Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận định hướng và giải pháp hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.81 KB, 24 trang )

Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU..............................................................................................3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ......4
1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ........................................................4
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ...............................................................4
1.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ.........................................................4

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ CỦA NHTW VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 ĐẾN NAY..........6
2.1 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2008: chính sách tiền tệ thắt chặt
(đầu năm 2008) và nới lỏng (cuối năm 2008)..............................................6
2.1.1 Những kết quả đạt được........................................................................................................6
2.1.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2008...................................................................................7

2.2 Điều hành chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát năm 2009: chính
sách nới lỏng tiền tệ.........................................................................................8
2.2.1 Những kết quả đạt được.......................................................................8
2.2.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2009...................................................................................9

2.3 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2010:..............................................10
2.3.1 Những kết quả đạt được......................................................................................................10
2.3.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2010.................................................................................10

2.4 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2011:..............................................11
2.4.1 Những kết quả đạt được......................................................................................................11



2.4.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2011...............................................13
2.5 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2012...............................................14
2.5.1 Những kết quả đạt được......................................................................................................14
2.5.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2012................................................................................15

2.6 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2013 và định hướng năm 2014...16
2.6.1 Những kết quả đạt được của năm 2013..............................................................................16
2.6.2 Định hướng điều hành CSTT năm 2014...............................................................................18

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM. 20
3.1. Định hướng.............................................................................................20
3.1.1.Bối cảnh trong nước và quốc tế...........................................................................................20
3.1.2. Một số định hướng cơ bản:................................................................................................20

Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 1


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

3.2. Giải pháp:................................................................................................21
3.2.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi................................................21
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ...............................21

KẾT LUẬN........................................................................................24


Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 2


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô cực kỳ
quan trọng trong nền kinh tế thị trường vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực
lưu thông tiền tệ, từ đó tác động vào tổng cầu và sản lượng của nền kinh tế,
góp phần thúc đẩy các hoạt động trong nền kinh tế. Ở Việt Nam, kể từ khi
đổi mới đến nay, Chính sách tiền tệ đã từng bước được hình thành, hoàn
thiện và phát huy tác dụng đưa nước ta thoát khỏi thời kỳ khủng hoảng, phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt,
trong giai đoạn hiện nay, khi mà kinh tế nước ta vừa trải qua cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính thế giới thì việc nghiên cứu chính sách tiền tệ và các
công cụ của nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Điều đó góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển vững chắc.

Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 3


Trường đại học Thương Mại


Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là tổng hòa những phương thức mà NHTW thông qua các
hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ
cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước trong một thời kỳ
nhất định.
Thực chất chính sách tiền tệ là sự cụ thể hóa những biện pháp nhằm tác
động vào mức cung tiền trong nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất trên thị
trường. Thông qua vai trò của lãi suất, chính sách tiền tệ tác động vào tổng cầu
và sản lượng của nền kinh tế, thúc đẩy các hoạt động trong nền kinh tế nhằm
giải quyết các mục tiêu trong nền kinh tế vĩ mô đề ra gắn với từng thời kỳ, từng
giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
* Phát triển kinh tế, gia tăng sản xuất
Phát triển kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch
định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng
đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể
hiện lòng tin của dân chúng đối với chính phủ.
* Tạo công ăn việc làm
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ
đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất
nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
* Kiểm soát lạm phát
NHTW thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến sự tăng hay
giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền được ổn định được
xem xét trên 2 mặt: sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hóa và
dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so

với ngoại tệ). Tuy vậy, Chính sách tiền tệ hướng tới ổn định giá trị đồng tiền
không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng 0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát
triển được, để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát
tăng lên.
1.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ
NHTW điều chỉnh mức cung tiền và lãi suất bằng nhiều công cụ khác nhau
nhằm tác động vào lượng tiền cơ sở và số nhân tiền. Trong đó có ba công cụ chủ yếu:
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 4


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

* Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
OMO là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất. Việc mua bán trên thị
trườnh mở sẽ tác động đến lượng tiền tệ cung ứng.
- Chủ thể tham gia: không giới hạn, với điều kiện đáp ứng đầy đủ các tiêu
chuẩn cụ thể của NHTW đưa ra nhằm đảm bảo độ tin cậy và HQ của NHTW
- Cơ chế hoạt động
+ Việc mua bán chứng khoán của NHTW sẽ ảnh hưởng tới dữ trữ của
NHTM thông qua tác động đến tiền gửi của NHTM tại NHTW và tiền gửi của
khách hàng tại các NHTM. Nếu NHTW bán chứng khoán và người mua là
NHTM hay khách hàng của NHTM thì sẽ làm giảm lượng tiền cung ứng.
+ Việc mua bán chứng khoán của NHTM còn tác động gián tiếp đến lãi suất
thị trường. Khi NHTW bán chứng khoán, người mua là khách hàng của NHTM từ
đó sẽ làm giảm lượng tiền gửi vào NHTM, chính vì thế làm cho lãi suất tiền gửi
tăng lên.

* Chính sách chiết khấu: Tác động đến cung tiền tệ
+ Những điểm thuận lợi của chính sách chiết khấu: NHTW có thể dùng
chính sách này để thể hiện vai trò của người cho vay cuối cùng, từ đó ngăn chặn
sụp đổ của hệ thống ngân hàng và tài chính.
+ Những điểm bất lợi
• Việc thay đổi lãi suất chiết khấu có thể tạo nên sự hỗn lộn đối với các
chính sách của quỹ dự trữ.
• Khi ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức đặc biệt nào đó có thể xảy ra
những sự cố biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi
suất chiết khấu.
* Dự trữ bắt buộc: tác động đến cung tiền tệ
+ Những điểm lợi của việc thay đổi dữ trữ bắt buộc
• Có tác động như nhau đến tất cả các NHTM
• Có ảnh hưởng trực diện, đem lại kết quả tức thì.
+ Những điểm bất lợi
• Rất khó khăn để thực hiện những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ.
Có thể gây nên những vấn đề về thanh khoản đối với một số NHTM, nhất
là NHTM nhỏ.


Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 5


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA

NHTW VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 ĐẾN NAY
2.1 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2008: chính sách tiền tệ thắt chặt
(đầu năm 2008) và nới lỏng (cuối năm 2008).
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra với mức độ tồi tệ nhất trong
vòng 80 năm qua. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ Mỹ và lan ra toàn cầu.
Trong khi nửa đầu năm 2008, lạm phát thế giới tăng mạnh, lên mức cao nhất
trong vòng 20 năm qua. Trong khi đó, ở trong nước diễn ra thiên tai trên diện
rộng, do diễn biến giá cả thị trường trên thế giới, do biến động của giá USD, giá
vàng, thị trường chứng khoán toàn cầu… đã đẩy giá vàng, giá xăng dầu, sắt
thép, cà phê tăng cao nhất trong vòng 16 năm qua.
2.1.1 Những kết quả đạt được
* Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu của tháng
2 năm 2008, các NHTM đã phải thực hiện đồng thời 4 quyết định về thắt chặt
tiền tệ của NHNN:
- Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đồng thời mở rộng
theo phạm vi tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc, các NHTM phải mua
20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng 1 lúc, gấp 20 đến 40 lần cùng một lúc so mức 500
tỷ- 1000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ.
- Từ tháng 2, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo
đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25% lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%
lên 7,5%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5% lên 6,0%/năm.
- NHNN ban hành quyết định ngày 1/2/2008 về sửa đổi chỉ thị 03 về cho vay
chứng khoán.
Với 4 quyết định này được coi là cứng rắn và kiên quyết trong điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN đã gây ra tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì
của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM. Đây có thể là cú phanh gấp trong
quá trình tụt dốc của nền kinh tế, ngăn chặn sự leo thang mất giá đồng tiền và
lạm phát.
* Sau một thời gian thắt chặt tiền tệ, ngày 17/5/2008, NHNN thông báo những

điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất nhằm nới lỏng thị trường.
- Quyết định số 16/2008/QĐ- NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng
đồng Vệt Nam.
- Ngày 20/10/2008, NHNN ban hành một loạt các thay đổi lớn trong chính
sách tiền tệ.
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 6


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

- Quyết định 2316/2008/QĐ- NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam giảm từ 14% xuống 13%/năm. Theo đó, lãi suất cho vay bằng VND của
NHTM trên thị trường từ ngày 21/10/2008 tối đa là 19,5% thay cho 21% trước đó.
- Quyết định 2317/2008/QĐ- NHNN về quy đinh cho thanh khoản trước hạn
20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc theo nhu cầu của các tổ chức tín dụng.
- Quyết định 2321/2008/QĐ- NHNN về lãi suất liền gửi dự trữ bắt buộc bằng
đồng VN đối với các tổ chức tín dụng tăng từ 5% lên 10%/năm.
Từ ngày 5/11/2008 lãi suất tiếp tục giảm cho đến cuối năm.
2.1.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2008
• Thành công
- Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, CSTT thông qua điều hành lãi suất tiền
gửi và lãi suất dữ trữ bắt buộc kịp thời đã tạo ra nhiều tín hiệu tích cực cho
nền kinh tế, giúp các ngân hàng vượt qua thời kỳ song gió năm 2008. Đặc biệt
đó là sự điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ cuối năm 2008, được thể hiện
rõ:
+ Lãi suất tiền gửi dữ trữ bắt buộc tăng mạnh, tạo một thuận lợi lớn giúp

các NHTM giảm bớt chi phí vốn, hỗ trợ mục tiên lợi nhuận sắp tới; gián tiếp
để tạo điều kiện để các ngân hàng có thể xem xét giảm lãi suất cho vay đầu
ra, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng.
+ Đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn tiền tệ và mất khả năng thanh
toán của NHTM trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân
hàng được đảm bảo củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và
người dân đối với ngân hàng, khắc phục được tình trạng cạnh tranh không
lành mạng trong huy động vốn giữa các NHTM. Cùng với diễn biến lạm phát
có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô được ổn định và hoạt động của NHTM được
đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm
tiếp theo được ổn định hơn.
+Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt
động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy
động và cho vay của các NHTM biến động theo cung- cầu vốn và tăng- giảm
theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành.
+ Nền tài chính quốc gia không sụp đổ, bảo đảm cho sự ổn định về kinh
tế, chính trị và xã hội. Đó là quan hệ nhân quả của CSTT đúng.
 CSTT là thành công lớn nhất của năm 2008. Kết quả này có ý nghĩa
rất quan trọng, thể hiện vai trò và những tác động tích cực của CSTT đối với
việc kiềm chế lạm phát và điều tiết vĩ mô.
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 7


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

• Hạn chế và nguyên nhân

+ Có những thời điểm NHTM thiếu hụt trầm trọng về vốn, làm thay đổi lãi
suất lên quá cao trong thời gian quá ngắn, gây hỗn loạn thị trường
Nguyên nhân: tuy NHTW đã cung cấp mức hỗ trợ thanh toán lớn nhưng chỉ
có ít các NHTM được vay với khối lượng lớn. Phần lớn các NHTM quy mô nhỏ và
trung bình phải đi vay lại trên thị trường liên ngân hàng của các NHTM lớn với
mức lãi suất cao, làm cho các NHTM thiếu hụt vốn nghiêm trọng, dẫn tới phải tăng
lãi suất lên cao trong thời gian ngắn.
+ Chính phủ phát triển kinh tế nóng
Tháng 11/2007, tuy đã có những cảnh báo nhưng Chính phủ vẫn đặt chỉ tiêu
tăng trưởng GDP từ 8,5%- 9%, tạo việc làm cho 1,7 triệu lao động, xuất khẩu
tăng…. Việc đặt chỉ tiêu như vậy đã tạo ra những khó khăn hơn cho nền kinh tế
trong 8 tháng đầu năm 2008.
+ Định hướng thực hiện các giải pháp là đúng nhưng liều lượng, thời gian
tiến hành chưa hợp lý trong điều kiện thanh khoản của các ngân hàng đang ở
mức thấp.
Nguyên nhân: Chính phủ đã không đánh giá kịp thời tác động của khủng
hoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam khi nhận định ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế thế giới không ảnh hưởng tới Việt Nam.
Chính sách vĩ mô không dự báo được xu hướng cũng như bối cảnh kinh tế thế
giới và khu vực
2.2 Điều hành chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát năm 2009: chính
sách nới lỏng tiền tệ.
2.2.1 Những kết quả đạt được
Sau giai đoạn thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát, năm
2009 Việt Nam áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát, giảm lãi
suất để kích thích đầu tư và đưa lãi suất về gần với mức lãi suất trước khi xảy
ra khủng hoảng tài chính thế giới. Đi liền với nó là tạo điều kiện cho hệ thống
ngân hàng hoạt động hiệu quả, tính thanh khoản được đảm bảo. NHNN đã
thực hiện một loạt các giải pháp nhằm hướng các khoản vốn vay đúng đối
tượng, triển khai các giải pháp hạn chế tình trạng thông tin không cân xứng,

giảm rủi ro do lựa chọn đối nghịch, tăng tính sẵn sang cho vay của các ngân
hàng. Ngoài việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất dự trữ bắt buộc,
giảm hệ thống lãi suất chỉ đạo, thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ cũng như triển khai cho vay hỗ trợ lãi suất, trong những tình huống khẩn
cấp, NHNN đã sử dụng các biện pháp khống chế lãi suất trần cho va, kiểm
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 8


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

soát chặt việc cho vay hỗ trợ lãi suất, cung ứng thanh khoản cho các ngân
hàng nếu có khó khăn, kiểm soát tỷ giá, giảm tình trạng căng thẳng ngoại tệ
và ảnh hưởng lan truyền của nó tới mặt bằng lãi suất nội tệ. Theo tinh thần
các gói giải pháp kích cầu của chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các
NHTM hoạt động có hiệu quả, NHNN đã hạ lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống
7%, hạ thấp tỷ lệ dữ trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
Trước những biến động không thuận lợi của thị trường ngoại hối, để tăng
nguồn cung và ổn định thị trường, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải
pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các NHTM
từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân, điều tiết cung cầu ngoại tệ trên
thị trường.
2.2.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2009
• Thành công
Năm 2009 mặc dù NHTW phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá
trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với
những biến động của tình hình, về cơ bản, CSTT đã đạt được mục tiêu đề ra:

kiềm chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52 %, hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế ở mức 5,2% và CSTT đã góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô.
Những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, hướng việc mở rộng tín
dụng vào những lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp nông thôn, sẽ có tác động tích
cực vào kinh tế năm 2010.
 Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu ổn định và dần tăng trưởng trở lại.
• Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành công thì việc điều hành CSTT của NHTW trong
năm 2009 vẫn chưa giải quyết triệt để các vấn đề: tốc độ tăng trưởng GDP
còn thấp, tình trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải
thiện, mức thâm hụt ngân sách cao. Lạm phát có xu hướng tăng, tiếp đó là
những cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng nóng dần lên, một
số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản. Tăng trưởng tín dụng có dấu
hiệu “nóng”. Tình trạng khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết triệt để, tỷ
giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp.
Nguyên nhân chính của những hạn chế trên là do NHTW điều chỉnh các
chính sách còn chậm so với các diễn biến thị trường. Chưa thực sự hoàn thiện
công tác nghiên cứu, dự đoán tình hình. Tiếp đó, do thực hiện giữa các giải
pháp tiền tệ và công cụ CSTT với các chính sách vĩ mô khác chưa hiệu quả.

Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 9


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

2.3 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2010:

Lãi suất cơ bản giữ nguyên là 8%
Lãi suất chiết khấu là 6%
Lãi suất tái cấp vốn là 8%
Năm 2010, nhà nước đặt trọng tâm vào giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,
ngăn ngừa lạm phát cao, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý gắn với
mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng
cao hơn trong những năm tiếp theo
2.3.1 Những kết quả đạt được
Ngày 6/1/2010 NHNN bơm 15000 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ thị
trường mở. Động thái này của NHNN làm cho lãi suất vay vốn giữa các
NHTM giảm mạnh, kỳ hạn 1 tuần con 11%/năm, vay qua đêm còn 8,5%/năm.
Vì trước đó lãi suất liên ngân hàng là 16%- 17%/năm, có thời điểm vượt
20%/năm. Và điều này làm cho tổng dư nợ tín dụng trong những tháng đầu
năm tăng rất ít so với năm 2009.
Ngày 18/1/2010 NHNN đưa ra Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm tỷ lệ
dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có kỳ hạn dưới 12 tháng 4%,
đối với tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên là 2% tạo điều kiện cho NHTM
tăng nguồn cung vốn ngoại tệ cho thị trường.
Ngày 14/2/2010 NHNN đã tăng tỷ giá liên ngân hàng thêm 3% lên mức
18.544 đồng/USD. Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyê ở mức +/-3%.
Ngày 14/4/2010 NHNN đã chính thức cho phép các NHTM sử dụng lãi
suất thảo thuận với các khoản vốn vay ngắn hạn, tiếp nối việc sử dụng lãi suất
cho vay thỏa thuận với các khoản vay, trung hạn va dài hạn đã được thực hiện
vào cuối tháng 2.
Ngày 17/8/2010, thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng
giữa đồng Việt Nam với Đô la Mỹ áp dụng cho ngày 18/8 lên 18.932VND
(tăng gần 2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyê ở mức +/-3%.
Về tỷ giá NHNN cấp phép cho doanh nghiệp, ngân hàng nhập khẩu vàng
mục đích ổn định tỷ giá (7/10/2010) thông qua hình thức quota.
2.3.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2010

• Thành công
Năm 2010, NHTW đã thực hiện CSTT một cách thận trọng bám sát mục
tiêu, đã tạo cho nền kinh tế Việt Nam nhiều tín hiệu tích cực. CSTT đã kịp
thời thực hiện các biện pháp trước các biến đổi của thị trường ở giai đoạn
cuối năm.
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 10


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Trong bối cảnh nhiều nền kinh tế trên thế giới gặp khó khăn, trong nước
gặp một số khó khăn như thiên tai, dịch bệnh, giá cả tăng… Việt Nam đã kết
thúc năm 2010 với tốc độ tăng trưởng 6,78% trong thời điểm hiện nay là đáng
ghi nhận, và trở thành nước có mức thu nhập trung bình, với mức thu nhập
bình quân 1 người là 1.168 USD/người.
• Hạn chế
Chính sách tiền tệ năm 2010 Chính phủ điều hành với mục đích ổn định
kinh tế trong đó tỷ giá làm tâm điểm quan trọng, việc điều chỉnh tăng tỷ giá
làm ảnh hưởng rất lớn đến thị trường vàng đến mức cao; tăng ỷ giá giúp cho
doanh nghiệp thuận lợi trong xuất khẩu nhưng khó khăn trong việc nhập khẩu
vì đồng tiền giảm giá gây tình trạng nhập nguyên liệu cho sản xuất với chi phí
cao phần lớn nước ta là nước sản xuất mang tính gia công phụ thuộc vào thị
trường nước ngoài rất lớn nên sản phẩm sản xuất ra sẽ định giá cao và điều
này có thể gây lạm phát cao, nguyên nhân là chi phí đẩy. Đồng thời tỷ giá
tăng có thể ảnh hưởng đến khoản nợ quốc gia tăng. Dẫn tới lạm phát của Việt
Nam 2010 là 11,75% .

2.4 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2011:
Trong năm 2010, góp phần trong các kết quả khả quan của kinh tế cả
nước, NHNN đã điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng, phù hợp
với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình thực tế,
góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
2.4.1 Những kết quả đạt được
Năm 2011, trước dự báo của các tổ chức quốc tế về tình hình kinh tế thế
giới tăng trưởng không mấy khả quan, thậm chí còn có thể chậm hơn năm
2010, bất ổn kinh tế vĩ mô và biến động phức tạp của thị trường tài chính tiền
tệ toàn cầu dự kiến tiếp tục gây khó khăn cho quá trình phục hồi kinh tế thế
giới. Trong khi, kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những vấn đề nan
giải như lạm phát, nhập siêu ở mức cao, tình trạng đô-la hóa trong nền kinh
tế, một số bộ phận của khu vực tài chính (thị trường bất động sản, chứng
khoán, ngoại hối...) diễn biến còn phức tạp... Để tháo gỡ dần các khó khăn đó,
đồng thời góp phần thực hiện thành công Nghị quyết số 51/2010/QH12 ngày
8/11/2010 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011,
ngay từ đầu năm, Chính phủ chỉ đạo sát sao các Bộ, ngành chức năng trong
nền kinh tế, đặc biệt là ngành ngân hàng tập trung kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Chủ trương của Chính phủ được
thể hiện rõ nét thông qua Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 09/01/2011 của Chính
phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 15/TB-VPCP ngày
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 11


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính


14/02/2011 về điều hành CSTT và đặc biệt là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày
24/02/2011 của Chính phủ.
Trên cơ sở đó, ngay từ đầu năm 2011, NHNN đã xác định mục tiêu định
hướng trong việc điều hành CSTT là điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và
thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế
vĩ mô, góp phần tăng trưởng kinh tế. Các công cụ CSTT và các biện pháp
điều hành được thực hiện phù hợp với quy định của Luật NHNN, chỉ đạo của
Chính phủ và điều kiện thực tế của thị trường tài chính tiền tệ.
NHNN cũng đã chủ động trong việc điều hành lãi suất ngoại tệ theo
nguyên tắc góp phần đảm bảo mức ngang giá của đồng nội tệ và ngoại tệ
trong nền kinh tế, góp phần đảm bảo sự ổn định của tỷ giá, tạo niềm tin vào
giá trị đồng nội tệ. Tinh thần đó được thể hiện rõ nét qua Thông tư số
14/2011/TT-NHNN ngày 1/6/2011 giảm mức trần lãi suất huy động USD của
cá nhân từ mức 3% xuống 2%, của tổ chức từ 1% xuống 0,5%.
Mặc dù diễn biến thị trường ngoại hối là ổn định nhưng để tăng cường
tính chủ động trong công tác điều hành chính sách tỷ giá trong điều kiện nhập
siêu còn lớn, lạm phát gia tăng, vốn FDI có xu hướng giảm,… cuối tháng
5/2011, NHNN đã ban hành những chính sách mới với kỳ vọng là sẽ hỗ trợ
tốt cho công tác điều hành CSTT để kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã
hội, ổn định kinh tế vĩ mô theo chủ trương của Chính phủ, tiếp tục duy trì
được sự ổn định cho tỷ giá, tăng cường dự trữ ngoại hối, giảm tốc độ đô-la
hóa, bao gồm:
+ Thông tư số 13/2011/TT-NHNN ngày 31/5/2011 quy định các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước có nghĩa vụ bán ngoại tệ cho TCTD được phép
hoạt động ngoại hối theo quy định của pháp luật từ ngày 1/7/2011.
+ Quyết định số 1209/2011/QĐ-NHNN ngày 1/6/2011 điều chỉnh tăng
1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, áp dụng kể từ kỳ duy trì dự
trữ bắt buộc tháng 6/2011.
+ Thông tư số 14/2011/TT-NHNN ngày 1/6/2011 giảm mức trần lãi suất huy
động USD của cá nhân từ mức 3% xuống 2%, của tổ chức từ 1% xuống 0,5%.

+ Trong Quý II/2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý
hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng,
tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn
hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.
Ngoài ra, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng để
kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống,
thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng
trưởng tín dụng dưới 20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 12


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

vốn cho sản xuất, giảm tỉ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất xuống
22% đến 30/6/2011 và xuống 16% đến 31/12/2011.
2.4.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2011
• Thành công
NHNN đã quyết liệt trong việc thay đổi chính sách điều hành, đặc biệt
trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, công cụ lãi suất. Đồng thời cũng rất chủ động,
linh hoạt trong công tác quản lý, nhằm đảm bảo tính kịp thời, thích ứng của các
chính sách ban hành phù hợp với thực tế và chỉ đạo của Chính phủ trong từng
giai đoạn. Chính vì vậy cho đến thời điểm này, sau gần nửa năm thực hiện Nghị
quyết 11/NQ-CP của Chính phủ, thông qua công tác điều hành CSTT, NHNN
Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, đảm bảo sự ổn định,
tính thông suốt của thị trường tiền tệ, kiểm soát được lãi suất, mức tăng trưởng
tín dụng và tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đã đề ra.

Các mức lãi suất trên thị trường đã hợp lý hơn, phù hợp với diễn biến kinh
tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ. Thanh khoản VND toàn hệ thống về cơ bản
được đảm bảo.
Việc triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm ổn định giá vàng và thị
trường vàng trong nước đã góp phần đưa giá vàng trong nước bám sát với giá
vàng thế giới; giới đầu cơ đã không còn khả năng thao túng thị trường; các
ngân hàng đã bắt đầu mua được vàng từ thị trường trong nước để bù đắp lại
lượng vàng đã bán ra, giảm bớt áp lực nhập khẩu vàng, tiết kiệm ngoại tệ và
giảm bớt áp lực lên tỷ giá.
• Hạn chế cần khắc phục
1. Năm 2011, NHNN đã kiểm soát tăng trưởng tín dụng 2011 dưới 20%.
Tuy nhiên, việc áp dụng chung cho tất cả các tổ chức tín dụng (TCTD) chưa phù
hợp, khi TCTD hoạt động lành mạnh có thể tăng trưởng cao hơn và với các
TCTD hoạt động yếu kém cần phải hạn chế tăng trưởng tín dụng.
2. Tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản xuất được áp dụng chung cho tất cả các
loại hình TCTD chưa phù hợp với một số trường hợp có hoạt động kinh doanh
đặc thù.
3. Trong những tháng đầu năm, hoạt động thanh tra, giám sát chưa quyết
liệt dẫn tới các TCTD sử dụng các biện pháp kỹ thuật để “lách” các quy định
của NHNN, tạo ra sự méo mó trong số liệu về huy động vốn, tăng trưởng tín
dụng, tổng phương tiện thanh toán, gây khó khăn trong điều hành chính sách
tiền tệ. Mặc dù gần đây hiện tượng này đã giảm nhưng vẫn chưa được giải quyết
triệt để.

Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 13


Trường đại học Thương Mại


Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

4. Trong tháng 10, một số ngân hàng gặp khó khăn tạm thời về thanh khoản
đã ảnh hưởng tới hoạt động của các TCTD khác, gây biến động trên thị trường
liên ngân hàng và tạo ra dư luận không tốt đối với hoạt động kinh doanh của hệ
thống TCTD.
5. Trên thị trường ngoại hối, tình trạng đô-la hóa vẫn chưa được giải quyết
triệt để, tín dụng ngoại tệ tăng cao, một số TCTD có hệ số sử dụng vốn vượt
100%, một số TCTD huy động vốn nước ngoài để tăng trưởng tín dụng cao,
tiềm ẩn rủi ro khi các nguồn vốn nước ngoài bị rút đột ngột. Trên thị trường vẫn
còn tình trạng các TCTD lách các quy định về tỷ giá làm tăng bất ổn trên thị
trường ngoại hối.
6. Một số hạn chế của hệ thống ngân hàng về thanh khoản, nợ xấu đang
ngày càng bộc lộ rõ khi NHNN triển khai các biện pháp nhằm lập lại trật tự, kỷ
cương trong lĩnh vực ngân hàng.
2.5 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2012
Kinh tế toàn cầu năm 2012 trải qua nhiều biến động và diễn biến phức tạp.
Khủng hoảng nợ công và những khó khăn của các định chế tài chính ngân hàng
ở khu vực Euro đặt hệ thống tài chính khu vực châu Âu và toàn cầu trước những
nguy cơ đổ vỡ; sự mất ổn định về chính trị tại khu vực Trung Đông khiến giá
dầu mỏ leo thang, kéo theo lạm phát tăng, tác động tiêu cực làm tăng trưởng
kinh tế thế giới chậm lại. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt
quá mức đẩy một số quốc gia rơi vào tình trạng giảm phát hoặc các hoạt động
kinh tế suy yếu trong một thời gian dài; thất nghiệp tiếp tục tăng cao ở các nền
kinh tế đang phát triển tạo sức ép lên ổn định kinh tế xã hội.
2.5.1 Những kết quả đạt được
Điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã trải qua một năm đầy cam
go. Chủ động lường đón những khó khăn, thách thức sẽ phải đối mặt, ngay từ
đầu năm NHNN đã phát đi thông điệp rõ ràng về mục tiêu chính sách, trên cơ

sở đó, điều hành kiên trì, nhất quán theo đuổi định huớng, mục tiêu đã lựa
chọn, đó là: điều hành chủ động, chặt chẽ và linh hoạt các công cụ của chính
sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát, trong đó điều hành lãi suất theo hướng
giảm dần với mục tiêu 9-10%/năm vào cuối năm 2012 và trung bình mỗi quý
giảm 1% năm; giữ tỷ giá ổn định, củng cố niềm tin vào đồng tiền Việt Nam;
và tập trung triển khai quyết liệt, đồng bộ việc cơ cấu lại các TCTD, xử lý
tổng thể nợ xấu, đảm bảo giữ vững an toàn hệ thống ngân hàng.
Mặc dù tỷ lệ tín dụng tăng trưởng thấp nhưng cơ cấu tín dụng chuyển
hướng tích cực phù hợp với chủ trương của Chính phủ, trong đó tín dụng đối
với xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn tăng cao hơn tăng trưởng tín dụng
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 14


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

chung, tỷ trọng dư nợ cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm so
với cuối năm 2011. Trước đây, để tăng trưởng kinh tế khoảng 7-7,5% tín
dụng ngân hàng phải tăng tới 30%, thậm chí có năm lên đến 50%; trong khi
đó năm nay tăng trưởng kinh tế vẫn đạt khoảng 5,03% mà tăng trưởng tín
dụng chỉ ở mức 10%, thể hiện tín dụng ngân hàng đã hiệu quả hơn góp phần
nâng cao hiệu quả giá trị gia tăng của nền kinh tế và làm giảm đáng kể hệ số
ICOR của Việt Nam.
Một dấu ấn khác biệt trong điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối trong
năm qua là việc NHNN chủ động đưa ra những cam kết mạnh mẽ về ổn định
tỷ giá. Năm 2012 là năm đánh dấu sư đột phá của công tác quản lý thị trường
vàng thông qua việc NHNN đã từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý để quản lý

thị trường vàng , chấm dứt hoạt động và cho vay vốn bằng vàng vào ngày
25/11 /2012. Kết quả bước đầu sau khi Nghị định 24/NĐ-CP ngày 3/4/2012
của Chính phủ được ban hành kết hợp với Nghị định 95/NĐ-CP ngày
20/10/2011 và các biện pháp NHNN đã triển khai, thị trường vàng miếng
trong nước bước đầu đã đạt được những mục tiêu quan trọng và có nhiều
chuyển biến đáng kể.
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân
hàng, chịu trách nhiệm về việc đảm bảo an toàn cho hệ thống các TCTD,
Chính phủ đã giao NHNN chủ trì đề xuất các giải pháp xử lý nợ xấu. Bên
cạnh việc thực hiện hàng loạt các biện pháp xử lý nợ xấu như: Ban hành
Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngay 23/4/2012 cho phép các TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài giữ nguyên nhóm nợ đối với các khoản nợ được
điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ nếu TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có chiều hướng tích
cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ; chỉ
đạo các TCTD tích cực thực hiện các giải pháp xử lý nợ, thực hiện mua bán
nợ, xây dựng quy định mới về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro theo
hướng chặt chẽ hơn và mở rộng phạm vi tài sản có tiềm ẩn rủi ro tín dụng
phải phân loại và trích lập dự phòng rủi ro, cuối năm 2012, NHNN đã trình
Chính phủ đề án xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD, trong đó có phương án
thành lập công ty quản lý tài sản để xử lý nợ xấu một cách tập trung với quy
mô lớn.
2.5.2 Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2012
Nhờ sự triển khai quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, trong đó
có sự đóng góp rất lớn của ngành Ngân hàng, nền kinh tế Việt Nam đã đạt
được những kết quả tích cực. Kinh tế vĩ mô có bước được cải thiện, lạm phát
được kiềm chế ở mức một con số (6,81 %) và thấp hơn rất nhiều so với mức
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 15



Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

lạm phát cao cùa năm 2011; kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trên 18%, cán
cân thanh toán tổng thể thặng dư, Việt Nam đã đạt được xuất siêu sau gần 2
thập kỷ. Trong điều kiện kinh tế toàn cầu suy giảm và khó khăn của kinh tế vĩ
mô nhưng tổng sản phẩm trong nước (GDP) vẫn tăng 5,03%.
2.6 Điều hành chính sách tiền tệ năm 2013 và định hướng năm 2014.
Trong năm 2013, công tác điều hành chính sách tiền tệ CSTT của NHNN
đã bám sát tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, kiên định với các mục tiêu lớn
của nền kinh tế, đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả. Trên cơ sở
các nhiệm vụ, mục tiêu xác định, NHNN đã tiếp tục nỗ lực mạnh mẽ trong
công tác điều hành, đảm bảo các chính sách, diễn biến tiền tệ phù hợp với
diễn biến kinh tế vĩ mô, phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế,
đồng thời đề cao tính khoa học trong điều hành. Đây là năm thứ hai liên tiếp,
nền kinh tế chứng kiến những nỗ lực mạnh mẽ của NHNN trong công tác điều
hành CSTT hướng tới mục tiêu lớn như kiểm soát lạm phát, tái cơ cấu hệ
thống các tổ chức tín dụng (TCTD), tháo gỡ khó khăn cho khu vực sản xuất,
hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Có thể thấy, CSTT ngày càng chứng tỏ
được vai trò then chốt trong công tác điều hành kinh tế vĩ mô, góp phần quan
trọng trong việc tăng cường tính ổn định của nền kinh tế.
2.6.1 Những kết quả đạt được của năm 2013
Một là, mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong công tác điều hành của NHNN
là lạm phát đã được kiềm chế, diễn biến theo xu hướng giảm và khá ổn định.
Nếu lạm phát của năm 2012 là 6,81% thì lạm phát của năm 2013 chỉ ở mức
6,04% - mức thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây (xem Đồ thị 1).
Đồ thị 1.

Diễn biến lạm phát 2011 - T12/2013

Diễn biến lãi suất 2008 - T11/2013

Nguồn: NHNN và Tổng cục Thống kê

Hai là, chính sách lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến kinh tế
vĩ mô, đặc biệt là diễn biến của lạm phát. Tính chủ động của công cụ lãi suất
trong việc truyền dẫn tín hiệu tới thị trường đã được cải thiện rõ nét. Trong
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 16


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

năm 2013, các mức lãi suất điều hành của NHNN được điều chỉnh giảm hai
lần. Hiện tại, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ mức 9%/năm xuống
còn 7%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 7%/năm xuống còn 5%/năm; lãi suất
cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp
thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng từ
10%/năm xuống còn 8%/năm. Lãi suất huy động giảm liên tục khoảng từ 2 4%, lãi suất cho vay giảm từ 3 - 5% so với mức lãi suất cuối năm 2012. Điều
này không những phản ánh tính thanh khoản của các TCTD ngày càng ổn
định, mà còn biểu hiện tính dẫn dắt thị trường của NHNN ngày càng tăng.
Ba là, hoạt động trên thị trường tiền tệ nhìn chung diễn biến khá tích
cực, phản ánh sự chủ động của NHNN trong công tác kiểm soát khối lượng
tiền cung ứng. Trong năm 2013, khối lượng giao dịch (KLGD) trên thị trường
liên ngân hàng diễn ra khá ổn định và đồng đều qua các quý so với năm 2012,

đồng thời hoạt động bơm, hút tiền trên thị trường mở cũng rất nhịp nhàng,
gần như là lượng cung tiền được dự báo phù hợp với nhu cầu và diễn biến của
nền kinh tế và KLGD cũng giảm đáng kể so với năm 2012 (xem Đồ thị 2).
Đồ thị 2.
Quy mô giao dịch của thị trường liên Trạng thái hoạt động trên thị trường mở
ngân hàng năm 2012 - 2013
năm 2012 - 2013

Nguồn: NHNN

Bốn là, chính sách điều hành của NHNN đã hướng dòng vốn tín dụng tập
trung vào hỗ trợ cho các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, xuất
khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ cao, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các dự án hiệu quả.
Tăng trưởng tín dụng tuy thấp hơn các năm trước đây nhưng hiệu quả và chất
lượng tín dụng ngày càng được cải thiện.
Năm là, thị trường ngoại tệ và thị trường vàng diễn biến ổn định, phù
hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường, niềm tin vào VNĐ ngày
càng được củng cố, hỗ trợ kiềm chế lạm phát, góp phần giảm thiểu tình trạng
đô la hóa, vàng hóa tại Việt Nam; tạo môi trường ổn định để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc lập và
thực hiện kế hoạch kinh doanh (xem Đồ thị 3).
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 17


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính


Đồ thị 3.

Nguồn: NHNN

Sáu là, hoạt động của hệ thống các TCTD dần đi vào ổn định, tình hình
thanh khoản của hệ thống được cải thiện rõ nét qua từng năm, rủi ro đổ vỡ hệ
thống đã bị đẩy lùi; các ngân hàng thương mại đáp ứng ngày càng tốt hơn các
quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động; tốc độ tăng nợ xấu đã chậm lại...
Những nỗ lực đáng chú ý trong công tác điều hành CSTT của NHNN
trong năm 2013:
 Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo một môi trường vận
hành CSTT một cách thuận lợi, nâng cao vai trò của các công cụ CSTT gián
tiếp. Theo đó, nhiều chính sách đã được thực hiện và phối hợp một cách hiệu
quả, tạo được hiệu ứng hỗ trợ mạnh mẽ.
 Phối hợp các công cụ điều hành một cách linh hoạt, hiệu quả, từng bước
tạo lập các điều kiện cần thiết để chuyển sang cơ chế điều hành gián tiếp khi
thuận lợi.
2.6.2 Định hướng điều hành CSTT năm 2014
Mặc dù đã đạt được kết quả tích cực trên nhiều mặt, song trong bối cảnh
kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và khó lường; kinh tế trong nước ngày
càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới nhưng vẫn còn nhiều khó
khăn, do đó, công tác điều hành CSTT năm 2014 vẫn tiếp tục phải đối mặt
với những khó khăn, thách thức cần phải được xử lý trong thời gian tới.

Trước tiên là những thách thức đến từ diễn biến phức tạp của nền kinh tế
thế giới: Trong năm 2014, mặc dù kinh tế thế giới dự báo đã có nhiều dấu
hiệu khởi sắc. Tuy nhiên, những thách thức lớn của kinh tế toàn cầu sau
khủng hoảng chưa được giải quyết một cách bền vững. Bên cạnh đó, Việt
Nam đang tiếp tục hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới

thông qua việc ký kết các hiệp định hợp tác quốc tế song phương và đa
phương có thể dẫn đến những thay đổi cần thiết trong quan điểm, nguyên tắc
điều hành các chính sách quản lý kinh tế.
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 18


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Tiếp đến là những thách thức đến từ diễn biến kinh tế trong nước: Kinh
tế vĩ mô có những dấu hiệu tích cực, song chuyển biến còn chậm, chưa ổn
định, vững chắc. Tăng trưởng tiềm năng của Việt Nam đang có xu hướng
giảm dần, tăng trưởng kinh tế trong hai năm trở lại đây chủ yếu dựa vào xuất
khẩu trong khi nhu cầu trong nước phục hồi chậm, sức mua còn yếu, lạm phát
tuy đã được kiểm soát nhưng còn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao trở lại… Bên cạnh
đó, dòng vốn tín dụng còn chưa thông suốt, nợ xấu còn ở mức cao, khó khăn
của thị trường bất động sản chưa thể giải quyết và đặc biệt là áp lực bội chi
ngân sách ngày càng lớn,… đã trở thành những thách thức lớn cho công tác
điều hành CSTT trong năm 2014 nói chung và đặc biệt là sẽ tạo ra áp lực
trong công tác quản lý tín dụng của NHNN.

Cuối cùng là những thách thức của quá trình tái cấu trúc: Trong hai năm
vừa qua, mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu trong việc thực hiện
chương trình tái cấu trúc các TCTD giai đoạn 2011 - 2015, song đó mới chỉ là
việc giải quyết những khó khăn trước mắt. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý
cho việc tái cơ cấu các TCTD chưa được hoàn thiện, đặc biệt là cơ chế mua
bán nợ xấu, quy chế điều tiết thống nhất các hoạt động mua bán, sáp nhập

(M&A),.. sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tiến độ và tính hiệu quả của chương trình
tái cơ cấu hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015.
Những thách thức chính yếu trên đòi hỏi NHNN tiếp tục phải kiên định
với mục tiêu điều hành, phải tăng cường phối hợp chặt chẽ và đồng bộ hơn
nữa với các Bộ, ngành, phải có những chiến lược mạnh mẽ và nỗ lực cao hơn
để giải quyết thành công những thách thức. Trên cơ sở đó, bám sát mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 đã được Quốc hội phê duyệt, với chỉ tiêu
tăng trưởng đạt mức khoảng 5,8%; lạm phát (chỉ số giá tiêu dùng - CPI) ở
mức khoảng 7%. Do vậy, mục tiêu CSTT cần đạt được trong năm 2014 là:
tiếp tục theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát không vượt quá mục tiêu Quốc
hội phê chuẩn, ổn định tiền tệ và hệ thống các TCTD, góp phần ổn định kinh
tế vĩ mô, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.


Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 19


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG
CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng
3.1.1.Bối cảnh trong nước và quốc tế
Bước sang thế kỷ 21, đất nước chúng ta có những điều kiện thuận lợi để
phát triển đó là: sự ổn định về chính trị-xã hội, sự phát huy các lợi thế so sánh
của đất nước phục vụ cho sự phát triển. Tuy vậy nền kinh tế của chúng ta từ

khi đổi mới đến nay sau những năm phát triển liên tục cao thì lại đang có xu
hướng chững lại, tình hình giảm phát đã thể hiện rõ điều này. Lý do được
giải thích có thể là do hậu quả thiên tai, lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc xuất
phát từ chính các yếu tố, lĩnh vực của sản xuất đang bộc lộ rõ sự yếu kém tụt
hậu tương đối so với khu vực và thế giới .
Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt
đẹp tạo cơ hội để phát triển đất nước; chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều
các quốc gia trong khu vực và thế giới, tham gia nhiều hiệp ước kinh tế như
AFTA, WTO đặc biệt có nhiều quan hệ tốt đẹp với các tổ chức, định chế tài
chính lớn như IMF, WB, ADB..
Mặt khác, nền kinh tế thế giới và khu vực Đông Á, Đông Nam Á đang có
dấu hiệu phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm qua.
Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trường tài
chính tiền tệ ở nước ta .
Trong xu hướng tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao
hiệu quả các công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam là
vấn đề còn phải lưu tâm rất nhiều .
3.1.2. Một số định hướng cơ bản:
- Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hoà nhập với
thông lệ quốc tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định
hướng của Đảng và Nhà nước .
- Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bước một chuyển đổi từ việc sử
dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu
quả hơn.

Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 20



Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

- Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính thực
tiễn đó là thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế .
3.2. Giải pháp:
3.2.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi
- Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó
trong một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT
cần được độc lập với chính sách tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong
hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
- Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng cố
và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là
cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.
- Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện, cơ cấu lại
hệ thống NH để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động .
- Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc
thu thập, xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT.
- Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng, tài chính để
cơ chế thực thi CSTT nói chung, các công cụ của CSTT nói riêng được
nghiêm minh và có hiệu quả hơn.
- Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp
thói quen mới trong tâm lý của các cá nhân, các doanh nghiệp để giúp việc
thực hiện các công cụ của CSTT có hiệu quả hơn, ví dụ: tạo thói quen thanh
toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh doanh, thói quen sử dụng hoạt động
thị trường mở của các tổ chức tín dụng ...
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ.
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh

nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát
thực tiễn VN, phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT. Hệ thống các
công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ, phối hợp thúc
đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau. Cụ thể:
* Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Phải phát triển thị trường mở theo hướng đưa nó trở thành một công cụ
hữu hiệu, linh hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam. Muốn vậy cần phải:
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 21


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

- Theo dõi, tính toán, dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng, diễn biến
lạm phát lãi suất, đầu tư... để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào
thị trường mở như thế nào (mua bán tín phiếu), với lượng là bao nhiêu.
- NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tượng tham gia thị
trường mở và linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trường mở.
- Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: làm đại
lý phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho
phép NHTM phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi... Muốn vậy NHNN phải
nắm được (quản lý) được các hoạt động này đồng thời tạo ra tính “thanh
khoản”, hấp dẫn cao của các công cụ trên thị trường mở.
- Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp
vụ thị trường mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ.
- Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ
của các thị trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị

trường thứ cấp.
* Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
- Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và
cung ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng, do vậy trong cơ
chế thị trường thì NHNN cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp
để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức tín
dụng: nên mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đưa ra phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ, với mục tiêu CSTT
và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín
dụng ở Việt Nam.
- Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự
trữ bắt buộc, đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm quy chế
dự trữ để đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính, ngân hàng thực hiện
tốt mục tiêu CSTT.
- NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các
quy chế dự trữ như: quy định số tiền phải chịu quy chế dự trữ bắt buộc phù
hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng với
mức lãi suất phù hợp với khả năng tài chính NHNN.
- Trong thời gian trước mắt, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc cần phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM
thúc đẩy quá trình huy động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 22


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính


- Trong tương lai, khi thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã phát triển, các
công cụ khác có thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì
NHNN nên có dự kiến giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM để họ
được linh động, mạnh dạn hơn trong hoạt động kinh doanh của mình .
* Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu:
- Thương phiếu, hối phiếu chính là sự ghi nhận của các quan hệ tín dụng
thương mại trong nền kinh tế thị trường, ở nước ta hiện nay các hình thức tín
dụng thương mại đã xuất hiện, doanh số hoạt động mua bán chịu có thời hạn,
giao nhận hàng thanh toán gối đầu giữa các doanh nghiệp là rất lớn. Do vậy
cần thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thương phiếu trong các quan hệ tín
dụng thương mại.
- NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự
án cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hưởng quan trọng tới
hiệu quả việc điều chỉnh mức cung tiền .
- Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và
nên mở rộng đối tượng được vay chiết khấu để phát huy vai trò “người cho
vay cuối cùng” của NHNN và đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống
ngân hàng.
- Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng (qui mô, chất lượng) để
NHNN có cơ sở chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái
chiết khấu, tạo ra tín hiệu tốt đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Mặt khác, cùng với xu hướng tự do hoá lãi suất thì vai trò của mức lãi suất tái
chiết khấu sẽ ngày càng tăng lên, trở thành một công cụ gián tiếp điều tiết lãi
suất thị trường một cách hữu hiệu, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
* Đối với các công cụ khác: cần sử dụng linh hoạt các công cụ, trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn và mục tiêu đã đề ra.
Công cụ lãi suất: việc điều chỉnh lãi suất cần linh hoạt gắn với thị trường
trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền, tổ chức tín dụng và người
vay tiền, tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển
kinh tế.

Công cụ hạn mức tín dụng: NHNN tuy không coi đây là một công cụ
thường xuyên nhưng cũng cần phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở
các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ can thiệp vào hoạt động này trong điều kiện
cụ thể.

Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 23


Trường đại học Thương Mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

KẾT LUẬN
Mặc dù chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế thế giới từ cuối năm 2008 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ
lực của các cấp, các ngành, của cộng đồng doanh nghiệp và dân cư, sự điều
hành quyết liệt của Chính phủ, kinh tế nước ta đã ngăn chặn được suy giảm
và dần tạo được đà tăng trưởng, kinh tế vĩ mô ổn định, an sinh xã hội được
đảm bảo.
Trước những khó khăn và thách thức của nền kinh tế biến động ngày
càng nhanh với tính chất thị trường ngày càng rõ nét, CSTT vẫn có những
điểm hạn chế như sự biến động của giá vàng, tỷ giá USD và VND trong một
số thời điểm nhất định. Mặc dù vậy, sự linh hoạt của CSTT trong thời gian
gần đây cùng với sự chuyển hướng sang kinh tế thị trường, CSTT cũng đang
có những thay đổi trong cả định hướng và cơ chế điều hành, gắn kết hơn với
sự biến động của thị trường cũng như sử dụng ngày càng hiệu quả các công
cụ thị trường để tăng hiệu quả điều hành. Trong xu hướng mở cửa hội nhập
kinh tế quốc tế, sự biến chuyển đó của CSTT vừa là điều kiện cần, vừa thể

hiện sự phát triển của các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam đảm
bảo cho sự phát triển chung của nền kinh tế.

Bài thảo luận nhóm 04 – 19B –QLKL

Page 24



×