - đạo đức HCM trong điều kiện đất
nước hiện tại?
Wednesday, 21. October 2009, 09:12
1. Vị trí, vai trò, sức mạnh của đạo đức:
Đạo đức là 1 trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của HCM trong sự nghiệp
CMVN.
- Đánh giá của đảng ta về tư tưởng đạo đức của HCM:
Năm 1951, Đại hội 2, tư tưởng của HCM là đường lối chính trị của đảng ta; đạo đức
của HCM là đạo đức của đảng; tác phong của HCM là nền nếp làm việc của đảng ta.
Năm 1960, đại hội 3, toàn đảng ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, tác phong của HCM.
Năm 1982, Đại hội 5 toàn đảng học tập 1 cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác
phong của HCM.
Năm 2001, đại hội 9 phát động phong trào học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, tác
phong của HCM. Tư tưởng của Chủ tịch HCM nói chung là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ Nam cho hành động của đảng ta. Tư tưởng đạo đức là bộ phận kết tinh của tư tưởng
HCM nói chung.
- Các thế hệ người vn phấn đấu cho độc lập dt đến với HCM trước hết là đến với tư

tưởng đạo đức của người. "Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gường Bác hồ vĩ
đại" là khẩu hiệu chung của người VN.
- Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của HCM là kết tinh đạo đức của dt, của nhân
loại. HCM là điểm sáng về đạo đức đối với TG và đối với VN. Bác nói: "Đối với
phương đông, một tấm gương sống còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền."
- Bác hồ luôn kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục lý tưởng cách mạng.
- Vấn đề đạo đức của HCM được quan tâm toàn diện: đối tượng, phạm vi, tất cả các
lĩnh vực hoạt động người.
HCM coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn
nguồn của sông, của suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và
đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm
vụ cách mạng. Bởi lẽ con đường đi đến độc lập dt và CNXH là con đường dài, đòi hỏi
sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ và nhiều thế hệ nối tiếp nhau.
Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy là công việc thường xuyên của toàn đảng,
toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xh ta.
Theo Lênin, "đạo đức là những gì góp phần phá hủy xh cũ của bọc bóc lột và góp phần
đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xh
mới của những người cộng sản."
HCM cho rằng, đảng "là đạo đức, là văn minh", thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ
vang của minh. Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dt
mình và của thời đại. Trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về CNMLN, tri thức hiện đại của
nhân loại, thực tiễn VN và TG, những quy luật phát triển của CMVN, những hiểu biết
để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất mà con người
cần có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dt và CNXH. Muốn làm cách mạng
thì con người cần có tâm trong sáng, đạo đức cao đẹp đối với GCCN, nhân dân lao
động, với cả dt. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối q/hệ xh hằng ngày với dân, với
nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung quanh mình. Phải có tâm có đức
mới giữ được CNMLN và đưa chủ nghĩa MLN vào trong cuộc sống.
HCM cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân
lao động. Tùy theo từng thời kỳ cách mạng mà người đề ra những yêu cầu đạo đức sát

hợp để mọi người cùng phấn đấu. Trong cuốn Đường kách mệnh, bài đầu tiên nói về tư
cách người cách mệnh. HCM đã nêu 1 quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí,
và khi có trí thì cái đức đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà
mình đã giác ngộ, chấp nhận, đi theo. Có đức nhưng phải có tài, hồng và chuyên phải
kết hợp. Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dt và
CNXH.
2- Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người VN trong thời đại mới.
+ Trung với nước, hiếu với dân.
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân
dân, với dt là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm
nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng, đạo đức truyền thống VN và
phương đông. HCM vận dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia trung là trung với
vua, vì vua và nước là một, nước là của vua. Con hiếu chỉ trong phạm vi gia đình là con
cái có hiếu với cha mẹ. HCM đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt
trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của
dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu
lợi ích đều vì dân".
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn hy sinh độc lập tự do của tổ quốc, vì
CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi
người VN.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho đảng, cho cách mạng, đó là điều
chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thành với đảng, với dân, phải tận
trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của

×