Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nghiên cứu một số giải pháp xúc tiến tái sinh các trạng thái rừng phục hồi tự nhiên trên địa bàn huyện đại từ thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.24 KB, 114 trang )

đại học thái nguyên
trờng đại học nông lâm
----------

---------

HONG QUANG HNG

"Nghiờn cu mt s gii phỏp xỳc tin tỏi sinh cỏc trng thỏi rng
phc hi t nhiờn trờn a bn huyn i T - Thỏi Nguyờn"

LUậN VĂN TốT NGHIệP THạC Sĩ
Hệ đào tạo:
Chuyên ngành:
Khoa:
Khoá học:

Chớnh quy
Lõm Nghip
Sau i hc
2008-2011

Hng dn khoa hc:
1. PGS.TS. ng Kim Vui
2. ThS. Nguyn Thanh Tin

Thái Nguyên, năm 2011


Lời cảm ơn!
Đào tạo nâng cao trình độ học vấn là cần thiết với mỗi con người nói


chung và đào tạo trình độ thạc sỹ lâm nghiệp của trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên nói riêng. Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Khoa Sau
Đại học – Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên đến nay tôi đã hoàn thành
luận văn tốt nghiệp .
Để hoàn thành luận văn thạc sỹ khoa học Lâm Nghiệp, tôn xin trân thành
cảm ơn Ban giám đốc Đại học Thái Nguyên; Ban giám hiệu nhà trường, Khoa
sau Đại Học cùng toàn thể các thầy cô đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho tôi
trong suốt thời gian theo học ở trường. Đặc biệt tôi xin trân thành cảm ơn
PGS.TS: Đặng Kim Vui – Đại học Thái Nguyên; ThS. Nguyễn Thanh Tiến
Khoa Lâm Nghiệp – Trường ĐH Nông Lâm đã tận tình giúp đỡ hướng dẫn tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôn xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ vô cùng quý báu của Đảng ủy,
HĐND – UBND cùng các ban, ngành đoàn thể của xã Quân Chu; xã Hoàng
Nông - huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã giúp đỡ, cung cấp thông tin trong
suốt thời gian tôi nghiên cứu đề tài.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và trân thành tới những sự
giúp đỡ quý báu đó.
Tác giả
Hoàng Quang Hưng


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay việc bảo vệ môi trường nói chung và rừng nói riêng là vấn đề
cấp bách của hành tinh chúng ta. Sự tồn tại và phát triển của loài người gắn
với môi trường đã trải qua những biến đổi đang diễn ra gay gắt đe dọa sự tồn
vọng của nhân loại. Những điều kiện cho sự sinh sống trên trái đất đang cạn
kiệt dần. Tài nguyên bị tàn phá, đất bị xói mòn rửa trôi, nguồn nước bị ô
nhiễm, tầng ozon của khí quyển của khí quyển bị suy giảm… dẫn đến nhiệt

độ không khí tăng dần và thay đổi khí hậu của toàn cầu. Hậu quả đang đè
nặng lên vai nhân loại. Đây cũng chính là những vấn đề cần phải nghiên cứu
và có giải pháp hữu hiệu tại Việt Nam.
Vấn đề tái sinh phục hồi ở nước ta đã đặt ra từ rất sớm từ đầu những năm
50 đến 60 của thế kỷ 20 và được sử dụng với cụm từ "Khoanh núi nuôi rừng".
Tuy nhiên trong một thời gian dài, ngành nông nghiệp phải tập trung khai thác
rừng tự nhiên để phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển miền Bắc,
đồng thời chi viện cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đầu năm 1980 "Khoanh núi nuôi rừng" mới được định hình và chuyển hướng
thành thuật ngữ mới là: Phục hồi rừng bằng "Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh".
Với đòi hỏi ngày càng bức bách của thực tiễn sản xuất, các kết quả
nghiên cứu khoa học không chỉ là tiền đề cho các hoạt động khoanh nuôi
phục hồi rừng mà còn đặt nền móng cho sự đổi mới trong nhận thức về vấn đề
tái sinh phục hồi rừng.
Sự chuyển hướng và đổi mới trong lĩnh vực phục hồi rừng đã được pháp
lý hóa thông qua 3 tiêu chuẩn ngành được ban hành trong những năm 1990,
bao gồm " Quy phạm các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản
xuất gỗ và tre, nứa(QPN 14 - 92) Ban hành theo quyết định số 200/QĐ - KT
ngày 31/03/1993 của Bộ lâm nghiệp.
Quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp
trồng bổ sung.
Theo quá trình diễn thế, sau khi phải chịu những tác động phi tự nhiên phá
vỡ bằng sinh thái, với khả năng tự điều chỉnh tự nhiên và cơ chế nội cân bằng
sinh thái thì nó có xu hướng vận động thiết lập một trạng thái cân bằng
mới(gần giống trạng thái ban đầu) quá trình được gọi là diễn thế phục hồi.
Nhưng với tác động quá mạnh vượt ra ngoài ngưỡng tự điều chỉnh của hệ sinh
thái rừng thì quá trình phục hồi lại sẽ rất chậm hoặc thậm chí nó không xảy ra.


2


Trong bối cảnh đó, các vấn đề nghiên cứu được đặt ra như sau:
- Hoạt động phục hồi rừng là các hoạt động có ý thức của con người
nhằm phục hồi lại các hệ sinh thái rừng đã bị con người tác động và khai hóa.
- Hiệu quả kinh tế của việc quản lý bảo vệ phục hồi rừng
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu một số giải pháp xúc tiến tái sinh các trạng thái rừng phục
hồi tự nhiên trên địa bàn huyện Đại Từ - Thái Nguyên"


3

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Thế giới
Theo thống kê FAO năm 2000 đất sản xuất bị mất đi 20% do sự can thiệp
của con người trên 50 x 108ha đất có thực bị thoái hóa, làm cho chức năng
phục vụ hệ sinh thái rừng trên lục địa bị ảnh hưởng tới 43% trong đất có độ
che phủ thực bì có 20 x 108 ha bị thoái hóa(chiếu 17% diện tích có thực bì trên
địa cầu kể cả thực bì nhân tạo)…đất hoang mạc hóa toàn cầu là 30 x 108ha.
Diện tích mưa rừng nhiệt đới bị thoái hóa là 4,27 x 108. Hàng năm chi phí đầu
tư cho phục hồi tái sinh rừng là 10 - 20 tỷ USD, hàng năm tốc độ sa mạc hóa
đạt đến một con số kinh khủng 5 x 104 - 7 x 104 Km2. Do sự can thiệp quá
mức của con người, đất có rừng che phủ đang bị suy thoái trên diện tích lớn.
Lịch sử phát triển của nền lâm sinh học nhiệt đới, các nhà lâm học đã
không ngừng nỗ lực để tìm một hướng đi an toàn cho rừng mưa nhiệt đới.
Cùng với sự phát triển đó phục hồi rừng là vấn đề có bề dày lịch sử. Nó được
đề cập từ rất sớm từ 100 năm nay trên nhiều lĩnh vực quản lý núi đồi, đồng
cỏ, rừng và sinh vật hoang dã. Philep 1883 đã xuất bản cuốn phục hồi rừng.
Leopald(1935) đã nghiên cứu phục hồi 24ha đồng cỏ. Ông cho rằng hệ sinh

thái phải được bảo vệ một cách hoàn chỉnh, quần thể sinh vật phải ổn định và
đẹp.
Phục hồi rừng đã trở thành vấn đề nóng bỏng từ thập kỷ 80 của TK20
năm 1985 thành lập một Hiệp hội khoa học phục hồi hệ sinh thái quốc tế.
Lĩnh vực khoa học này đã được bắt đầu từ đó. Từ năm 1990 những tác phẩm
về phục hồi sinh thái của PengWeilin đã được xuất bản.
Do sự suy thoái rừng có rất nhiều mức độ nên các hoạt động phục hồi cũng
rất đa dạng, điều này phụ thuộc vào hiện trạng của rừng khi tiến hành phục
hồi. Trong lâm sinh nhiệt đới các biện pháp kỹ thuật phục hồi rất đa dạng
nhưng cơ sở xuyên suốt của các biện pháp đó là việc vận dụng tái sinh tự
nhiên hay nhân tạo hay sự vận dụng cả hai hình thức tái sinh này phụ thuộc
vào từng quốc gia, từng lập địa cụ thể.
Bên cạnh việc vận dụng tái sinh nhân tạo, việc vận dụng tái sinh tự nhiên
cũng diễn ra rất mạnh mẽ ở các khu vực rừng mưa trong việc phục hồi lại hệ
sinh thái rừng. Nó được biểu hiện thông qua các hệ thống kỹ thuật lâm sinh
gần với tự nhiên được áp dụng ở các nước nhiệt đới hay chính là một số


4

phương thức khai thác đảm bảo tái sinh. Những kỹ thuật này đại diện cho việc
phục hồi lại rừng trong điều kiện còn hoàn cảnh rừng, mục tiêu phục hồi còn
gắn chặt với mục tiêu kinh tế từ gỗ của rừng. Điển hình của một số hệ thống
kỹ thuật này là:
Ở Malayxia sau những năm 1940 - 1950 có phương thức rừng đều tuổi
(MUS: Malayan Uniorm System) mà thực chất là một kiểu chặt trắng ở nhiệt
đới. MUS là một kiểu chặt trắng của Malaysia ra đời và thực hiện rộng khắp ở
những rừng cây họ Dầu vùng đất thấp. Phương thức này được dựa trên một
tiền đề tái sinh của các loài cây mong muốn đã có sẵn trên mặt đất rừng chưa
khai thác. MUS đòi hỏi những loài cây tái sinh phải có khả năng thích ứng với

sự giải phóng độ tàn che của tầng cây cao, đặc biệt là sau khi khai quang tầng
rừng giữa đồng thời phải giữ được độ che phủ của tầng lâm hạ để khống chế
cỏ dại. Phương thức này được đánh giá là thành công ở vùng thấp. Tuy nhiên,
khi xuất hiện cơ giới hoá trong khai thác, quá trình này đã làm tăng tổn hại
cho những cây còn lại . Đồng thời, do nhu cầu về gỗ của Malaysia ngày càng
cao dẫn đến yêu cầu về khai thác rừng mạnh lên và đơn điệu hơn. Trong một
số năm gần đây, đất rừng vùng thấp được chuyển sang mục tiêu sử dụng đất
khác nêm MUS được mở rộng tới những rừng cây họ Dầu ở trên núi cao hơn
(Buschbacher, 1990). Tại những vùng này MUS không thành công vì một số
lý do:
- Địa hình, địa thế khó khăn.
- Thiếu cây tái sinh mọc trên đất rừng trước khai thác.
- Tái sinh hạt sau khai thác không chắc chắn vì thiếu nguồn giống.
- Cây tái sinh bị chèn ép bởi các loài cây thứ yếu họ Cau dừa, tre nứa
v.v...
Sau thất bại này, ở Malaysia đã xuất hiện một vài biện pháp linh hoạt
hơn nhưng hiện chưa có cơ sở để đánh giá. Ví dụ điển hình như phương thức
chặt chọn. Đây là phương thức "chỉ thu hoạch những cây đã được lựa chọn".
Xét về mặt lâm sinh, phương thức này cố gắng giảm thiểu những tổn hại cho
cây tái sinh trong lúc thu hoạch và xác định chu kỳ khai thác hợp lý. Hiện tại
chu kỳ chặt của phương thức này là 25 - 35 năm và lượng chặt tối thiểu là 32
cây/ha cho những cây có D1.3 ≥ 50 cm ở những cây họ Dầu và D1.3 ≥ 45 cm
cho các loài khác, (Thang & Tambong, 1990).
Tại một quốc gia Nam Mỹ là Surinam có một thử nghiệm được tiến
hành trong vòng 17 năm giữa Trường Đại học Nông nghiệp Wagenigen (Hà


5

Lan) và Trường Đại học Tổng hợp Surinam hợp tác nghiên cứu xây dựng một

phương thức điều chế có tên gọi là "phương thức điều chế Celos" (CMS*).
Mục tiêu lâm sinh của CMS là tái sinh những loài cây mục đích, thúc đẩy sinh
trưởng của những loài mong muốn và duy trì cân bằng sinh thái quần thể
nhằm giữ ổn định sản lượng bằng cách duy trì rừng càng giống giai đoạn tự
nhiên càng tốt. Một điểm được nhấn mạnh là mục tiêu xử lý lâm sinh có thể
làm mất cân đối tỷ lệ các loài phi mục đích nhưng không tiêu diệt hẳn chúng.
Ưu điểm nổi bật của CMS là bảo toàn được cấu trúc rừng có hầu hết các cấp
tuổi, tạo ra được cách lựa chọn trong điều chế rừng. Những xáo trộn trong
rừng được hạn chế và dự trữ dinh dưỡng khoáng trong sinh khối chỉ bị vi
phạm một phần trong những tác động bắt buộc.
Vẫn còn một số hệ thống biện pháp nữa sử dụng phương pháp lâm sinh
để xúc tiến tái sinh phục hồi lại rừng mà đã được G. Baur [1] tổng kết khá đầy
đủ trong tác phẩm “Cơ sở sinh thái kinh doanh rừng mưa”. Tuy nhiên, các
phương pháp này được xây dựng là do sự nhiệt tình và kinh nghiệm của các
nhà lâm sinh nhiệt đới, chứ không phải được xây dựng trên cơ sở các thí
nghiệm có đối chiếu so sánh, cho nên đã có những bài học thất bại ở một số
nước. Do vậy, khi áp dụng những kỹ thuật này cho một vùng nào đó cần có
những thăm dò, thử nghiệm và những điều chỉnh trước khi đưa vào áp dụng
một cách rộng rãi.
1.2. Phục hồi rừng ở trong nước
1.2.1. Quan điểm về phục hồi rừng ở Việt Nam
Theo tác giả Trần Đình Lý (1995) [9], phục hồi rừng là một quá
trình sinh địa phức tạp gồm nhiều thời gian và kết thúc bằng sự xuất hiện một
thảm thực vật cây gỗ (hoặc tre nứa) bắt đầu khép tán. Nói một cách khác,
phục hồi rừng là quá trình tái tạo lại một hệ sinh thái, một quần xã sinh vật mà
trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành chủ yếu, nó chi phối các quá trình biến đổi
tiếp theo.
Chỉ tiêu định lượng xác định rừng non thứ sinh phục hồi đối với rừng
gỗ sử dụng quan điểm của Trần Đình Lý (1995) [13] là: độ tàn che của cây
gỗ có chiều cao từ 3m trở lên đạt 0,3. Đối với rừng vầu, nứa theo tiêu chuẩn

tại điểm c mục 2 điều 7 quy phạm QPN 21-98 [14] độ che phủ đạt trên 80%,
nhưng điểm bổ sung là độ che phủ tính cho cả vầu, nứa và cây gỗ hỗn giao.
Như vậy, phục hồi rừng là một quá trình bao gồm nhiều các biện pháp
kỹ thuật lâm sinh áp dụng liên hoàn nhằm mục đích thiết lập lại hệ sinh thái


6

rừng, những hiểu biết này được biểu hiện qua quá trình lịch sử hình thành các
biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng được trình bày ở phần sau.
1.2.2. Hiện trạng suy thoái tài nguyên rừng ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước trải qua sự biến đổi lớn về độ che
phủ của rừng trong nửa sau của Thế kỷ 20. Vào đầu những năm 1920, hầu
như toàn bộ miền núi được che phủ bởi rừng. Theo tài liệu mà Maurand P.
công bố trong công trình “Lâm nghiệp Đông Dương” thì đến năm 1943 rừng
nước ta vẫn còn khoảng 14,3 triệu ha, che phủ 43,7% diện tích lãnh thổ. Vào
thời kỳ đó độ che phủ ở Bắc bộ vào khoảng 68%, ở Trung bộ khoảng 44% và
ở Nam bộ vào khoảng 13%. Trước năm 1945, rừng nguyên sinh ở Việt Nam
bị phá hoại rất nhiều và chỉ còn lại ở những nơi xa xôi, hiểm trở, nhưng do
khả năng phục hồi của rừng rất cao nên những khu rừng già có trử lượng cao
(từ 250m3-300m3), vẫn còn khá phổ biến ở nhiều vùng miền núi Việt Nam.
Quá trình mất rừng xẩy ra liên tục từ năm 1943 đến đầu những năm 1990, đặc
biệt từ 1980-1995 diện tích rừng tự nhiên giảm mạnh, bình quân mỗi năm hơn
100 ngàn ha rừng bị mất (hình 3). Tuy nhiên, từ năm 1990 trở lại đây, diện
tích rừng đã tăng liên tục nhờ trồng rừng và phục hồi rừng tự nhiên. Đến năm
2004, diện tích rừng toàn quốc là 12,3 triệu ha, trong đó 10 triệu ha rừng tự
nhiên và 2,3 triệu ha rừng trồng (Xem biểu 2). Đất có rừng được qui hoạch
theo 3 loại rừng với cơ cấu hiện tại như sau:
• Rừng đặc dụng: 1,9 triệu ha, chiếm 15,4%
• Rừng phòng hộ: 5,9 triệu ha, chiếm 47,0%

• Rừng sản xuất: 4,4 triệu ha, chiếm 36,6%
Bảng 1.01. Biến động diện tích rừng qua các thời kỳ
Loại rừng

1943

1976

1980

1985

1990

1999

2004

2007

2008

2009

DTR (triệu ha)

14.0

11.1


10.5

9.3

8.4

9.4

12.3

12.8

13.1

13.2

Rừng tự nhiên

14.0

10.2

10.1

8.7

7.7

8.0


10.0

10.3

10.3

10.3

Rừng trồng

0.0

0.9

0.4

0.6

0.7

1.5

2.3

2.5

2.8

2.9


Độ che phủ (%)

43.0

33.8

32.1

30.0

27.2

33.2

36.7

38.2

38.7

39.1

(Nguồn: Viện Điều tra Qui hoạch rừng 1999; Bộ NN&PTNT 2009)

Nguyên nhân mất và suy thoái rừng thay đổi theo thời gian và theo vùng
sinh thái. Biểu 2 thống kê tỷ lệ phần trăm mất rừng do các nguyên nhân khác
nhau ở các vùng sinh thái, các nguyên nhân chính được kể đến trong biểu này


7


là: khai thác rừng quá mức, canh tác nương rẫy, chuyển đổi thành đất nông
nghiệp (đặc biệt để trồng cà phê, cao su và tiêu), di dân tự do, chiến tranh và
các dạng sử dụng khác.

Vùng

Khai thác quá
mức

Canh tác
nương rẫy

Chuyển đổi
thành đất nông
nghiệp

Di dân tự do

Chiến tranh

Chuyển sang
mục đích
sử dụng khác

Bảng 1.02. Nguyên nhân mất rừng theo các vùng sinh thái
Đơn vị tính; %
Tổng số

Đồng bằng Bắc bộ

Đông bắc
Trung tâm
Tây bắc
Bắc Trung bộ
Duyên hải Nam Trung bộ
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
ĐB sông Cửu Long

12
27
29
11
34
28
31
29
19

29
27
36
21
17
24
15
4

17
11

16
12
14
11
21
13
19

41
7
9
11
6
9
5
9
21

9
8
5
3
14
29
17
24
31

21
18

23
27
11
6
2
10
6

100
100
100
100
100
100
100
100
100

(Nguồn: Việt Nam, MOSTE, 1998. Báo cáo về hiện trạng môi trường Việt Nam năm 1998:
Hiện trạng suy thoái tài nguyên rừng, số 3, Bộ Khoa học, Công nghệ và Tài nguyên môi
trường, Hà Nội).

Biểu đồ ở hình 1 cho thấy sự gia tăng về tổng diện tích rừng và diện
tích rừng tự nhiên từ năm 1990. Đó là một thành tích đáng được ghi nhận.
Tuy nhiên, điều hiển nhiên là rừng tự nhiên phục hồi có chất lượng không
giống như rừng tự nhiên của nó trước đây, hơn nữa chất lượng của rừng tự
nhiên hiện còn vẫn đang tiếp tục bị suy giảm. Căn cứ vào trử lượng, rừng ở
Việt Nam được chia thành 3 nhóm:
• Rừng giàu với trữ lượng trên 150 m3/ha.
• Rưng trung bình có trữ lượng từ 80-150 m3/ha

• Rừng nghèo với trữ lượng dưới 80 m3/ha.
Theo Nguyễn Ngọc Lung (1998) thì 56% diện tích rừng tự nhiên Việt
Nam thuộc nhóm rừng nghèo, rừng trung bình chiếm 33% còn rừng giàu chỉ
chiếm 11%.


8

1.2.3. Lịch sử hình thành và phát triển của các biện pháp kỹ thuật phục hồi
rừng
Trước thực trạng diễn biến tài nguyên rừng như vậy, từ những năm đầu
tiên của thập kỷ 70, Tổng cục Lâm nghiệp đã ban hành một qui trình kỹ thuật
rất nổi tiếng lúc đó là qui trình "Tu bổ rừng". Đây là một giải pháp lâm sinh
học được xây dựng dựa trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm phục hồi rừng
sau khai thác ở các Lâm trường quốc doanh phía Bắc. Bởi vậy, tu bổ rừng lúc
đó được đánh giá là giải pháp kỹ thuật có tính "thực tiễn" cao.
Theo định nghĩa đã đặt ra".
Đối tượng tác động là rừng thứ sinh nghèo. Đây là đối tượng được hình
thành bởi nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng tu bổ rừng nhấn mạnh vào đối
tượng rừng tự nhiên sau khai thác chọn thô. Tu bổ rừng phải là một hệ thống
các biện pháp kỹ thuật bởi vì rừng sau khai thác chọn ở cường độ cao cấu
trúc bị xáo trộn, quá trình phục hồi lại phải trải qua những giai đoạn với
những biến đổi phức tạp về thành phần loài cây, hình thức tái sinh v.v... Do
vậy, sẽ không có một biện pháp kỹ thuật lâm sinh đơn lẻ nào đáp ứng được
tính phức tạp của quá trình phục hồi đó. Hơn nữa, quá trình phục hồi rừng
chịu sự chi phối tổng hợp của các nhân tố ngoại cảnh. Bởi vậy, các biện pháp
kỹ thuật phải được tác động một cách "tổng hợp" mới đáp ứng được nhu cầu
của cây rừng trong qua trình phục hồi. Tính "liên hoàn" trong kỹ thuật tu bổ
rừng thể hiện ở hai yếu tố: liên tục giải quyết những mâu thuẫn trong quá
trình phục hồi rừng và quá trình giải quyết những mâu thuẫn đó được lặp đi,

lặp lại nhiều lần.
Tu bổ rừng được đánh giá là giải pháp kỹ thuật lâm sinh rất có hiệu
quả nhằm xúc tiến tái sinh phục hồi rừng. Bởi vì, những tác động kỹ thuật của
nó được dựa trên một thực tế là nếu biết tác động đúng qui luật, rừng sẽ "hoàn
trả lại" cái chúng đã bị mất. Nhược điểm cơ bản của kỹ thuật này là thời gian
và đầu tư trong những năm "tu bổ" kéo dài. Mặt khác, mục tiêu của tu bổ rừng
là đúng nhưng trong kỹ thuật có nội dung "chặt hết cây bụi thảm tươi" là
không đúng vì trái với qui luật tự nhiên. Có lẽ đây là một trong những lý do
dẫn đến biện pháp kỹ thuật này bị bãi bỏ.
Cũng trong khoảng thời gian của những năm 1970 ý tưởng "khoanh núi
nuôi rừng" đã xuất hiện và về sau này từng bước ý tưởng đó được hoàn thiện
và được áp dụng phố biến cho đến nay thông qua "kỹ thuật phục hồi rừng
bằng khoanh nuôi" giải pháp này được hiểu là sự "tận dụng triệt để khả năng


9

tái sinh và diễn thế rừng tự nhiên để tạo lại rừng thông qua các biện pháp
ngăn chặn có tính chất hành chính các tác động từ bên ngoài như khai thác,
chặt phá, chăn thả, lửa rừng v.v.." (Qui phạm tạm thời về các giải pháp kỹ
thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất. Bộ Lâm nghiệp, năm 1988). Theo
cách định nghĩa này phục hồi rừng bằng khoanh nuôi thực chất là một giải
pháp kinh tế - xã hội trong đó bao hàm ý nghĩa lâm sinh học ở chỗ phải xác
định được tiêu chuẩn và điều kiện cho khoanh nuôi. Khi phân tích tiêu chuẩn
khoanh nuôi rừng, Nguyễn Luyện (1993) có đưa ra 3 nội dung:
- Tiêu chuẩn về điều kiện tự nhiên.
- Tiêu chuẩn về điều kiện sinh vật học.
- Tiêu chuẩn về diều kiện kinh tế - xã hội.
Trong 3 tiêu chuẩn này, tiêu chuẩn về kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn
khó xác định nhất.

Phục hồi rừng bằng khoanh nuôi là một biện pháp ít chi phí nhưng
mang lại lợi ích kinh tế và lợi ích sinh thái cao, đặc biệt là phục hồi tính đa
dạng sinh học của rừng. Đây còn là biện pháp áp dụng cho những nơi không
có điều kiện áp dụng các giải pháp kỹ thuật, cho những nơi có địa hình khó
khăn, những nơi không có kinh phí đầu tư để phục hồi rừng, … Tuy nhiên,
nhược điểm của giải pháp này là thời gian cho khoanh nuôi phục hồi rừng nên
là bao nhiêu và nếu qua khoảng thời gian nhất định rừng không phục hồi được
theo ý muốn sẽ xử lý như thế nào?.
"Phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ
sung" là tên gọi đầy đủ cho một giải pháp tổng hợp về kỹ thuật kinh tế xã hội
mới được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành (QPN 21 - 98).
Điều 2 của qui phạm này định nghĩa "khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp
trồng bổ sung trong qui phạm này được hiểu là một giải pháp lợi dụng triệt để
khả năng tái sinh, diễn thế tự nhiên để phục hồi rừng thông qua các biện pháp
bảo vệ, biện pháp kỹ thuật lâm sinh và trồng bổ sung cần thiết".
Đối tượng áp dụng của giải pháp này là đất lâm nghiệp đã mất rừng.
Quá trình tái sinh ở đây là “Bằng mọi cách để thu được tái sinh”. Như ta đã
biết Tái sinh luôn là một mắt xích quan trọng, một khâu yếu nhất trong các
phương thức lâm sinh. Việc xúc tiến tái sinh ở đây bao gồm cả hai, xúc tiến
tái sinh tự nhiên và tái sinh nhân tạo (trồng bổ xung). Như vậy, QPN 21 - 98
đã khắc phục được nhược điểm của qui phạm tạm thời 1998 và QPN 14 92.Trong qui phạm trước đây, khoanh nuôi phục hồi rừng được hiểu theo


10

nghĩa thụ động "chỉ cần bảo vệ mà không cần có tác động kỹ thuật trực tiếp".
Yếu tố con người ở đây chưa thể hiện rõ vai trò tích cực, nó hạn chế việc
nghiên cứu để tìm ra những tác động thúc đẩy một cách hữu hiệu quá trình tái
tạo lại rừng trong một khoảng thời gian xác định. Nhưng ở QPN 21 - 98 có
quy định rất rõ thời gian và tiêu chuẩn cho từng đối tượng cần phục hồi. Qua

đó, đưa ra mục tiêu cụ thể cần phải đạt được cho từng loại rừng trong một
khoảng thời gian xác định.
Nghiên cứu về khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt Nam.
Vào những năm 50 - 60 của thế kỷ trước vấn đề phục hồi rừng ở nước
tra đã được đặt ra với thuật ngữ ban đầu của nó “Khoanh núi nuôi rừng”. Tuy
nhiên vào các thập kỷ tiếp theo lâm nghiệp việt nam lại đi theo các hướng
trọng tâm khác nhau dẫn đến việc “khoanh núi nuôi rừng” vẫn chỉ là một
khẩu hiệu mặc dù cũng đã được đưa thành một nội dung trong giáo trình môn
lâm học giảng dạy cho sinh viên Lâm nghiệp khoá đầu tiên, nhưng ngay cả
khái niệm phạm vi đặt ra như thế nào? đối tượng là gì và ở đâu? cũng chưa
được định rõ. Mãi đến giữa những năm 80 cái được gọi là “khoanh núi nuôi
rừng” mới được định hình và chuyển hướng theo cụm thuật ngữ mới là: “
phục hồi rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh” hay “khoanh nuôi xúc tiến tái
sinh phục hồi rừng”. Sự chuyển hướng đó được chú ý bằng 2 đề tài nghiên
cứu thuộc chương trình cấp Nhà nước đó là:
+ Nghiên cứu phân loại đối tượng và đề xuất biện pháp phục hồi rừng
bằng khoanh nuôi, xúc tiến, tái sinh vùng lưu vực Sông Đà, chương trình lâm
nghiệp tổng hợp, mã số 04.01, giai đoạn 1986-1990.
+ Trần Đình Lý và các cộng sự (1996) [9] Nghiên cứu xác định diện
tích và hệ thống biện pháp kỹ thuật cho việc khoanh nuôi phục hồi rừng.
Nghiên cứu đưa ra một cách nhìn hệ thống và toàn diện về biện pháp kỹ thuật
khoanh nuôi phục hồi rừng. Với việc phân biệt rõ ràng giữa rừng và thảm
thực vật, nghiên cứu đưa ra khái niệm khoanh nuôi phục hồi rừng là “quá
trình lợi dụng triệt để quy luật tái sinh và diễn thế tự nhiên với sự can thiệp
hợp lý của con người nhằm thúc đẩy quá trình phục hồi lại rừng trong một
thời gian xác định theo mục đích đặt ra”. Qua cách nhìn nhận đó xác định
được đối tượng cụ thể cho khoanh nuôi phục hồi rừng. Xác định thời gian
khoanh nuôi và tiêu chuẩn cần đạt của rừng khoanh nuôi. Xác định được nội
dung công việc cần tiến hành trong quá trình khoanh nuôi ở các mức độ khác
nhau. Nghiên cứu đã xây dựng được bản quy phạm cho khoanh nuôi phục hồi



11

rừng và xây dựng được danh lục sơ bộ gồm 155 loài cây bản địa có thể sử
dụng cho việc khoanh nuôi và phục hồi rừng. Đây là công trình đầu tiên ở việt
nam đề cập một cách hệ thống từ cơ sở khoa học đến quy phạm khoanh nuôi
phục hồi rừng ở Việt nam. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng
quy phạm chưa xây dựng được quy trình khoanh nuôi cụ thể cho từng vùng và
từng loại hình rừng cụ thể.
Bên cạnh các đề tài đó có đề tài cấp cơ sở điều tra khảo sát hoặc
nghiên cứu thí nghiệm một số vấn đề có liên quan cũng được xúc
tiến ở nhiều địa phương như:
- Nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên thảm thực vật rừng và ứng
dụng phương thức khoanh nuôi phục hồi rừng ở Quảng Ninh (ĐHLN, 1993).
- Khả năng tái sinh diễn thế, quá trình sinh trưởng và phát triển của
thảm thực vật trên đất rừng thứ sinh sau nương rẫy tại Kon Hà Nừng. (Viện
STTNSV, 92)
- Đặc điểm sinh thái Lâm học rừng cây họ Dầu(Dipterocarpaceae) ở
Đông Nam Bộ và một số định hướng bảo vệ khôi phục rừng (Viện ĐTQHR,
1991-1995)
- Một số loài cây bản địa có thể sử dụng trong khoanh nuôi phục hồi
rừng ở Việt Nam (Viện STTNSV, 1994)
- Quy trình kỹ thuật khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên ở vùng Tây
Bắc (Trung tâm KHSXLN Tây Bắc, 1992)
Cùng với sức ép ngày một bức bách của yêu cầu và thực tiễn sản xuất
các kết quả của sự chuyển hướng đó là những tiền đề quan trọng cho sự đổi
mới của vấn đề tái sinh phục hồi rừng. Đầu những năm 90, kết quả của sự
chuyển hướng đã được pháp lý hoá thông qua 3 tiêu chuẩn ngành thể hiện sự
đổi mới của vấn đề này.

Các tiêu chuẩn đó là :
- Quy phạm các giải pháp kỹ thuật Lâm sinh áp dụng cho rừng sản
xuất gỗ và tre nứa(QPN 14-92), ban hành theo Quyết định số 200/QĐ- KT
ngày 31/3/1993 của Bộ Lâm nghiệp.
- Quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết
hợp trồng bổ sung (QPN 21-98), ban hành theo QĐ số 125/QĐ/ BNN/KHCN
ngày 04/11/1998 của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Quy định tạm thời nghiệm thu khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi, xúc
tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung, trồng rừng và chăm sóc rừng trồng, ban


12

hành theo QĐ số 162/1999/QĐ-BNN-PTLN ngày 10/12/1999 của BNN&
PTNT.
Sự đổi mới ấy vừa khẳng định tầm quan trọng và chỗ đứng không
thể thiếu được của việc tái sinh phục hồi rừng trong hệ thống các giải pháp
kỹ thuật Lâm sinh, vừa xác lập một số cơ sở kỹ thuật nhằm thúc đẩy sản xuất
theo định hướng đó. Nhưng chưa dừng lại ở những thành quả đó vẫn có nhiều
tác giả tiến hành những nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực phục hồi rừng.
Trần Xuân Thiệp (1991) [6], nghiên cứu “Vai trò tái sinh phục hồi rừng
tự nhiên ở các vùng miền bắc” đề tài tập trung vào sự biến đổi về lượng, chất
lượng của tái sinh tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, đánh giá hệ quả của tái
sinh và vị trí phục hồi trong kết cấu rừng tự nhiên ở các vùng. Công trình
đánh giá vai trò phục hồi rừng tự nhiên đối với diễn biến diện tích rừng hỗn
loại cây lá rộng thường xanh ở các vùng rừng miền Bắc, đưa ra căn cứ khoa
học và bổ xung nhận thức về công tác khoanh nuôi phục hồi rừng nghèo kiệt
ở các vùng.
Đỗ Hữu Thư, Trần Đình Lý, Lê Đồng Tấn (1994) [58] dựa vào các
trạng thái thực bì đã được phân chia trên cơ sở bảng phân loại của Loeschau

(1966) và Quy phạm thiết kế kinh doanh rừng của Bộ Lâm Nghiệp và theo
phương pháp của Thái Văn Trừng đã nghiên cứu các trạng thái thực bì kiểu
IA, IB, IC, IIA, IIB đưa ra nhận xét, trong suốt quá trình phục hồi tự nhiên
thảm thực vật rừng trước khi đạt tới giai đoạn thuần thục, thành phần loài và
số lượng cây gỗ trên một diện tích nhất định có xu hương giảm dần, đơn giản
hoá để tái ổn định. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của quá trình tự phục hồi
thảm thực vật rừng, quy luật này biểu hiện chưa rõ ràng và có thể có những
xáo trộn.
Lê Đồng Tấn (1993 – 1999) [5] nghiên cứu quá trình phục hồi tự
nhiên một số quần xã thực vật sau nương rẫy tại Sơn La theo phương pháp kết
hợp điều tra ô tiêu chuẩn 400m2 cho các đối tượng là thảm thực vật phục hồi
sau nương rẫy và theo dõi ô định vị 2000m2. Tác giả kết luận: mật độ cây tái
sinh giảm dần từ chân đồi lên đỉnh đồi. Tổ hợp loài cây ưu thế trên ba vị trí
địa hình và 3 cấp độ dốc là giống nhau. Sự khác nhau chính là hệ số tổ thành
các loài trong tổ hợp đó.
Nguyễn Văn Thông (2001) [8], đưa ra kết quả phục hồi rừng tự nhiên
tại trung tâm nghiên cứu thực nghiệm lâm sinh cầu hai – Phú thọ. Qua đó tác
giả đã đưa ra được ưu nhược điểm của các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng


13

được áp dụng ở trung tâm từ những năm 1960 tới nay. Tác giả kết luận có thể
sử dụng cả 3 biện pháp: cải tạo rừng, làm giàu và khoanh nuôi rừng để phục
hồi rừng tự nhiên. Biện pháp làm giàu rừng và cải tạo rừng giải quyết được
vấn đề về mật độ và tổ thành. Tuy nhiên, nó lại có một số hạn chế là làm thay
đổi khá lớn và lâu phục hồi lại hoàn cảnh rừng cũng như lâu phục hồi khả
phòng hộ và khả năng cải thiện môi trường, đầu tư tốn kém, kỹ thuật gây
trồng phức tạp. Khi thất bại do chọn loài cây, biện pháp gây trồng không hợp
lý thì hậu quả sẽ rất lớn. Biện pháp khoanh nuôi rừng có ưu điểm la chi phí

đầu tư thấp, triển vọng thành rừng cao, nhanh phát huy tác dụng mọi mặt của
rừng nhưng có nhược điểm chỉ thực hiện ở các diện tích rừng có số lượng,
chất lượng tái sinh tự nhiên đảm bảo. Nghiên cứu này đưa ra được các ưu
nhược điểm của các biện pháp phục hồi rừng ở cầu hai nhưng lại chưa đưa ra
được phương hướng giải quyết khắc phục các nhược điểm đó một cách rõ
ràng.
Phạm Đình Tam (2001) [8], nghiên cứu khả năng tái sinh phục hồi
rừng sau khai thác tại Kon Hà Nừng. Nghiên cứu tiến hành xác định cường độ
khai thác hợp lý nhằm thúc đẩy lượng tăng trưởng hàng năm của lâm phần,
cải thiện chất lượng của rừng và xúc tiến quá trình tái sinh tự nhiên. Từ đó,
xây dựng quy phạm khai thác đảm bảo tái sinh áp dụng cho rừng lá rộng
thường xanh. Khai thác với cường độ 30 – 50% trữ lượng rừng, số loài cây
giảm đi từ 7 – 10 loài; tuy nhiên trong tổ thành vẫn còn nhiều loài kém giá trị
kinh tế cần chặt bỏ. Ở cả hai cường độ khai thác 30 và 50% trữ lượng đều
đảm bảo cho lâm phần tăng trưởng cả về số lượng cây và trữ lượng rừng. Sau
20 năm, lượng tăng trưởng ở công thức khai thác 50% lơn hơn ở công thức
khai thác 30%. Tình hình tái sinh tự nhiên ở công thức 50% có nhiều triển
vọng hơn.
Phạm Xuân Hoàn (2002) [10] tiến hành nghiên cứu phục hồi rừng bằng
cây bản địa. Nghiên cứu đã đưa ra được những cơ sở khoa học và thực tiễn
cho kỹ thuật xử lý lớp cây tạo môi trường ban đầu nhằm hỗ trợ và thúc đẩy
sinh trưởng cho lớp cây bản địa được trồng dưới tán rừng thông và keo. Sử
dụng các phương pháp xác định nhu cầu ánh sáng cho cây bản địa nhằm đảm
bảo độ tin cậy khi quyết định các chỉ tiêu kỹ thuật khi xử lý tầng cây cao.
Việc xử lý tầng cây cao chỉ nên tiến hành hai lần bao gồm cả tỉa thưa và tỉa
cành dựa trên những chỉ tiêu cụ thể về nhu cầu ánh sáng theo các giai đoạn
sinh trưởng của cây bản địa ở thời kì tạo rừng và giai đoạn cây bản địa tạo


14


tán. Để tăng sự đa dạng sinh học, khôn loại bỏ tầng cây bụi thảm tươi dưới tán
rừng khi chúng không cạnh tranh với cây bản địa và chăm sóc những cây tái
sinh của các loài khác xuất hiện. Có thể coi sự có mặt của những cây tái sinh
này như một tiêu chuẩn để đánh giá thành công trong phục hồi rừng bằng cây
bản địa.
Phạm Ngọc Thường – 2003, [12] đề xuất một số giải pháp kĩ thuật lâm
sinh phục hồi rừng sau nương rẫy ở hai tỉnh Thái nguyên – Bắc cạn trên một
số mô hình. Mô hình khoanh nuôi tái sinh tự nhiên, mô hình này có thời gian
phục hồi 7 – 8 năm cho biết được mật độ cây tái sinh và số lượng cây tái sinh
có triển vọng/ha. Nhưng công trình này không đưa ra số liệu về kích thước cây
tái sinh và không có mô hình đối chứng nên chưa đánh giá được hiệu quả của
khoanh nuôi tái sinh tự nhiên đến mức nào?. Mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái
sinh trồng bổ xung cho biết cây trồng bổ xung có tỷ lệ sống cao, sinh trưởng tốt
nhưng lại không đề cập tới tình hình tái sinh như thế nào thông qua biện pháp
kỹ thuật lâm sinh do vậy nó vẫn chưa minh chứng được hiệu quả của mô hình.
Phạm Quốc Hùng (2005) [4] tiến hành đề tài “Đánh giá khả năng tái
sinh phục hồi rừng vùng đông bắc việt nam”. Nghiên cứu tập trung vào đối
tượng rừng phục hồi ở độ cao < 700m trong đất liền. Đề tài đưa ra được đặc
điểm lâm học và đặc điểm tái sinh dưới tán rừng của các trạng thái rừng phục
hồi. Tuy nhiên, trong vấn đề nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc của rừng phục
hồi đề tài chưa đưa ra được hàm số phù hợp để mô tả tương quan chiều cao và
đường kính của rừng phục hồi.
Những nghiên cứu về phục hồi rừng ở trong nước cũng đã được tiến
hành khá bài bản từ những nghiên cứu cơ bản cho đến những nghiên cứu ứng
dụng theo trào lưu phát triển KTLS trên thế giới nhưng có sự điều chỉnh áp
dụng vào kết quả của nó là những quy trình kỹ thuật đã được ban hành.
Các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng
Như vậy, ta có thể tổng kết ở việt nam hiện nay có một số biện pháp
kỹ thuật áp dụng chính cho phục hồi rừng là:

• Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên kết hợp trồng bổ sung
Đây là một giải pháp sử dụng triệt để khả năng tái sinh tự nhiên để
phục hồi rừng thông qua các biện pháp bảo vệ, các biện pháp kỹ thuật lâm
sinh và trồng bổ sung khi cần thiết. Phạm vi áp dụng được cho cả ba loại rừng
phòng hộ, đặc dụng và sản xuất. Đặc biệt, đã xác định rõ địa bàn áp dụng là
nơi đã có quy hoạch sử dụng đất chính thức và đã có chủ thực sự.


15


Kỹ thuật làm giàu rừng
Làm giàu rừng được hiểu là một giải pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm cải
thiện tỷ lệ cây mục đích ở rừng nghèo mà không loại bỏ thảm rừng cũ và các
cây non mục đích có sẵn (Phạm xuân hoàn 2003). Mục đích của làm giàu
rừng là tạo ra một lâm phần mới với cây trồng làm giàu chiếm ưu thế được
trồng hỗn giao với các loài cây có giá trị kinh tế có sẵn trong thảm rừng cũ.
Đối tượng của làm giàu rừng là rừng nghèo kiệt thuộc trạng thái IIIA1, có
cấu trúc bị phá vỡ hoàn toàn; số lượng cây tái sinh mục đích không bảo đảm
về số và chất lượng. Biện pháp kỹ thuật bao gồm: làm giàu rừng theo rạch và
làm giàu rừng theo đám.
• Cải tạo rừng
Cải tạo rừng là việc thay thế thảm thực vật gốc bằng một thảm thực vật
hoàn toàn mới có năng suất và chất lượng cao hơn thảm thực vật gốc. Cũng
tương tự như làm giàu rừng, cải tạo rừng có thể dựa vào thảm thực vật cũ để
điều chỉnh ánh sáng cho cây trồng và fcũng có thể để lại các cây có giá trị
kinh tế của thảm rừng cũ. Tuy nhiên điểm khác nhau ở đây là cường độ và sự
khác biệt giữa thảm thực vật rừng mới với thảm thực vật cũ. Trong làm giàu
rừng thảm thực vật chỉ được bổ xung thêm các loài có giá trị kinh tế, trong khi
đó thì cải tạo rừng hâu như thay thế hoàn toàn thảm thực vật rừng cũ. Trong

nhiều trường hợp cải tạo rừng còn đồng nghĩa với việc trồng rừng mới sau khi
khai thác thảm rừng cũ.
Đối tượng của cải tạo rừng bao gồm các diện tích rừng nghèo kiệt
thuộc trạng thái II, hay IIIA1, tiềm năng tái sinh thấp, cây gỗ có chất lượng
kém. Có những khoảng trống lớn trong rừng.
• Khai thác đảm bảo tái sinh
Bản chất của việc khai thác rừng là lấy ra khỏi rừng những thế hệ cây
già cỗi bắt chước quá trình chết đi tự nhiên để tác động sớm hơn để tận dụng
gỗ và tạo điều kiện cho thế hệ cây tái sinh phát triển. Vận dụng triệt để quy
luật này quy chế khai thác gỗ và lâm sản được ra đời theo quyết định số
02/1999 và bổ xung lại sửa đổi lại theo quyết định 40/2005. Quy chế quy định
từng đối tượng rừng khai thác ứng với từng luân kỳ khai thác và cường độ
khai thác kèm theo đó là cấp kính khai thác tối thiểu tùy theo từng đối tượng
kinh doanh rừng.


16

Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Đại Từ là Huyện miền núi nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Thái Nguyên,
cách Thành Phố Thái Nguyên 25 Km, phía Bắc giáp huyện Định Hoá; Phía
nam giáp huyện Phổ Yên và Thành Phố Thái Nguyên; Phía đông giáp huyện
Phú Lương; Phía tây bắc và đông nam giáp tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Phú
Thọ.
Huyện Đại Từ có nhiều đơn vị hành chính nhất tỉnh: 31 xã, thị trấn,
tổng diện tích đất tự nhiên toàn Huyện là 57.790 ha và 158.721 khẩu, có 8 dân

tộc anh em cùng chung sống: Kinh, tày, Nùng, Sán chay, Dao, Sán dìu, Hoa,
Ngái v.v..; Chiếm 16,58% về diện tích, 16,12% dân số cả tỉnh Thái Nguyên.
Mật độ dân số bình quân 274,65 người/km2.
Là Huyện có diện tích lúa và diện tích chè lớn nhất Tỉnh ( Lúa 12.500 ha, chè
trên 5.000 ha), Đại Từ còn là nơi có khu du lịch Hồ Núi Cốc được cả nước
biết đến, đồng thời cũng là Huyện có truyền thống cách mạng yêu nước: Có
169 điểm di tích lịch sử và danh thắng. Là đơn vị được Nhà nước hai lần
phong tặng danh hiệu anh hùng Lực lượng vũ trang.
2.1.2. Điều kiện địa hình
a) Về đồi núi: Do vị trí địa lý của Huyện, Đại Từ được bao bọc xung
quanh bởi dãy núi:
- Phía Tây và Tây Nam có dãy núi Tam đảo ngăn cách giữa Huyện và
tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, độ cao từ 300 - 600m .
- Phía Bắc có dãy Núi Hồng và Núi Chúa.
- Phía đông là dãy núi Pháo cao bình quân 150 - 300 m.
- Phía Nam là dãy núi Thằn Lằn thấp dần từ bắc xuống nam.
b) Sông ngòi thuỷ văn:
- Sông ngòi: Hệ thống sông Công chảy từ Định Hoá xuống theo hướng
Bắc Nam với chiều dài chạy qua huyện Đại Từ khoảng 2km. Hệ thống các
suối, khe như suối La Bằng, Quân Chu, Cát Nê v.v... cũng là nguồn nước
quan trong cho đời sống và trong sản xuất của Huyện.


17

- Hồ đập: Hồ núi Cốc lớn nhất Tỉnh với diện tích mặt nước 769 ha, vừa
là địa điểm du lịch nổi tiếng, vừa là nơi cung cấp nước cho các Huyện Phổ
Yên, Phú Bình, Sông Công, Thành phố Thái Nguyên và một phần cho tỉnh
Bắc Giang. Ngoài ra còn có các hồ: Phượng Hoàng, Đoàn Uỷ, Vai Miếu, Đập
Minh Tiến, Phú Xuyên, Na Mao, Lục Ba, Đức Lương với dung lượng nước

tưới bình quân từ 40 - 50 ha mỗi đập và từ 180 - 500 ha mỗi Hồ.
- Thuỷ văn: Do ảnh hưởng của vị trí địa lý, đặc biệt là các dãy núi bao
bọc Đại Từ thường có lượng mưa lớn nhất Tỉnh, trung bình lượng mưa hàng
năm từ 1.800mm - 2.000mm rất thuận lợi cho phát triển sản xuất nông lâm
nghiệp của Huyện ( đặc biệt là cây chè).
2.1.3. Điều kiện khí hậu thời tiết
Do mưa nhiều khí hậu thường ẩm ướt độ ẩm trung bình từ 70 - 80% ,
nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22 - 270 ( là miền nhiệt độ phù hợp cho nhiều
loại cây trồng phát triển).
2.1.4 Về đất đai thổ nhưỡng
Tổng diện tích tự nhiên 57.848 ha. Trong đó: đất nông nghiệp chiếm
28,3%, đất Lâm nghiệp chiếm 48,43%; Đất chuyên dùng 10,7%; Đất thổ cư
3,4%. Tổng diện tích hiện đang sử dụng vào các mục đích là 93,8%, còn lại
6,2% diện tích tự nhiên chưa sử dụng.
2.1.5 Về tài nguyên - khoáng sản:
a) Tài nguyên rừng: Diện tích đất lâm nghiệp 28.020 ha, trong đó rừng
tự nhiên là 16.022 ha và rừng trồng từ 3 năm trở lên là 11.000 ha. Chủ yếu là
rừng phòng hộ, diện tích rừng kinh doanh không còn hoặc còn rất ít vì những
năm trước đây đã bị khai thác bừa bãi và tàn phá để làm nương rẫy.
b) Tài nguyên khoáng sản: Đại Từ được thiên nhiên ưu đãi phân bổ trên
địa bàn nhiều tài nguyên khoáng sản nhất Tỉnh, 15/31 xã, thị trấn có mỏ và
điểm quặng. Được chia ra làm 4 nhóm quặng chủ yếu sau:
- Nhóm khoáng sản là nguyên liệu cháy: Chủ yếu là than nằm ở 8 xã
của Huyện: Yên Lãng, Hà Thượng, Phục Linh, Na Mao, Minh Tiến, An
Khánh, Cát Nê. Có 3 mỏ lớn thuộc Trung ương quản lý và khai thác: Mỏ Núi
Hồng, Khánh Hoà, Bắc làng Cẩm. Sản lượng khai thác hàng năm từ 10 đến 20
nghìn tấn/ năm.
- Nhóm khoáng sản kim loại:
+ Nhóm kim loại màu: Chủ yếu là thiếc và Vônfram. Mỏ thiếc Hà
Thượng lớn nhất mới được khai thác từ năm 1988, có trữ lượng khoảng 13



18

nghìn tấn, mỏ Vonfram ở khu vực đá liền có trữ lượng lớn khoảng 28 nghìn
tấn. Ngoài các mỏ chính trên quặng thiếc còn nằm rải rác ở 9 xã khác trong
Huyện như: Yên Lãng, Phú Xuyên, La Bằng, Hùng Sơn, tân Thái, Văn Yên,
Phục Linh, Tân Linh, Cù vân.
+ Nhóm kim loại đen: Chủ yếu là Titan, sắt nằm rải rác ở các điểm
thuộc các xã phía Bắc của Huyện như Khôi Kỳ, Phú Lạc trữ lượng không lớn
lại phân tán.
- Nhóm khoáng sản phi kim loại: pyrit, barit, nằm ở rải rác các xã trong
Huyện, trữ lượng nhỏ, phân tán.
- Khoáng sản và vật liệu xây dựng:
Đại Từ là vùng có mỏ đất sét lớn nhất tỉnh ở xã Phú Lạc, ngoài ra còn
có nguồn đá cát sỏi có thể khai thác quanh năm ở dọc theo các con sông
Công, bãi bồi của các dòng chảy phục vụ vật liệu xây dựng tại chỗ của
Huyện.
2.1.6. Về du lịch
Khu du lịch Hồ Núi Cốc với câu chuyện huyền thoại về Nàng công
chàng Cốc đã thu hút khách du lịch trong nước và ngoài nước, nằm ở phía
Tây nam của Huyện, đây cũng là điểm xuất phát đi thăm khu di tích trong
Huyện như: Núi Văn, Núi Võ, khu rừng Quốc gia Tam Đảo, di tích lịch sử
27/7 v.v... Hiện đã hoàn thành xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
sinh thái sườn đông dãy Tam Đảo, hoàn thành quy hoạch chi tiết khu du lịch
chùa Tây Trúc xã Quân Chu, Cửa Tử xã Hoàng Nông, quy hoạch chi tiết khu
di tích lịch sử Lưu Nhân Chú. nhìn chung tiềm năng phát triển dịch vụ du lịch
ở Đại Từ đã và đang được quan tâm phát triển, đây là tiềm năng lớn của
Huyện cũng như của Tỉnh Thái Nguyên
2.1.7. Kết cấu hạ tầng

a, Hệ thống cung cấp điện: Huyện Đại Từ có mạng lưới điện Quốc gia
kéo đến 31 xã, thị trấn.
b- Giao thông: Đại Từ có mật độ đường giao thông khá cao so với các
Huyện trong Tỉnh. Tổng chiều dài đường bộ trên địa bàn khoảng gần 600km.
Trong đó:
+ Đường Quốc lộ 379, chạy dài suốt Huyện, dài 32km, đã được dải
nhựa.


19

+ Đường Tỉnh quản lý: Gồm 3 tuyến đường: Đán đi Hồ núi Cốc; Đại
Từ đi Phổ Yên; Khuôn Ngàn đi Minh Tiến -Định Hoá; Phú Lạc đi Đu- ôn
Lương Phú Lương.
Còn lại là các tuyến đường đá, cấp phối thuộc Huyện và xã quản lý, chủ
yếu là đường liên xã, liên thôn, xóm; Cả 31 xã, thị trấn đã có đường ô tô đến
trung tâm xã, Song do đặc điểm của Huyện miền núi, hệ thống giao thông còn
gây ách tắc về mùa mưa lũ, do vậy chưa đáp ứng cho sự phát triẻn và giao lưu
hàng hoá trên địa bàn.
- Tuyến đường sắt Quán triều - Núi Hồng dài 33,5 km là một thuận lợn
lớn trong việc phục vụ sản xuất và giao lưu hàng hoá (Chủ yếu là vận chuyển
than)
Nhìn chung, hệ thống giao thông của Huyện tương đối thuận lợi, song
về chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu (Chủ yếu là đường đá cấp phối, đất), cần
phải có kế hoạch từng bước đầu tư nâng cấp hệ thống cầu, đường liên Huyện,
liên xã, xóm trong những năm tới.
c- Thông tin liên lạc: Toàn Huyện đã được phủ sóng truyền thanh,
truyền hình, 31/31 xã, thị trấn có điện thoại; Hệ thống giao thông thuận tiện là
điều kiện thuận lợi cho Bưu điện phục vụ các thông tin, báo trí đến các xã,
xóm trong kịp thời trong ngày.

2.1.8. Nguồn nhân lực
Dân số Đại Từ hiện có 158.721 nhân khẩu (Trong đó dân số nông
nghiệp chiếm 94%; Thành thị: 6%). Dân số trong độ tuổi lao động chiếm
56,5%. Lao động làm trong các Ngành nghề kinh tế chiếm 90,8% (Trong đó:
Nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm 94,1%; Công nghiệp xây dựng chiếm 4,1%;
Dịch vụ chiếm 1,2%).
2.2. Những lợi thế để phát triển kinh tế xã hội
- Lợi thế có tính chất quyết định và bền vững của Huyện là: Sự đoàn
kết nhất trí của các dân tộc anh em trong Huyện, sự nhiệt tình cách mạng với
sự lãnh đạo vững vàng của đảng bộ Huyện, nhân dân các dân tộc trong Huyện
quyết tâm phấn dấu xây dựng nền kinh tế -xã hội phát triển về mọi mặt
- Vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện quan trọng cho sự phát triển. Là
Huyện miền núi chỉ cách trung tâm tỉnh lị hơn 20 km. Hạ tầng cơ sở thuận lợi
hơn các Huyện miền núi khác trong tỉnh, sự nắm bắt về thông tin và tiếp nhận
sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông lâm nghiệp thuận lợi hơn.


20

- Là Huyện có nhiều tài nguyên khoáng sản, mặc dù trữ lượng nhỏ,
không lớn. Đây là nhân tố quan trọng hình thành các cơ sở công nghiệp khai
thác phục vụ cho sản xuất công nghiệp phát triển và xuất khẩu.
-Vị trí địa lý có điều kiện khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của tập
đoàn vật nuôi và cây trồng phong phú, lợi thế này thích hợp cho sự phát triển
kinh tế nông lâm nghiệp hiện nay của Huyện.
- Tiềm năng về du lịch cũng là một lợi thế để phát triển ngành dịch vụ
thương mại trên địa bàn; Trên cơ sở Hồ núi cốc kết hợp với các điểm di tích
lịch sử cách mạng nối lièn với khu ATK Tân Trào- Tuyên quang và Định
Hoá.
2.3. Đánh giá sự phát triển kinh tế xã hội thời gian qua

Năm 2010, mặc dù còn nhiều khó khăn về thời tiết, thiên tai, bão lụt,
thiếu điện cho sản xuất, sinh hoạt; tình hình lạm phát giá cả hàng hoá tăng cao
và không ổn định, nhưng Huyện Đại Từ đã phấn đấu hoàn thành toàn diện các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà nghị quyết kỳ họp Hội đồng nhân dân
Huyện đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung đạt 12,05%.
- Đạt thành tích trên, nhiệm vụ quan trọng trước tiên Huyện tập trung
chỉ đạo là phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn, đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông lâm
nghiệp theo hướng tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích. Quan tâm đầu tư
cho phát triển kinh tế trang trại, làng nghề, ngành nghề nông thôn… Do thực
hiện tốt chương trình kiên cố kênh mương tạo điều kiện tưới tiêu chủ động và
ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Sản lượng lương thực năm 2010
đạt trên 71.026 tấn đạt 101,5%KH.
Khai thác thế mạnh của Huyện miền núi về kinh tế đồi rừng, tập trung
vào phát triển chăn nuôi gia súc, phát triển cây chè, cây ăn quả, trồng rừng,
cải tạo và thâm canh chè v.v... năm 2010, trồng mới và trồng phục hồi 158 ha;
Cải tạo 316 ha chè xuống cấp và thâm canh trên 1.300 ha. Xác định được thế
mạnh của cây chè Huyện đã xây dựng quy hoạch vùng chè, mạnh dạn đưa các
giống chè mới có chất lượng và năng suất cao thay thế dần cho cây chè Trung
du lá nhỏ, Chủ yếu là giống chè nhập nội, chè lai cho năng suất và chất lượng
cao như giống chè: TRI777; 1A; LDP1; Bát Tiên; Kim Tuyên; Keo am tích,
Phúc Vân Tiên, Hùng Đỉnh Bạch...... Đến nay toàn huyện có 5.054 ha chè.
Năng suất bình quân đạt 97 tạ/ha. Hàng năm sản lượng chè búp tươi thu
hoạch đạt 48.520 tấn, chủ yếu tập trung ở các xã: thị trấn Quân Chu, xã Quân


21

Chu, Cát Nê, Mỹ Yên, Hoàng Nông, La Bằng, Phú Xuyên, Yên Lãng, Phú
Cường, Phú Lạc, Minh Tiến, Tân Linh, Phục Linh, Hà Thượng, Phục Linh,

Hùng Sơn, Tân Thái.
Song song với phát triển sản xuất, Huyện chú trọng chỉ đạo công tác
quản lý và sử dụng đất đai, xây dựng qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp địa phương phát triển khá, giá trị sản
xuất ước thực hiện trên 100,5 tỷ đồng (Giá cố định 1994) đạt 83,76%KH, chủ
yếu tập trung vào các lĩnh vực khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, sửa
chữa gia công cơ khí, chế biến nông lâm sản, kinh doanh vận tải v.v...
Thu ngân sách được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Do quản lý tốt các nguồn thu, cải tiến phương pháp thu, kết hợp nuôi dưỡng
nguồn nên kết quả thu vẫn hoàn thành vượt kế hoạch đề ra. Tổng thu ngân
sách nhà nước ước thực hiện năm 2010 trên 50 tỷ đồng đạt 128% kế hoạch.
Việc đầu tư xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng cơ sở như
đường điện, trụ sở làm việc, trạm xá, trường học, đường giao thông, các công
trình thuỷ lợi được đẩy mạnh... Có thể nói, năm 2010 Huyện Đại Từ đã thực
hiện có hiệu quả các giải pháp huy động vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội, tạo bước phát triển mới, từng bước làm thay đổi cơ bản bộ mặt
nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Trọng tâm nhiệm vụ này là cải tạo, xây
dựng hệ thống giao thông nông thôn; hệ thống công trình thuỷ lợi theo hướng
kiên cố hoá để phục vụ cho việc phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá
trong huyện...., Đã triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng
kênh mương nội đồng và bê tông hoá đường giao thông nông thôn bằng
nguồn vốn tín dụng. Các công trình thuỷ lợi lớn, nhỏ hoàn thành đưa vào sử
dụng; Nhiều phòng học, nhà Hội đồng, nhà tập thể giáo viên được xây dựng.
Đặc biệt trong năm 2010 đã triển khai chương trình hỗ trợ hộ nghèo xây dựng
nhà ở theo Quyết định167/QĐ-TTg được 780 nhà, đã góp phần làm thay đổi
diện mạo nông thôn. Tiếp tục duy trì và phát triển các mối quan hệ với các đối
tác phi chính phủ như: Hội Saemaul dong- Hàn Quốc; Tổ chức Đông tây hội
ngộ; Tổ chức Dịch vụ nhà thờ thế giới; Tổ chức Plan; Tổ chức Atlantíc… để
gọi vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục đào tạo, chăm lo

sức khoẻ cho nhân dân.
Bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế, các mặt văn hoá xã hội cũng phát
triển và có tiến bộ mới. Mạng lưới trường lớp từng bước được xắp xếp qui


22

hoạch lại. Tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học, thực hiện có hiệu quả
Chương trình đề án phát triển Giáo dục &ĐT, giữ vững kết quả phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở, từng bước thực hiện
phổ cập bậc THPT; Tăng cường xây dựng các trường chuẩn quốc gia ở các
cấp học. Mạng lưới y tế được tăng cường củng cố cả về cơ sở vật chất và lực
lượng, đảm bảo khám chữa bệnh cho nhân dân. Công tác kế hoạch hoá gia
đình được thực hiện tốt. Các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phòng
chống suy dinh dưỡng trẻ em được triển khai đồng bộ; Diện bảo hiểm y tế
được mở rộng; Công tác bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được
quan tâm thực hiện.
Các chính sách xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, cải thiện và
nâng cao mức sống người lao động, được Cấp uỷ và Chính quyền từ Huyện
tới cơ sở chỉ đạo thực hiện có kết quả, đã xây dựng chương trình giảm nghèo
và giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2010. Tổ chức triển khai toàn diện các
chương trình có mục tiêu trên địa bàn. Tỷ lệ hộ nghèo còn 17,59% giảm
4,67% so với năm 2008, giải quyết việc làm cho khoảng 2.600 lao động đạt
100,0%KH.
Đội ngũ cán bộ từ Huyện đến cơ sở từng bước được chấn chỉnh, củng
cố. Dân chủ ở cơ sở và trong các cơ quan được phát huy cả bề rộng lẫn bề
sâu.
Kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng
lên, tạo điều kiện giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội,
Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước.

2.4. Định hướng phát triển đến năm 2011 của huyện Đại Từ
2.4.1. Mục tiêu phát triển
Tiếp tục tăng cường tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo chuyển biến
mạnh về tốc độ phát triển vượt ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng phát triển theo hướng
công nghiệp hoá, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế, cải thiện một bước trình độ công nghệ trong nền kinh tế, nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo. Khai thác tốt hơn quan hệ kinh tế đối ngoại,
phát triển văn hoá - xã hội với tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống của
nhân dân, thực hiện xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm mới, đẩy lùi tệ nạn xã
hội, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định
trật tự an toàn xã hội.


23

2.4.2. Định hướng phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2011
Trên cơ sở nguồn vốn đầu tư toàn xã hội và khả năng huy động trong
cả giai đoạn 2006-2010, đồng thời có tính đến kết quả thực hiện 5 năm trong
giai đoạn 2001-2005 làm căn cứ xác định định hướng phát triển các ngành,
lĩnh vực trong 5 năm tới như sau:
a. Phát triển ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và kinh tế nông thôn
Phát triển ngành kinh tế nông nghiệp theo hướng đẩy nhanh CNHHĐH nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu ngành,
nghề, cơ cấu lao động, tạo công ăn việc làm thu hút lao động ở nông thôn,
đồng thời tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm để đẩy mạnh ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp là cơ sở để xây
dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện.
Phấn đấu giá trị sản xuất toàn ngành nhịp độ tăng bình quân trong giai đoạn
2006-2010 đạt từ 7,6% trở lên, trong đó trồng trọt 7,5%, chăn nuôi 7,5% và
lâm nghiệp là 9,5%. Sản lượng lương thực đạt 78.000 tấn, chè 39.000 tấn búp

tươi, đưa diện tích lúa lai từ 5.000 - 5.500 ha.
Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội, nông
thôn. Quản lý và khai thác tốt các công trình thuỷ lợi trên địa bàn, tiếp tục xây
dựng cứng hoá kênh mương nội đồng, từng bước xây dựng và hình thành các
cụm thuỷ lợi vườn đồi đảm bảo nguồn nước phục vụ cho sản xuất.
Phát triển và nâng cao hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng
thuỷ sản trên diện tích hồ ao… đặc biệt trú trọng đến việc phát triển đàn bò từ
phương án chăn nuôi bò nhốt kết hợp với chăn thả. Phấn đấu đến năm 2010,
tổng đàn bò trong toàn Huyện là 8.000 con, đàn trâu: 25.000 con, đàn lợn:
190.000 con.
Bên cạnh việc quan tâm đầu tư phát triển ngành trồng trọt và chăn nuôi
cần tổ chức làm tốt công tác bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, từng bước
nâng cao độ che phủ của rừng. Kết hợp phát triển lâm nghiệp với nông
nghiệp, thực hiện tốt chính sách ĐCĐC, thực hiện chuyển đổi rừng trồng kém
hiệu quả bằng việc trồng rừng kinh tế để nâng cao giá trị sản phẩm rừng.
b. Phát triển ngành công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp:
Xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, bao gồm hệ thống đường giao thông, đường
đIện, thuỷ lợi, trường học; Trạm y tế; Nước sạch và VSMT…, từng bước thay
đổi bộ mặt nông thôn. Có chính sách và biện pháp huy động nguồn vốn đóng
góp của nhân dân và sự hỗ trợ của nhà nước. Phát triển các cơ sở sản xuất


×