Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại một số dự án trên địa bàn huyện hưng hà tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.86 KB, 73 trang )

1

Báo cáo thực tập

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
--------------------

SINH VIÊN THỰC HIỆN
PHẠM THỊ YẾN

ĐỀ TÀI: “Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư tại một số dự án trên địa bàn huyện Hưng Hà
Tỉnh Thái Bình”
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Chuyên ngành

:ĐỊA CHÍNH

Giáo viên hướng dẫn

: NGUYỄN THỊ KHUY

HÀ NỘI – 2013
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập



2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài, Em đã nhận được sự quan
tâm giúp đỡ nhiệt tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể, đã
tạo điều kiện thuận lợi cho Em hoàn thành bản luận văn này.
Lời đầu tiên, Em xin chân thành cảm ơn Thạc Sỹ Nguyễn Thị Khuy
thuộc Khoa Quản lý đất đai, trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà
Nội đã trực tiếp hướng dẫn Em trong suốt thời gian Em nghiên cứu thực hiện
đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Phòng Tài Nguyên và Môi
trường, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Trung tâm phát triển quỹ đất
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ Em trong thời gian
nghiên cứu thực hiện luận văn tại địa phương.
Em xin cảm ơn Anh Phạm Trung Hiếu cán bộ Trung tâm phát triển quỹ
đất huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã trực tiếp hướng dẫn Em trong thời gian
thực tập tại địa phương.
Một lần nữa Em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp và bạn bè
đã giúp đỡ Em trong quá trình thực hiện đề tài.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Phạm Thị Yến

SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập


3

MỞ ĐẦU
I.1.

Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết đất đai đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng

quý giá của mỗi Quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây
dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Đất đai là tài sản
do Nhà nước thống nhất quản lý. Trong những năm trở lại đây, các khu công
nghiệp, khu đô thị mới được xây dựng làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế của
đất nước. Nhờ đó nền kinh tế của đất nước đang trên đà phát triển theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là công tác giải phóng
mặt bằng phục vụ phát triển Kinh tế - Xã hội. Việt Nam cũng như nhiều
nước khác trên thế giới, việc bồi thường đất đai để giải phóng mặt bằng
(GPMB), tái định cư (TĐC) là vấn đề mà Nhà nước phải đối mặt như một quy
luật tất yếu và phổ biến, không thể tránh khỏi. Đây là một vấn đề hết sức nhạy
cảm, phức tạp tác động tới mọi mặt của đời sống Kinh tế - Chính trị - Xã hội.
Việc thu hồi đất bao gồm cả đất ở và đất nông nghiệp cho xây dựng các khu
công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công
cộng phục vụ lợi ích quốc gia.
Trong điều kiện quỹ đất ngày càng hạn hẹp, giá đất ngày càng cao, nhịp
độ phát triển ngày càng lớn thì nhu cầu GPMB càng trở nên cấp thiết và trở
thành một thách thức lớn đối với sự phát triển Kinh tế - Chính trị - Xã hội trên
phạm vi vùng, quốc gia. Vấn đề bồi thường, hỗ trợ và TĐC trở thành điều
kiện tiên quyết để thực hiện phát triển dự án, nếu không được xử lý tốt thì sẽ

trở thành vật cản của sự phát triển kinh tế - xã hội, bởi vậy đòi hỏi phải có sự
quan tâm đúng mức và giải quyết triệt để của các cấp, ban ngành và của toàn
xã hội. Trong những năm qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và
được các địa phương nỗ lực vận dụng để giải quyết vấn đề bồi thường, hỗ trợ
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

4

và TĐC, đảm bảo việc làm, thu nhập và đời sống cho người dân có đất bị thu
hồi. Song tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp, không chuyển đổi được nghề
nghiệp, khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt tại nơi ở mới, đặc biệt là đối với
người nông dân bị thu hồi đất đã và đang diễn ra ở nhiều địa phương. Nguyên
nhân này là do ở nhiều địa phương thực hiện bồi thường, hỗ trợ và TĐC, đào
tạo, giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất còn chưa hợp lý dẫn đến
tình trạng khiếu kiện gây mất trật tự, an ninh xã hội. Xuất phát từ thực tiễn trên,
để nhìn nhận một cách đầy đủ về công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC tại huyện
Hưng Hà – tỉnh Thái Bình, được sự phân công của Khoa Quản lý đất đai, dưới
sự hướng dẫn của Cô giáo Nguyễn Thị Khuy, Em xin tiến hành thực hiện đề
tài: “Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư tại tại một số dự án trên địa bàn huyện Hưng Hà – tỉnh Thái
Bình” nhằm điều tra, tìm hiểu thực trạng và tìm ra nguyên nhân gây cản trở
khó khăn khi thực hiện dự án. Đồng thời đề xuất một số phương án nhằm góp
phần đẩy nhanh tiến độ công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC trên địa bàn huyện
đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính của Nhà nước.
1.2 Mục đích, yêu cầu

1.2.1 Mục đích nghiên cứu
-

Tìm hiểu và đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và

TĐC tại 2 dự án trên địa bàn huyện Hưng Hà – tỉnh Thái Bình.
Rút ra những ưu điểm và vấn đề còn tồn tại trong việc thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC tại các dự án đang nghiên cứu.
Đề xuất ý kiến, góp phần hoàn thiện và đẩy mạnh công tác bồi thường,
hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho mục đích an ninh quốc
phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Góp phần hoàn thiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ và TĐC phù hợp với thực tiễn.
1.1.2 Yêu cầu
Nắm vững những văn bản quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC, các
văn bản pháp luật khác có liên quan.
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

-

5

Vận dụng những quy định của Nhà nước để tìm hiểu, đánh giá việc

thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ vàTĐC khi Nhà nước thu hồi đất
-


Điều tra, khảo sát việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và TĐC của các dự

án đại diện cho mục đích phục vụ lợi ích công cộng và phát triển kinh tế; phải
thu hồi cả đất nông nghiệp và phi nông nghiệp, phải bố trí tái định cư.
-

Số liệu điều tra khảo sát phải khách quan, đảm bảo độ tin cậy.

SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

6

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1 Cơ sở lý luận về chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất.
1.1.1 Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Bồi thường là đền bù những tổn thất gây ra tương xứng với giá trị hoặc
công lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thế khác.
1.1.2 Hỗ trợ
Hỗ trợ là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào việc bồi thường cho các chủ thể
khi bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thế khác. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời tới
địa điểm mới.
1.1.3 Tái định cư

Theo từ điển tiếng việt: Tái nghĩa là “hai lần hoặc lần thứ hai, một lần
nữa”. Định cư là một nơi ở nhất định để sinh sống, làm ăn.
Do đó tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước
đây để sinh sống và làm ăn. Tái định cư bắt buộc đó là sự di chuyển không
thể tránh khỏi khi Nhà nước thu hồi hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các
dự án phát triển.
1.1.4 Đặc điểm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Như chúng ta đã biết mỗi dự án để thi công kịp tiến độ công trình thì
các chủ Dự án cần phải giải phóng xong mặt bằng. Đó là công việc trọng tâm
và hết sức quan trọng. Công việc này mang tính chất phức tạp, tốn kém nhiều
thời gian, công sức và tiền của. Ngày nay khi giá trị của đất đai ngày càng
được coi trọng thì công tác GPMB càng trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó
công tác GPMB liên quan đến lợi ích của nhiều cá nhân, tập thể và của toàn
xã hội. Công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC mang hai tính chất là tính chất đa
dạng và tính chất phức tạp:

SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

-

7

Tính đa dạng thể hiện: Mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất

khác nhau với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và trình độ dân trí nhất định.

Đối với các khu đô thị, mật độ dân cư cao, ngành nghề đa dạng, giá trị đất và
tài sản trên đất lớn dẫn đến quá trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và
TĐC có những đặc trưng nhất định. Đối với khu vực ven đô, mức độ tập trung
dân cư cao,
-

Ngành nghề dân cư phức tạp, hoạt động sản xuất đa dạng: Công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, buôn bán nhỏ... quá trình GPMB và
giá đất tính bồi thường, hỗ trợ cũng có đặc trưng riêng của nó. Đối với khu
vực nông thôn, hoạt động sản xuất chủ yếu của dân cư là sản xuất nông
nghiệp, đời sống phụ thuộc chính vào nông nghiệp cho nên việc GPMB và
định giá đất tính bồi thường, hỗ trợ cũng được tiến hành với những đặc điểm
riêng biệt.
-

Tính phức tạp thể hiện: Ở khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống vào

hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu quan trọng trong khi
trình độ sản xuất của người dân còn thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp
khó khăn do tâm lý dân cư trong vùng là giữ được đất để sản xuất, thậm trí họ
cho thuê đất được lợi nhuận cao hơn sản xuất nhưng họ vẫn không cho thuê.
1.1.5 Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích an ninh,
quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Theo Điều 39 Luật đất đai 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Nhà
nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường và TĐC sau khi quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất được công bố hoặc khi dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng
đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xét duyệt.
Trước khi thu hồi đất chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông

nghiệp và một trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

8

hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, hỗ
trợ và TĐC.
Sau khi có quyết định thu hồi đất và phương án bồi thường, giải phóng
mặt bằng và TĐC đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, được
công bố công khai, có hiệu lực thi hành, người bị thu hồi đất phải chấp hành
quyết định thu hồi đất.
Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi
đất thì Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra
quyết định cưỡng chế. Người bị cưỡng chế thu hồi đất phải chấp hành quyết
định cưỡng chế và có quyền khiếu nại.
1.2 Giá đất và định giá đất
1.2.1 Giá đất
Theo điều 55 Luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2009, Điều 2
Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá
đất và khung giá đất có quy định rằng: Giá đất do UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương quy định được công bố công khai vào ngay 01 tháng 01
hàng năm được sử dụng làm căn cứ để tính thuế đối với việc sử dụng đất, thuế
thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; tính tiền sử dụng đất và tiền thuê đất
khi giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá QSDĐ hoặc đấu thầu dự

án có sử dựng đất, tính giá trị quyền sử dụng đất khi giao đất không thu tiền
sử dụng đất, lệ phí trước bạ, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; tính tiền
bồi thường đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây thiệt
hại cho Nhà nước.
Theo điều 56 Luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2009 thì giá
đất phải đảm bảo nguyên tắc sát với giá chuyển nhượng QSDĐ thực tế trên
thị trường trong điều kiện bình thường; khi có chênh lệch lớn so với giá
chuyển nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường thì phải điều chỉnh cho phù
hợp. Các thửa đất liền kề nhau, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, kết cấu
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

9

hạ tầng như nhau, cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng
theo quy hoạch thì mức giá như nhau. Đất giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, có điều kiện tự nhiên, kết cấu hạ tầng như nhau, có
cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng theo quy hoạch thì
mức giá như nhau.
1.2.2 Định giá, định giá đất, định giá bất động sản.
Định giá là việc quy định về giá mua, giá bán tài sản hàng hoá, dịch vụ
của cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước theo trình tự và thủ tục nhất định.
Định giá đất là xác định và ước tính về mặt giá trị của quyền sử dụng
đất bằng hình thái tiền tệ cho mục đích sử dụng đã được xác định tại một thời
điểm cụ thể. Bản chất của định giá đất là xác định giá trị các yếu tố tự nhiên
cấu thành và kinh tế xã hội ảnh hưởng tác động tới đất đai.

Định giá bất động sản là một yếu tố không thể thiếu trong thị trường
bất động sản (BĐS). Thông qua định giá Nhà nước triển khai trên thực tế các
chính sách và các khoản thu để các bên giao dịch quyết định các lựa chọn của
mình và cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính.
1.3 Chính sách bồi thường hỗ trợ, tái định cư ở Việt Nam khi Nhà nước
thu hồi đất qua các thời kỳ.
1.3.1 Trước khi có luật đất đai năm 1993
Quá trình hình thành các triều đại phong kiến, trong mỗi kiểu Nhà
nước, tuỳ theo hình thức kinh tế, chính trị xã hội và những đặc điểm truyền
thống, huyết thống, tập tục... mà các hình thức sở hữu đất đai luôn được giai
cấp thống trị chú trọng. Ngay từ thời kỳ phát triển Nhà nước Trung ương tập
quyền đến thời Nguyễn, chính sách bồi thường cho người thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất đã được xác lập và chủ yếu tập trung vào bồi thường cho
ruộng đất canh tác, đất ở không được quan tâm nhiều so với các loại đất khác.
Hình thức bồi thường chủ yếu bằng tiền, mức bồi thường được quy định chặt
chẽ, tương xứng với những thiệt hại của người bị thu hồi đất.
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

10

Sau cách mạng tháng 8/1945, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ Cộng hoà (1946) chỉ rõ: "Nhiệm vụ của dân tộc trong giai đoạn này
là nhằm bảo toàn lãnh thổ giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên
nền tảng dân chủ...". Với mục tiêu người cày có ruộng, ngày 04/12/1953, Luật
cải cách ruộng đất ra đời nhằm thủ tiêu chính quyền chiếm hữu ruộng đất của

thực dân Pháp và tay sai bán nước ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến
chiếm hữu ruộng đất, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, đồng
thời tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng. Cải cách ruộng đất hoàn thành,
nông dân có quyền sử dụng ruộng đất được chia cấp.
Để đáp ứng nhiệm vụ xây dựng đất nước trong giai đoạn cách mạng
mới, ngày 14/4/1959, Hội đồng chính phủ (nay là Chính phủ) đã ban hành
Nghị định 151/TTg quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất. Đây có
thể coi là văn bản pháp quy đầu tiên liên quan tới bồi thường TĐC bắt buộc ở
Việt Nam. Tiếp sau đó, Liên bộ uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Nội vụ ban
hành Thông tư Liên bộ số 1424/TTLB ngày 06/7/1959 hướng dẫn việc thi
hành Nghị định 151/TTg với các nguyên tắc cơ bản là đảm bảo kịp thời và đủ
diện tích cần thiết cho xây dựng, đồng thời chiếu cố đúng mức quyền lợi và
đời sống của người có ruộng đất; những người có ruộng đất bị trưng dụng
được bồi thường và trong trường hợp cần thiết phải được giải quyết công ăn
việc làm; chỉ được trưng dụng số ruộng đất cần thiết, không được trưng dụng
thừa, hết sức tiết kiệm ruộng đất cày cấy trồng trọt; hế sức tránh những nơi
dân cư đông đúc, nghĩa trang liệt sĩ, nhà thờ, chùa, đền, những người có ruộng
đất trưng dụng cần được báo cáo trước một thời gian là hai tháng để kịp di
chuyển.
Ngày 11 tháng 01 năm 1970, thủ tướng Chính phủ ban thành Thông tư
1792/TTg quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây
cối, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng
thành phố. Nguyên tắc bồi thường theo quy định của Thông tư 1972/TTg là
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập


11

phải bảo đảm thoả đáng quyền lợi kinh tế của các hợp tác xã và của nhân dân,
nhưng cũng không vì thiên lệch về phía nhân dân mà Nhà nước phải bồi
thường quá.
Mặc dù chính sách bồi thường về đất chưa được quy định trong luật và
thể chế thành một chính sách đầy đủ, song quy định về bồi thường khi mà
mức trưng dụng đất tại Thông tư 1792/TTg đã có sự thay đổi so với Nghị định
151/TTg, từ "chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống của những người có
ruộng đất bị trưng dụng" trước đây sang "đảm bảo quyền lợi kinh tế của HTX
và của nhân dân", đồng thời những quy định tại Nghị định số 151/TTg trước
đây chỉ có tính nguyên tắc thì đến Thông tư 1792/TTg đã được quy định cụ
thể mức bồi thường nhà ở, đất đai, cây lâu năm, hoa màu trên đất.
Sau khi giải phóng miền Nam, để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách
mạng mới, Hiến pháp năm 1980 ra đời, bước đầu tạo ra sự đổi mới về nhận
thức cũng như phương thức quản lý kinh tế. Điều 19 của Hiến pháp khẳng
định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng sự phát triển kinh tế vẫn dựa trên
cơ sở chế độ bao cấp. Về đất đai, pháp luật không quy định có giá và không
cho phép đất đai tham gia chuyển dịch dân sự (điều này thể hiện trong Quyết
định số 201/CP ngày 01/07/1980 của Hội đồng Chính phủ). Khi có nhu cầu sử
dụng đất, Nhà nước sẽ cấp đất và không thu tiền sử dụng đất, cần bao nhiêu,
Nhà nước cấp bấy nhiêu, quan hệ đất đai giữa Nhà nước với người sử dụng
đất đơn thuần chỉ là quan hệ "giao - thu".
Luật Đất đai 1987 ra đời dựa trên quy định đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước thống nhất quản lý, khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ
cho các mục đích công cộng, người sử dụng đất không được Nhà nước bồi
thường bằng đất, chỉ được bồi thường bằng tiền, tài sản hoa màu có trên diện
tích bị thu hồi.
Ngày 31 tháng 5 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số
186/HĐBT về bồi thường thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển

SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


12

Báo cáo thực tập

sang sử dụng vào mục đích

khác. Theo quy định của Nghị định số

186/HĐBT thì các tổ chức, cá nhân được giao đất nông nghiệp, đất có rừng để
sử dụng vào mục đích khác phải bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp, đất
có rừng mà người được Nhà nước giao đất phải nộp được điều tiết về ngân
sách Trung ương 30%, còn lại 70% thuộc ngân sách địa phương để sử dụng
vào việc khai hoang, phục hoá, cải tạo đất nông nghiệp, định canh, định cư
cho nhân dân vùng bị lấy đất. Người có đất bị thu hồi chỉ được bồi thường
thiệt hại tài sản trên đất, trong lòng đất. Nếu Nhà nước thu hồi vào đất làm
nhà ở, việc bồi thường thiệt hại về đất không được đặt ra ngoài người bị thu
hồi đất làm nhà ở sẽ phải tự lo liệu.
Tóm lại, do thời kỳ này đất đai được thừa nhận có giá trị nên các chính
sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC còn nhiều hạn chế, thế hiện trong cách tính
giá trị bồi thường, phương thức thực hiện. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách
công bằng thì những chính sách này cũng đã đóng vai trò tích cực trong việc
GPMB để dành đất cho việc xây dựng các công trình quan trọng trong hệ
thống cơ sở hạ tầng ban đầu của đất nước.
1.3.2. Thời kỳ 1993 – 2003
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật Đất đai năm 1993 được Quốc hội

thông qua và có hiệu lực từ ngày 15/10/1993. Với quy định "đất có giá" và
người sử dụng đất có các quyền và nghĩa vụ, đây là sự đổi mới có ý nghĩa rất
quan trọng đối với công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC của Luật Đất đai năm
1993.
Những quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC của Luật Đất đai năm
1993 đã thu được những thành tựu quan trọng trong giai đoạn đầu thực hiện,
nhưng càng về sau, do sự chuyển biến mau lẹ của tình hình kinh tế xã hội, nó
đã dần mất đi vai trò làm động lực thúc đẩy phát triển. Để tạo điều kiện đẩy
nhanh tốc độ GPMB, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, đồng thời đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, Luật dửa đổi, bổ sung một số
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

13

điều của Luật Đất đai năm 2001, nhiều văn bản quy định về chính sách bồi
thường, hỗ trợ và TĐC đã được ban hành, bao gồm:
- Nghị định 87/CP ngày 17/8/1994 ban hành khung giá các loại đất.
- Nghị định số 90/CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ quy định về việc
bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an
ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
- Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 của Chính phủ về việc
bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an
ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; thay thế Nghị định số
90/CP nói trên.
- Thông tư 145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ Tài chính hướng

dẫn thi hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 của Chính phủ.
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP và Thông tư số 145/1998/TT-BTC đã quy
định rõ phạm vi áp dụng bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, đối
tượng phải bồi thường thiệt hại, đối tượng được bồi thường thiệt hại, phạm vi bồi
thường thiệt hại và các chính sách cụ thể về bồi thường thiệt hại về đất, tài sản
gắn liền với đất, việc lập khu TĐC cũng như việc tổ chức thực hiện.
Về việc áp dụng: Chính sách bồi thường, GPMB theo quy định của
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP và Thông tư số 145/1998/TT-BTC áp dụng
chung cho mọi trường hợp bị Nhà nước thu hồi đất. Đây là một điểm khác so
với Nghị định số 90/CP.
Đối tượng phải bồi thường thiệt hại: Người sử dụng đất được Nhà
nước giao đất hoặc cho thuê đất có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về đất và
tài sản cho người có đất bị thu hồi để giao hoặc cho mình thuê.
Đối tượng được bồi thường thiệt hại: Phải là người có quyền sử dụng
đất, người sở hữu tài sản hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Phạm vi bồi thường thiệt hại gồm:
- Bồi thường thiệt hại về đất cho toàn bộ diện tích đất thu hồi.
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

14

- Bồi thường thiệt hại về tài sản hiện có.
- Trợ cấp đời sống và sản xuất cho những người phải di chuyển chỗ ở,
di chuyển địa điểm sản xuất kinh doanh.
Trả chi phí chuyển đổi nghề nghiệp cho người có đất bị thu hồi.

- Trả các chi phí phục vụ trực tiếp cho việc tổ chức thực hiện bồi
thường, di chuyển, GPMB.
Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại về đất: Khi Nhà nước thu hồi đất thì
tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có đất bị thu hồi được bồi thường bằng
tiền, nhà ở hoặc bằng đất. Khi bồi thường bằng đất hoặc nhà ở mà có sự
chênh lệch về giá trị thì người được bồi thường được nhận hoặc phải trả lại
phần chênh lệch giá trị đo bằng tiền.
Về điều kiện được bồi thường: Do chính sách đất đai của Nhà nước Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử có nhiều thay đổi và do còn nhiều bất cập trong
công tác quản lý, sử dụng đất, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP đã quy định rất cụ
thể, chi tiết các trường hợp được bồi thường thiệt hại về đất, về tài sản.
Về giá đất để tính bồi thường thiệt hại: Giá đất để tính bồi thường thiệt
hại được xác định trên cơ sở giá đất của địa phương ban hành theo quy định
của Chính phủ nhân với hệ số K để đảm bảo giá đất tính bồi thường phù hợp
với khả năng sinh lợi và giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở địa phương.
Về chính sách hỗ trợ: Thực tế, khi Nhà nước thu hồi đất của người đang
sử dụng đất ổn định, lâu dài, hậu quả là người dân bị mất đất ở, mất tư liệu sản
xuất, nhiều trường hợp phải di chuyển chỗ ở, đời sống của người bị thu hồi đất
gặp nhiều khó khăn, nên việc thực hiện các chính sách hỗ trợ để khôi phục thu
nhập, cải thiện mức sống của những người bị ảnh hưởng là rất cần thiết. Chính
sách hỗ trợ quy định trong Nghị định số 22/1998/NĐ-CP bao gồm:
- Hỗ trợ về ổn định sản xuất và đời sống, chi phí đào tạo chuyển nghề.
- Trợ cấp ngừng việc cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp
trong thời gian ngừng sản xuất kinh doanh đến lúc sản xuất kinh doanh trở lại
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập


15

hoạt động bình thường.
- Trợ cấp chi phí di chuyển, hỗ trợ tạo lập chỗ ở đối với người đang sử
dụng nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước, thưởng tiến độ.
- Hỗ trợ cho các đối tượng chính sách.
Về TĐC: Chính sách TĐC được đề cập đầy đủ hơn so với các Nghị
định trước đó, việc Nhà nước chuẩn bị đủ điều kiện để lập khu TĐC (bao gồm
quỹ đất, quỹ nhà ở và quỹ tiền mặt) là một phần đảm bảo công tác GPMB thực
hiện nhanh chóng. Lập khu TĐC được cụ thể hoá một chương riêng trong Nghị
định số 22/1998/NĐ-CP, bao gồm quy định thẩm quyền phê duyệt lập khu TĐC,
điều kiện bắt buộc phải có khu TĐC, nguyên tắc bố trí đất ở cho các hộ gia đình
tại khu TĐC và nguồn vốn xây dựng khu TĐC. Ngoài ra còn có một số quy định
về chính sách hỗ trợ lập khu TĐC, góp phần khôi phục cuộc sống của người dân
trong vùng giải toả. Lập khu TĐC, thể hiện chính sách đổi mới của Nhà nước về
quan điểm và mục tiêu lấy con người làm trọng tâm trong quá trình bồi thường
thiệt hại đối với người bị thu hồi đất.
Về tổ chức thực hiện: Các văn bản trước đây mới chỉ quan tâm đến nội
dung bồi thường cho đất bị thu hồi và các tài sản gắn liền với đất bị thu hồi,
thì Nghị định số 22/1998/NĐ-CP đã có quy định cụ thể về công tác tổ chức
thực hiện, trách nhiệm của UBND các cấp và Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và
TĐC cấp thành phố trong việc chỉ đạo thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ
và TĐC của các dự án như lập phương án bồi thường, xác định mức bồi
thường hoặc trợ cấp cho từng tổ chức gia đình, cá nhân và tổ chức thực hiện
bồi thường theo phương án được phê duyệt. Các quy định này đã giúp cho các
địa phương có sự chủ động trong việc lựa chọn phương án bồi thường phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, quỹ đất, tập quán của địa phương.
1.3.3. Từ khi có luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2009 đến nay.
Luật Đất đai năm 2003 được Quốc hội thông qua và có hiệu lục thi hành từ

SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

16

ngày 01/7/2004. Để hướng dẫn việc bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước
thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, Chính phủ và các Bộ,
ngành đã ban hành các văn bản sau:
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi
hành Luật Đất đai.
- Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ Tài chính về
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm
2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
- Thông tư số 116/TT-BTC ngày 07/12/ 2004 của Bộ Tài chính về
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của
Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ về bổ
sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
- Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 15 tháng 6 năm 2007 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung
về việc cấp GCN QSDĐ, thu hồi đất, thực hiện QSDĐ, trình tự thủ tục bồi
thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về
đất đai.
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và TĐC.
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

17

Các Nghị định và Thông tư nêu trên đã quy định cụ thể về bồi thường,
hỗ trợ và TĐC như sau:
- Quy định những trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh
tế, trách nhiệm của UBND các cấp đối với những trường hợp nhà đầu tư thoả
thuận với người sử dụng đất.
- Quy định phạm vi, loại đất để tính bồi thường:
+ Quy định về giải quyết các trường hợp đang sử dụng đất nhưng
không có một trong các loại giấy tờ về đất đai.
+ Phạm vi, giới hạn đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư và đất
vườn, ao liền kề với đất ở để được hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất.
- Quy định về giá đất, phương pháp xác định giá đất:
+ Xác định lại giá đất cho phù hợp với thị trường đối với trường hợp
giá đất do UBND cấp tỉnh quy định và công bố chưa sát với giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình

thường.
+ Quy định mở rộng khung giá, nâng mức giá tối đa của khug giá một
số loại đất (các loại đất nông nghiệp, đất ở và đất sản xuất kinh doanh phi
nông nghiệp tại nông thôn) tăng thêm 50%.
- Quy định về hỗ trợ, giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất:
+ Trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất có mức sống thuộc
diện hộ nghèo thì được hỗ trợ để vượt qua hộ nghèo.
+ Trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị
thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp không được Nhà nước bồi thường
bằng đất nông nghiệp tương ứng được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo
việc làm bằng cách giao đất để làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch
vụ phi nông nghiệp.
- Quy định hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi được giao đất TĐC
mà có nguyện vọng ghi nợ thì được ghi nợ tiền sử dụng đất trên giấy từ chứng
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

18

nhận quyền sử dụng đất.
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành, đã quy
định nhiều chính sách mới nhằm giải quyết các vướng mắc trong bồi thường,
hỗ trợ và TĐC trong đó tập trung nâng cao mức hỗ trợ cho người có đất nông
nghiệp bị thu hồi như: đất vườn, ao xen kẽ khu dân cư hoặc trong cùng thửa
đất có nhà ở riêng lẻ, việc bên ngoài được thu hồi theo giá đất nông nghiệp
trồng cây lâu năm còn được hỗ trợ thêm 30 - 70% giá đất ở trong khu vực; đất

nông nghiệp xen kẽ khu dân cư được hỗ trợ thêm 20 - 50% giá trị đất ở trong
khu vực. Ngoài ra nông dân bị thu hồi đất sẽ được hỗ trợ chuyển nghề bằng
1,5 - 5 lần đất nông nghiệp... đồng thời, Nghị định cũng quy định việc lập
Quỹ phát triển đất trên cơ sở trích từ 30 - 50% nguồn thu hàng năm từ tiền sử
dụng đất, đấu giá quyền sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ và TĐC; phát triển
khu TĐC nhằm đảm bảo vai trò của Nhà nước trong việc ổn định xã hội thông
qua chính sách điều tiết tài nguyên đất đai sẽ góp phần làm hài hoà các lợi ích
giữa Nhà nước và các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Nhà nước có thể chủ động mua lại diện tích đất của các doanh nghiệp thuộc
diện phải được di dời ra khỏi các đô thị do quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi
trường để bổ sung vào quỹ đất phục vụ mục tiêu chính sách xã hội.
Về cơ bản, chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC theo Luật Đất đai
năm 2003 đã kế thừa những ưu điểm của chính sách trong thời kỳ trước, đồng
thời có những đổi mới nhằm góp phần tháo gỡ các vướng mắc trong việc bồi
thường, hỗ trợ và TĐC hiện nay.
Luật Đất đai năm 1993 quy định chỉ thu hồi đất khi đã có dự án đầu tư
cụ thể, nay Luật Đất đai năm 2003 quy định Nhà nước thực hiện việc thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ và TĐC sau khi đã quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
được công bố hoặc khi có dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét
duyệt, nhằm để chủ động quỹ đất cho đầu tư phát triển; Nhà nước giao cho tổ
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

19


chức phát triển quỹ đất (do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thành lập) để thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và TĐC, trực tiếp
quản lý đất đã bị thu hồi đối với trường hợp sau khi quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất được công bố mà chưa có dự án đầu tư.
Về giá đất bồi thường: Giá đất do Nhà nước quy định đảm bảo nguyên
tắc sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong
điều kiện bình thường; các thửa đất liền kề nhau, có điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng
mục đích sử dụng theo quy hoạch thì mức giá như nhau; đất tại khu vực giáp
ranh giữa các tỉnh, thành phố thuộc trung ương, có điều kiện tự nhiên, kết cấu
hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng
theo quy hoạch thì mức giá như nhau. Giá đất để tính bồi thường là giá đất
theo mục đích đang sử dụng đã được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quy định và công bố; không bồi thường theo giá đất sẽ chuyển mục đích
sử dụng. Việc bồi thường cho người có đất bị thu hồi được tính theo giá đất
do Nhà nước quy định theo các nguyên tắc trên đã tạo nên tính nhất quán về
mặt giá trị. Đối với trường hợp giá đất do UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quy định tại thời điểm thu hồi đất hoặc thời điểm giao đất
chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường
trong điều kiện bình thường thì UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp mà không bị giới hạn bởi khung
giá đất do Chính phủ quy định tại Nghị định số 123/2007/NĐ-CP. Đây là một
trong những quy định của pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người có đất bị thu hồi trong trường hợp giá bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất thấp hơn giá đất thực tế trên thị trường.
Về đối tượng được bồi thường thiệt hại về đất: So với trước đây, trong
thời kỳ này các đối tượng bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đã mở rộng
hơn. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có các loại giấy tờ theo
SV: Phạm Thị Yến


Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

20

quy định nhưng đất đã được sử dụng trước ngày 01/7/2004, nay được UBND
xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sẽ được bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất.
Về chích sách hỗ trợ: Một trong những mối quan tâm của Nhà nước ta
hiện nay đó là việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư không được làm
ảnh hưởng xấu tới đời sống của người dân có đất bị thu hồi, đặc biệt là thuộc
diện hộ nghèo. Ngoài các chính sách hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản
xuất, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp như trước đây, chính sách hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất trong thời kỳ này đã được quy định theo hướng tạo điều kiện
cho các hộ vượt nghèo. Chẳng hạn như các hộ nghèo bị thu hồi đất thì được
hỗ trợ để vượt nghèo từ 3 tới 10 năm theo mức và thời gian do UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định; hộ sản xuất nông nghiệp bị
thu hồi trên 30% đất nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường
thì được giao đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, trường
hợp không có đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp thì
những thành viên trong hộ còn trong độ tuổi lao động được hỗ trợ đào tạo
chuyển đổi nghề nghiệp.
Về TĐC: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải thực hiện
các dự án TĐC trước khi thu hồi đất. Khu TĐC phải có điều kiện phát triển
bằng hoặc tốt hơn nơi cũ. Trường hợp không có khu TĐC thì người bị thu
hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở

thuộc sở hữu của Nhà nước đối với các khu vực đô thị, bồi thường bằng đất
ở đối với khu vực nông thôn. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi
đất phải ở TĐC thì việc bố trí TĐC phải gắn với tạo việc làm hoặc chuyển
đổi nghề nghiệp.
Về trình tự tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và TĐC: Một điểm
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

21

mới đó là người sử dụng đất được thông báo về việc thu hồi đất và phương án
tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và TĐC; quá trình lập phương án bồi thường,
hỗ trợ và TĐC có sự tham gia của người dân có đất bị thu hồi trước khi trình
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
1.4 Thực trạng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở một số địa phương trong cả
nước.
1.4.1 Thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở Thành phố Hà Nội.
Tính đến năm 2008 số dự án GPMB của Thành phố Hà Nội là 1.005
gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước, với quy mô thu hồi đất trên 13.500 ha
gấp 4,5 lần sơ với kỳ trước, phạm vi thu hồi liên quan đến hơn 186.000 tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân với số hộ cần bố trí TĐC là trên 19.000 hộ.
Ba tháng đầu năm 200 9, thành phố Hà Nội tiếp tục thực hiện GPMB
trên 790 dự án, với quy mô thu hồi đất lên đến trên 11.700 ha, liên quan đến
gần 177.000 hộ dân, tái định cư cho trên 16.420 hộ. Đến nay, 14 dự án đã
hoàn thành toàn bộ công tác GPMB; 4 dự án đã hoàn thành bàn giao một phần
theo phân kỳ đầu tư, bàn giao 102 ha đất, chi trả 278 tỷ đồng cho gần 1.470

hộ, tái định cư 378 hộ.
Tính đến năm 2012 một số dự án cơ bản trên địa bàn thành phố đã hoàn
thành và đi vào bàn giao mặt bằng từng phần cho chủ đầu tư để đảm bảo tiến
độ khởi công, thi công như: cung Hữu Nghị Việt Trung(Từ Liêm), cầu Nhật
Tân và đường dẫn 2 bên đầu cầu (Đông Anh, Sóc Sơn), cầu Vĩnh Thịnh (Sơn
Tây), đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông (Hà Đông). Các dự án trọng điểm
của thành phố gồm: đường Văn Cao – Hồ Tây, đường vành đai một đoạn ô
Chợ Dừa – Hoàng Cầu và đoạn ô Đông Mác – đê Nguyễn Khoái; thoát nước
Hà Nội – Dự án 2; cải tạo môi trường các hồ ở nội thành Hà Nội... các dự án
dân sinh bức xúc như khu đô thị Mỗ Lao, mở rộng đường Nguyễn Khuyến,

SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

22

các khu đô thị Lê Trọng Tấn – Dương Nội – An Hưng... trên địa bàn xã
Dương Nội, quận Hà Đông.
Thành phố đã tập trung chỉ đạo, đề ra nhiều giải pháp, rà soát, thống
nhất ban hành nhiều cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC. Đặc biệt
sau khi mở rộng địa giới hành chính thành phố; trực tiếp xem xét, khảo sát,
kiểm tra xử lý những khó khăn, vướng mắc về chính sách bồi thường, hỗ trợ
cho người dân phải di dời ở một số dự án trọng điểm. Các cấp, các ngành, đặc
biệt là các ngành chức năng của thành phố đã có nhiều cố gắng, vào cuộc
quyết liệt, đồng bộ, thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả của thành phố.
Tuy nhiên trong quá trình giải phóng vẫn còn gặp nhiều khó khăn do

quỹ nhà TĐC của Hà Nội còn thiếu, tiến độ đầu tư xây dựng khu TĐC chưa
đáp ứng yêu cầu ảnh hưởng tới tiến độ giải phóng mặt bằng. Một số cán bộ
trực tiếp làm công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC ở cơ sở còn tiêu cực, vi
phạm pháp luật gây bức xúc trong nhân dân. Trong quá trình bồi thường, hỗ
trợ và TĐC không tránh khỏi những ý kiến trái chiều sự đồng thuận và không
đồng thuận trong nhân dân. Do đó việc giải quyết đơn thư khiêu nại, tố cáo
liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC là một vấn đề hết sức quan
trọng.
Ngoài ra do nhiều yếu tố khách quan khác như đất đai hiếm, giá thị
trường cao, yêu cầu đối với công tác bảo đảm việc làm, đời sống cho người
dân sau khi thu hồi đất khó khăn nên so với các địa phương khác công tác bồi
thường , hỗ trợ và TĐC ở Hà Nội gặp nhiều khó khăn và phức tạp hơn nhiều.
1.4.2 Thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở thành phố
Đông Hà tỉnh Quảng Trị.
Theo trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đông Hà tính đến cuối
năm 2012, thành phố có hơn 40 công trình cần GPMB trong đó có 25 công
trình đã cơ bản hoàn thành công tác GPMB, 15 công trình đang triển khai
GPMB. Trong đó 15 công trình đang tiến hành giải quyết có những công trình
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

23

có quy mô lớn, số hộ bị ảnh hưởng nhiều như công trình xây dựng hạ tầng cơ
sở đường Trần Nguyên Hãn, phường Đông Giang; công trình đường Lê Lợi
nối dài, phường Đông Lương, công trình hạ tầng khu công nghiệp Đông Hà...

Trong số các công trình đã và đang triển khai trên địa bàn thành phố có
hơn 500 hộ dân trong diện bị ảnh hưởng được đền bù hỗ trợ, trong đó tỷ lệ hộ
dân trong diện bồi thường, hỗ trợ và TĐC bị vướng mắc, khó giải quyết
chiếm đến 10%. Thực trạng trên khiến công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC
diễn ra một cách ì ạch, ảnh hưởng đến tiến độ công trình, đặc biến các khiếu
nại liên quan đến đền bù hỗ trợ di dời GPMB liên tục tăng. Theo báo cáo của
thanh tra tỉnh, đến cuối năm 2012 thành phố Đông Hà hiện có 9 đơn thư tồn
đọng kéo dài của 15 hộ đứng đơn khiếu nại về công tác bồi thường, hỗ trợ và
TĐC thi công các công trình xây dựng trên địa bàn. Một số trường hợp gặp
vướng mắc, kéo dài khiến công trình bị gián đoạn, không thực hiện 100%
khối lượng theo thiết kế, gây mất mỹ quan và hiệu quả công trình như công
trình nút giao thông Lê Chưởng – Trần Hưng Đạo; công trình đường Nguyễn
Du...
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nhiều vướng mắc trong công tác bồi
thường, hỗ trợ và TĐC ở thành phố Đông Hà là do cơ chế chính sách, pháp
luật còn nhiều bất cập và chậm thay đổi. Về giá đất đền bù theo định hướng
thấp hơn giá thị trường 2 – 3 lần. Điển hình là việc áp giá bồi thường, hỗ trợ
và TĐC đối với các hộ dân trên đường 9B, thuộc dự án mở rộng quảng trường
Trung tâm văn hoá tỉnh nhiều hộ dân cho rằng việc áp giá mức 240 triệu
đồng/ mét ngang là không thoả đáng vì trước đó trên cùng một vị trí một cây
xăng do phá sản đã tổ chức đấu giá khu đất với diện tích 10 mét ngang và đã
được bán với giá 6,9 tỷ đồng.
Về giá bồi thường vật kiến trúc, nhà cửa, cây cối, tài sản trên đất hiện
thấp hơn giá thị trường 20%. Chính sách áp giá đền bù không thống nhất giữa
các công trình do tỉnh làm chủ đầu tư là dự án mở rộng quốc lộ 1A và dự án
SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC



Báo cáo thực tập

24

mở rộng quảng trường trung tâm văn hoá tỉnh giai đoạn 2 được tăng tổng mức
bồi thường, hỗ trợ và TĐC lên 20%, trong khi đó các công trình khác do
thành phố Đông Hà làm chủ đầu tư không được điều chỉnh tăng vốn khiến
nhiều hộ dân không đồng tình. Các quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC
đối với các hộ dân bị thu hồi nhiều đất, hộ gia đình có nhiều thế hệ sinh sống,
đông con, hộ gia đình ở hai đầu tuyến giao thông chưa phù hợp, thoả đáng.
Quá trình lập dự án, đơn vị tư vấn luôn lập dự toán bồi thường, hỗ trợ và TĐC
thấp hơn so với thực tế nên khi triển khai phải điều chỉnh lại.
Bên cạnh đó, việc thiếu khu TĐC là một nguyê nhân khiến công tác
GPMB thêm phần khó khăn. Hiện Đông Hà có một số khu TĐC chỉ mới dự
án trên giấy như khu TĐC phường 3, Tây Hùng Vương. Trong khi đó, một số
khu TĐC chỉ được triển khai khi có dự án xây dựng công trình với mục đích
phục vụ TĐC đối với các hộ dân bị ảnh hưởng trực tiếp từ công trình như khu
TĐC phường Đông Giang phục vụ di dời các hộ dân đường Trần Nguyên
Hãn; khu TĐC phường Đông Thanh phục vụ TĐC các hộ dân công trình cầu
sông Hiếu và đường 2 đầu cầu.
Mặt khác, một bộ phận nhân dân thiếu hợp tác và có trường hợp lôi kéo
các hộ dân khác không đồng tình với chính sách cua Nhà nước theo ý chí chủ
quan của mình. Đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC của
thành phố Đông Hà chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng, đặc biệt là thiếu
năng lực, kinh nghiệm trong vận động, thuyết phục, đối thoại với nhân dân
trong khi đó số lượng công trình cần GPMB ngày càng nhiều.
Trong hiện tại và tương lai, thành phố Đông Hà sẽ triển khai nhiều
công trình có quy mô ngày càng lớn nhằm phát triển đô thị xứng tầm với vị trí
tỉnh lỵ.


SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


Báo cáo thực tập

25

1.5. Cơ sở pháp lý của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Cơ sở pháp lý của việc bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất vào mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
dựa theo một số văn bản sau đây:
-

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;

-

Căn cứ Luật đất đai ngày 26/11/2003

-

Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi

hành Luật Đất đai;
-

Căn cứ Luật ban hành văn bản pháp luật của HĐND và UBND ngày


03/12/2004;
-

Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 07/01/2006 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai;
Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định
bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực
hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
Thông tư 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/01/2008 của Bộ Tài
chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn thực hiện một số
Điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ về quy
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư.

SV: Phạm Thị Yến

Lớp: LDH1DC


×