Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Định hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 -2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.12 KB, 100 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
* Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với sự phát triển của sáu thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế này
cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong khuôn khổ pháp luật của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo chủ trương của Đảng và Nhà
nước, thành phần kinh tế Nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Một trong những bộ phận quan trọng cấu thành nên kinh tế Nhà nước
chính là doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng
như các doanh nghiệp nhà nước nói riêng muốn đứng vững trên thị trường thì
phải không ngừng hoàn thiện về cơ cấu quản lý và tổ chức sản xuất sao cho
tận dụng tối đa mọi nguồn lực của doanh nghiệp. Do đó, để kinh tế Nhà nước
có thể phát huy tốt vai trò chủ đạo của mình thì doanh nghiệp nhà nước cũng
phải thể hiện được vai trò then chốt trong phát triển kinh tế. Muốn làm được
điều đó thì phải thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
Việc thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
được tiến hành bắt đầu từ năm 1992. Hơn 12 năm thực hiện chuyển đổi sở
hữu bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ thì vẫn còn đó những vướng
mắc, khó khăn, tồn tại cần khắc phục để doanh nghiệp sau chuyển đổi hoạt
động có hiệu quả hơn. Do đó, trong kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp
nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 cần đưa ra những giải pháp mạnh hơn nhằm
hoàn thành mục tiêu phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp sau chuyển đổi.
Với những lý do trên và được sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Ngô
Thắng Lợi, em đã quyết định chọn đề tài: “Định hướng và giải pháp thực
hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006
– 2010” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: các doanh nghiệp nhà nước hiện có ở
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việt Nam, phân tích thực trạng hoạt động, tình hình thực hiện chuyển đổi sở
hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu và đánh giá quá trình
chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, những mặt còn hạn
chế và tồn tại cần phải khắc phục. Bên cạnh đó, đề tài cũng nêu một số kinh
nghiệm chuyển đổi sở hữu ở Trung Quốc từ đó rút ra những giải pháp phù
hợp để vận dụng với thực tế chuyển đổi ở Việt Nam.
* Mục tiêu đề tài
Cung cấp những lý luận chứng minh chủ trương chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước là đúng đắn.
Đánh giá thực trạng chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước trên
phạm vi cả nước và tại một số ngành, địa phương điển hình.
Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006 – 2010.
* Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin với phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để thực hiện
nghiên cứu đối tượng.
* Kết cấu của bài viết gồm 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết phải thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam
Chương II: Đánh giá thực trạng chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005
Chương III: Định hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN

CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
I. Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải thực hiện chuyển
đổi sở hữu
1. Khái luận chung về doanh nghiệp nhà nước
Khái niệm DNNN được hiểu theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách
tiếp cận và mục đích nghiên cứu đối tượng này.
Đối với Việt Nam, khái niệm về DNNN thay đổi qua nhiều thời kỳ,
tương ứng với sự thay đổi quan niệm về sở hữu Nhà nước và sự thay đổi về
cơ chế quản lý kinh tế.
Trong thời kỳ Kế hoạch hoá tập trung (1960 – 1986), tổ chức kinh tế
Nhà nước tồn tại dưới dạng các xí nghiệp (trong lĩnh vực công nghiệp), nông
trường quốc doanh (trong lĩnh vực nông nghiệp) và các công ty (trong lĩnh
vực thương mại). Khái niệm DNNN lúc này chưa xuất hiện mà chỉ có khái
niệm về xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và xí nghiệp thương mại quốc
doanh. Đặc trưng của những xí nghiệp này là: các xí nghiệp có tư cách pháp
nhân tức là những chủ thể pháp luật, chủ thể kinh tế độc lập; toàn bộ tài sản
thuộc sở hữu của Nhà nước; các xí nghiệp phải thực hiện các chỉ tiêu kế
hoạch do Nhà nước đề ra do thị trường giai đoạn này chưa hình thành đúng
nghĩa nên các nhu cầu xuất phát từ sự hoạch định chủ quan của các cơ quan
lập kế hoạch.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
cách tiếp cận thành phần KTNN, cách nhìn nhận các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh cũng có nhiều thay đổi. Mặt khác, để DNNN có thể hoạt động
hiệu quả hơn, cần phải có một cơ sở pháp lý vững chắc cho loại hình doanh
nghiệp được coi là có vai trò chủ đạo này. Chính vì vậy, năm 1995 Nhà nước
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ta đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước thể chế hoá nhiều quan điểm mới
về loại hình doanh nghiệp này. Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 định

nghĩa doanh nghiệp như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công
ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. DNNN có
tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam”.
Khái niệm về DNNN được Quốc hội thông qua ngày 20-4-1995 đã phản
ánh hai tính chất đặc trưng của DNNN là tính chất kinh doanh và công hữu.
Với đặc trưng kinh doanh, DNNN được xem như là một công cụ hay phương
tiện để Nhà nước thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội rộng lớn của
mình, bởi DNNN tự chủ tài chính, dùng kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh làm cơ sở tăng trưởng và phát huy vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó,
DNNN lại được xem là một chính sách hay công cụ can thiệp của Chính phủ.
Bởi với tính chất công hữu, lợi ích thu được từ các hoạt động của DNNN
không sử dụng để phục vụ lợi ích riêng cá nhân mà phục vụ cho lợi ích chung
của xã hội.
DNNN dưới tác động của cạnh tranh và dưới tác động của những nhu
cầu phúc lợi xã hội, an ninh quốc phòng được phân thành DNNN hoạt động
kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. DNNN hoạt động kinh doanh có
chức năng chủ yếu là hoạt động kinh doanh trên số vốn và tài sản Nhà nước vì
mục tiêu lợi nhuận. Còn DNNN hoạt động công ích có chức năng chủ yếu là
đáp ứng những nhu cầu xã hội với những sản phẩm và dịch vụ không thể
thiếu được, yếu tố lợi nhuận không đóng vai trò quan trọng. Sự phân loại này
có tác dụng trong việc thực hiện sự bình đẳng giữa các DNNN hoạt động kinh
doanh và có cách tiếp cận khác với DNNN hoạt động công ích.
Đến Luật DNNN năm 2003, khái niệm DNNN được hiểu sâu hơn. Điều
1 Luật DNNN năm 20003 định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà
nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

chức dưới hình thức công ty nhà nước. công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn”. Như vậy, về khía cạnh sở hữu, quan điểm của Đảng và Chính phủ
Việt Nam có những mặt nới lỏng và năng động hơn. Bên cạnh những doanh
nghiệp có 100% vốn nhà nước, còn tồn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước
chỉ có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan
trọng. Khái niệm DNNN trong Luật DNNN năm 2003 chứa đựng một số
điểm mới cơ bản sau:
 Việc xác định DNNN không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu như
trước đây. Trước đây, chỉ những doanh nghiệp được Nhà nước thành lập và
đầu tư vốn, hoàn toàn do Nhà nước quản lý thì mới được coi là DNNN. Trong
số đó, tiêu chí sở hữu là tiêu chí cơ bản nhất để quyết định doanh nghiệp là
DNNN.
 Thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một
DNNN. Điều này có nghĩa là có những DNNN trong đó các hình thức sở hữu
khác nhau hoàn toàn bình đẳng trên nguyên tắc nền dân chủ cổ phần.
 Pháp luật hiện hành thừa nhận khả năng chuyển đổi DNNN thành
doanh nghiệp thông thường thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán cổ phần.
 Tiêu chí xác định DNNN theo Luật DNNN năm 2003 không dựa vào
tiêu chuẩn sở hữu và quản lý như điều kiện cần và đủ. Hiện nay, tiêu chí xác
định DNNN là quyền kiểm soát và quyền chi phối. Nếu không sở hữu một
lượng cổ phần cần thiết thì không thể nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp.
Tiêu chí sở hữu để xác định DNNN hoàn toàn mang tính định tính. Còn tiêu
chí quyền chi phối được áp dụng trong Luật DNNN năm 2003 là tiêu chí
mang tính chất định lượng. Tính định lượng thể hiện ở tỷ lệ phần vốn góp của
Nhà nước trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp. Như vậy, quyền kiểm soát
được coi là tiêu chí cơ bản để xác định một doanh nghiệp có phải là DNNN
hay không. Đây chính là điểm mới trong cách tiếp cận DNNN. Do cách tiếp
cận DNNN như vậy nên hình thức pháp lý của DNNN trở nên đa dạng hơn
bao gồm: công ty nhà nước độc lập hoặc tổng công ty nhà nước, công ty cổ
phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công

Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên, doanh nghiệp có cổ
phần hoặc vốn góp chi phối của Nhà nước, công ty Nhà nước giữ quyền chi
phối và loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ là cổ đông bình thường.
2. Sự cần thiết phải thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước
ở Việt Nam
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đã được xác định rõ từ Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI. Đó là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần trong đó thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo. Đến Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, quan điểm ấy vẫn không hề thay đổi mà phát triển cao
hơn thích nghi với điều kiện kinh tế - xã hội mới. Nhưng thực tế cho thấy,
trong những năm qua thành phần KTNN đặc biệt là bộ phận DNNN hoạt
động không có hiệu quả. Để có thể phát huy vai trò chủ đạo của DNNN trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì phải tiến hành chuyển đổi sở
hữu DNNN. Chuyển đổi sở hữu để thích nghi với nền kinh tế nhiều thành
phần, chuyển đổi để nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế và
chuyển đổi để thích nghi với những yêu cầu của tình hình mới...
2.1. Chính sách đa thành phần sở hữu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thực hiện nhất quán chính sách của Đảng về xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp phát triển đa
dạng, phong phú gồm nhiều loại hình sở hữu, nhiều quy mô, hoạt động trong
môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng.
Định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần được Đảng ta chỉ rõ: “Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, lấy việc giải phóng sức sản
xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích các thành phần

kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh”. Đối với KTNN, Đảng cũng chỉ rõ:
“Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTNN. KTNN đóng vai
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng”.
Đến Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, Đảng tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa:
“Tiếp tục đổi mới và phát triển KTNN để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế. KTNN là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”. Về mặt kinh tế, việc đa dạng
hoá các hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể, tư nhân với nhiều hình thức đan
xen, qua lại, từ đó hình thành nên 6 thành phần kinh tế là một thực tế hiện
nay. Đó là:
 Thành phần kinh tế Nhà nước, bao gồm các nguồn lực do Nhà nước
làm chủ sở hữu, đưa vào và biến thành tài sản được dùng trong quá trình sản
xuất – kinh doanh của các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Thành phần
KTNN về thực chất là phản ánh quy mô, cấu trúc, sức mạnh của hệ thống các
DNNN.
 Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện giữa những người lao
động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của tập thể
để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề trong sản xuất – kinh doanh. Kinh
tế tập thể phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã
là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên về sở hữu tập
thể.
 Kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình kinh tế với các chủ thể là các hộ
sản xuất kinh doanh nhỏ, loại hình kinh tế này dựa trên sở hữu tư nhân. Các
hộ sản xuất kinh doanh ở cả phạm vi nông thôn và thành thị, với quy mô nhỏ,
chủ yếu dựa vào vốn và lao động của gia đình.
 Kinh tế tư bản tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Tuy đều là sở hữu tư nhân nhưng kinh tế tư bản tư nhân phân
biệt với kinh tế cá thể, tiểu chủ ở quy mô hoạt động. Kinh tế tư bản tư nhân có

quy mô sản xuất kinh doanh và quy mô sử dụng lao động lớn hơn. Kinh tế tư
bản tư nhân đại diện cho trình độ phát triển cao về kinh tế với trình độ công
nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
 Kinh tế tư bản Nhà nước là loại hình kinh tế dựa trên hình thức sở hữu
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hỗn hợp. Đó là hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế
tư bản tư nhân trong và ngoài nước.
 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là loại hình kinh tế dựa trên vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Đây là loại hình kinh tế hỗ trợ và bổ sung quan trọng
cho các loại hình kinh tế trong nước về vốn, công nghệ và thị trường. So với
các loại hình kinh tế trong nước, loại hình này thường có trình độ công nghệ
và trình độ quản lý cao hơn. Do đó, đối với những nước như nước ta, việc
khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài là vấn đề
có ý nghĩa quan trọng.
Cùng với việc xác định rõ 6 thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta, tại Đại
hội lần thứ IX, quan điểm của Đảng ta về vị trí của các thành phần kinh tế
được hoàn thiện ở mức độ cao hơn. Đảng và Nhà nước ta đã xác định, trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN các thành phần kinh tế cùng tồn tại
và phát triển trong một thể thống nhất, mọi thành viên đều bình đẳng và có
quyền lợi cũng như nghĩa vụ trước pháp luật là như nhau. Các thành phần
kinh tế tồn tại với vị trí quan trọng của nó và cần phải được chú trọng phát
triển. Hiện nay, ở nước ta thành phần KTNN và kinh tế tập thể vẫn là nền
tảng cho sự phát triển kinh tế và KTNN phải đóng vai trò chủ đạo.
2.2. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi kinh
tế ở Việt Nam
DNNN là một công cụ quan trọng, một lực lượng vật chất hùng mạnh
giúp Nhà nước thực hiện ý đồ can thiệp của mình để đưa nền kinh tế vận hành
theo đúng định hướng và đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội mà kinh tế
thị trường thuần tuý không thể thực hiện nổi. Vai trò chủ đạo nêu trên của

DNNN được thể hiện qua những khía cạnh chủ yếu sau:
2.2.1. DNNN là một tổ chức kinh tế có lợi thế so sánh so với các doanh
nghiệp cùng loại thuộc các khu vực khác của nền kinh tế quốc dân
Lợi thế so sánh của DNNN thể hiện chủ yếu ở phương diện hiệu quả xã
hội. DNTN thuộc quyền sở hữu tư nhân nên mục tiêu chính của nó là phải
đem lại lợi nhuận tài chính cao cho chủ sở hữu doanh nghiệp, bất chấp một
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thực tế rằng để đạt hiệu quả đó, xã hội có thể phải hy sinh hiệu quả phân bổ
nguồn lực ở một nơi nào đó trong nền kinh tế. Do đó, hiệu quả tổng thể kinh
tế - xã hội của doanh nghiệp tư nhân có thể không cao. Việc hàng loạt DNTN
hoạt động không chú ý đến những hậu quả về mặt môi trường do mình gây ra
là một thí dụ điển hình. Trái lại, DNNN thuộc quyền sở hữu công cộng, nên
mục tiêu chính của nó là phải tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu, tức là nhân
dân, thông qua đại diện của mình là Nhà nước. Chính vì thế, đối với loại hình
doanh nghiệp này, hiệu quả kinh tế xã hội phải được đặt lên hàng đầu.
2.2.2. DNNN là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng chung
của nền kinh tế
Điều này thể hiện rõ nét ở việc DNNN thường được trao nhiệm vụ đầu tư
vào những công trình kết cấu hạ tầng có quy mô tương đối lớn so với năng
lực của khu vực tư nhân và các loại hàng hoá công cộng khác mà tỷ suất lợi
nhuận không hấp dẫn DNTN. Đặc điểm chung của các công trình kết cấu hạ
tầng là quy mô vốn đòi hỏi tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn lại lâu, kèm
theo nhiều rủi ro trong quá trình đầu tư mà bản thân DNTN không thể kiểm
soát nổi. Chính những đặc điểm này đã làm cho việc đầu tư vào nhiều loại kết
cấu hạ tầng không hấp dẫn DNTN. Bên cạnh đó, nhiều loại hàng hoá công
cộng còn có thuộc tính chung là rất khó loại trừ việc tiêu dùng của những cá
nhân “không sẵn sàng trả tiền” cho nó. Vì thê, nếu DNTN đầu tư và thu hồi
vốn thông qua việc thu phí sử dụng thì sẽ rất khó khăn. Trái lại, một DNNN
đầu tư với sự hỗ trợ vốn của Chính phủ lại có thể giải quyết tốt vấn đề này.

Nếu coi hàng hoá công cộng do DNNN cung cấp là tiền đề cho sự phát
triển kinh tế thì tính chất tiền đề đó càng thể hiện rõ và phát huy tác dụng trực
tiếp nếu DNNN thiết lập mối quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp thuộc
các khu vực cần hỗ trợ. Bằng cách đó, DNNN sẽ góp phần tạo các mối quan
hệ xuôi chiều, ngược chiều, quan hệ mạng lưới... với DNTN, trở thành đối tác
và là lực lượng hậu thuẫn cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Thông qua mối quan hợp tác này mà nền kinh tế sẽ đạt tốc độ tăng trưởng
vững mạnh hơn nhiều.
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2.3. DNNN là một công cụ để góp phần khắc phục các khuyết tật của thị
trường
Điều này không chỉ thể hiện ở vai trò tiên phong của DNNN trong việc
cung cấp hàng hoá công cộng, mà còn thể hiện ở chỗ DNNN góp phần điều
tiết “độc quyền”, tạo ra các “ngoại ứng tích cực” và nâng cao hiệu quả cung
cấp thông tin thị trường.
Do tính chất tự nhiên của nhiều loại thị trường mà độc quyền vẫn tồn tại
như một tất yếu khách quan. Bên cạnh những tác động tiêu cực của độc quyền
như bán với giá cao, thu lợi nhuận siêu ngạch, lũng đoạn thị trường... cũng
cần kể đến những tác dụng tích cực khác của nó như tăng cường tập trung
hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học công nghệ mới, tranh
thủ lợi thế kinh tế theo quy mô... Vì thế, vai trò của Nhà nước không phải là
xoá bỏ độc quyền, mà là điều tiết để tranh thủ lợi ích và hạn chế tác dụng của
độc quyền.
Sự có mặt của DNNN trong những lĩnh vực kinh tế cơ bản như nghiên
cứu, triển khai, bảo vệ môi trường... vừa là tiền đề cho phát triển kinh tế bền
vững, vừa tạo ra những ngoại ứng tích cực mà các thành phần kinh tế khác
cũng có thể tranh thủ được lợi ích của nó.
Cuối cùng, DNNN có thể cải thiện thông tin thị trường bằng cách cung
cấp các thông tin cạnh tranh để điều tiết giá cả thị trường hoặc trực tiếp tham

gia vào lĩnh vực thông tin tuyên truyền. Là một thành phần kinh tế chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân, có khả năng chi phối một thị phần lớn, những
thông tin về giá cả do DNNN đưa ra sẽ là dấu hiệu quan trọng cho các doanh
nghiệp khác theo dõi những biến động của môi trường kinh doanh.
2.2.4. DNNN góp phần cải thiện tình hình phân phối phúc lợi xã hội
Với hai đặc trưng cơ bản là “kinh doanh” và “công hữu”, thặng dư do các
hoạt động của DNNN tạo ra không bị phân tán cho các hoạt động tiêu dùng và
tái đầu tư tư nhân, mà được sử dụng tập trung cho khu vực công cộng thông
qua Chính phủ. Việc tự hạch toán và đóng góp cho Ngân sách Nhà nước có
vai trò tích cực nhằm giúp cắt giảm chi tiêu chính phủ và hạn chế tăng thuế cá
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhân. Tác dụng tạo công ăn việc làm và thu nhập của DNNN cũng là một
đóng góp có ý nghĩa, đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện
khó khăn mà đầu tư tư nhân chưa vươn tới.
Tóm lại, những phân tích trên nói lên “vai trò tiềm năng” mà DNNN có
thể đảm nhiệm. Nhưng để biến vai trò đó thành hiện thực thì đòi hỏi bản thân
các DNNN phải tự phấn đấu vươn lên, đổi mới công tác quản lý, thích nghi
với điều kiện cạnh tranh thị trường, thực sự giữ những vị trí then chốt trong
nền kinh tế, đi đầu ứng dụng khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội.
2.3. Xu thế đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Quá trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN đã làm giảm bớt
tính độc tôn của hình thức sở hữu duy nhất tồn tại trong loại hình doanh
nghiệp này. Từ đó DNNN được chuyển sang một cấu trúc sở hữu mới: cấu
trúc nhiều hình thức sở hữu. Điều này cho thấy DNNN không nhất thiết phải
chiếm tỷ trọng lớn mà quan trọng là DNNN phải giữ vị trí then chốt trong nền
kinh tế. Bởi vậy, xu thế đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả của DNNN
phải đảm bảo thoả mãn những yêu cầu sau:
Một là, DNNN phải nắm giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế, bảo đảm an

ninh quốc gia, quốc phòng toàn dân. DNNN là một trong những công cụ vĩ
mô quan trọng của Nhà nước góp phần dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo
định hướng XHCN. DNNN là chỗ dựa để Đảng thực hiện truyền thống lãnh
đạo toàn diện và tuyệt đối với nền kinh tế. Đồng thời, DNNN phải đóng vai
trò là “anh cả” hướng dẫn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác phát triển và vươn lên trong cạnh tranh. DNNN phải là hình
mẫu cho sự phát triển các doanh nghiệp khác và là đại diện cho phương thức
sản xuất kinh doanh và quản lý mang đặc thù Việt Nam.
Hai là, DNNN phải đi đầu trong hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực, địa
bàn kinh doanh phức tạp và giải quyết các vấn đề xã hội. Về lĩnh vực khoa
học công nghệ, DNNN phải đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ cao, sử
dụng lao động có trình độ. Về lĩnh vực nông nghiệp, DNNN phải đi đầu trong
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
việc phục vụ nông nghiệp và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, cung cấp
công nghệ chế biến, máy móc thiết bị cũng như những yếu tố đầu vào phục vụ
cho quá trình sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, DNNN phải đi đầu trong
việc giải quyết các vấn đề xã hội, đầu tư vào vùng sâu vùng xa, vùng biên giới
hải đảo - những nơi mà các loại hình doanh nghiệp khác không có đủ “nhiệt
tình” vươn tới. Mặt khác, DNNN phải đi đầu trong quá trình thực hiện liên
doanh liên kết với nước ngoài và thực hiện các cam kết quốc tế. Để thực hiện
công bằng xã hội, bên cạnh việc tạo hành lang pháp lý cho thị trường vận
động, thực thi chính sách, điều tiết thu nhập, chính sách công cộng thì tất yếu
phải phát huy vai trò của DNNN trong việc đảm bảo các sản phẩm và dịch vụ
công ích. Do đó, DNNN phải đi đầu trong việc hình thành các trung tâm kinh
tế mới, góp phần điều chỉnh cơ cấu ngành, lãnh thổ để thu hẹp khoảng cách
chênh lệch giữa các nhóm và các vùng dân cư.
Ba là, DNNN phải là trọng điểm trong việc thực hiện tăng cường lực
lượng vật chất, góp phần tạo ra sản lượng hàng hoá và dịch vụ ngày càng cao,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp hoá và hiện đại hoá. Mục tiêu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
là tăng trưởng nhanh và phát huy có hiệu quả nội lực của từng doanh nghiệp.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện chủ yếu ở việc hình thành xu
hướng phát triển những ngành công nghiệp mới có trình độ công nghệ cao,
cho ra đời thế hệ sản phẩm mới có khả năng sinh lời lớn, có triển vọng phát
triển lâu dài và khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển của đất nước.
Bên cạnh đó, trong xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, các ngành
truyền thống vẫn duy trì và hoàn thiện để giải quyết các vấn đề xã hội, bảo
đảm thu nhập và việc làm cho đại bộ phận dân cư. Tất cả các nội dung trên
phải có sự tác động mạnh mang tính chủ lực, tiên phong của DNNN.
Bốn là, các DNNN có khả năng cạnh tranh quốc tế cao trên thị trường
trong và ngoài nước về giá cả, chất lượng, dịch vụ trong ngắn và dài hạn. Đây
là một trong những lợi thế quan trọng của DNNN so với các loại hình doanh
nghiệp khác. Do đó, DNNN phải tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việt Nam, có đặc điểm độc đáo, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nước
và nước ngoài. Tiếp đến, chất lượng sản phẩm do DNNN sản xuất phải đạt
trình độ quốc tế, bảo đảm ổn định lâu dài và được cải tiến liên tục, được
chứng nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Năm là, DNNN phải thực hiện được mục tiêu đạt hiệu quả kinh doanh
cao do những công nghệ hiện đại, lực lượng lao động có trình độ tay nghề
cao. Những chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được của DNNN là tỷ suất lợi nhuận
cao, tốc độ quay vòng vốn lớn, dự báo và kiểm soát được những rủi ro trong
kinh doanh, gây dựng được chữ “tín” cho bạn hàng trong nước và quốc tế.
Đây có thể nói là một thách thức, một yêu cầu khó khăn nhất của DNNN,
nhưng nó lại củng cố vững chắc nhất cho vị trí chủ đạo của DNNN trong nền
kinh tế thị trường.
2.4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và những
yêu cầu mới đặt ra

2.4.1. Thực trạng kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước
a. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước
thấp
Theo đánh giá chung của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh
nghiệp Trung ương, số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm
40%, số doanh nghiệp chưa có hiệu quả, hoạt động sản xuất khi lỗ khi lãi
chiếm 31% và còn lại 29% số DNNN hoạt động không có hiệu quả, lỗ liên tục
trong nhiều năm liền. Cũng trong năm 2000, DNNN chỉ đóng góp cho Ngân
sách Nhà nước 39,2% tổng thu Ngân sách nhưng trong đó phần thuế thu nhập
doanh nghiệp chỉ có 13,4%. Một đồng vốn Nhà nước của doanh nghiệp chỉ
làm ra 0,095 đồng lợi nhuận trước thuế. Trong khi đó đối với DNNN sau
chuyển đổi thì tỷ lệ vốn/lợi nhuận trước thuế bằng 0,19 đồng. Điều này đặt ra
yêu cầu phải thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp. Đến năm 2002, tỷ lệ lợi nhuận/vốn của DNNN
vẫn ở mức thấp 2,9%, tỷ lệ lãi/doanh thu tiêu thụ năm 2003 chỉ đạt 4,2% so
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với 13,6% của doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Bên
cạnh đó, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm do DNNN sản xuất trên thị
trường quốc tế và trong nước còn thấp. Một số mặt hàng như sắt thép, phân
bón, xi măng... có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20 - 40%, riêng mặt
hàng dầu thô cao hơn 70 - 80%.
Hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của DNNN thấp là những nguyên
nhân chính dẫn đến tốc độ phát triển của DNNN không cao, thấp hơn nhiều so
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
b. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé
Xét về quy mô DNNN, các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng vẫn
chiếm tỷ trọng lớn.
Bảng 1: Quy mô vốn của doanh nghiệp nhà nước

S
T
Số lượng
DNNN
Quy mô vốn Nhà nước
<1 tỷ 1–5 tỷ
5–10
tỷ
>10 tỷ
1
Cộng tỉnh, thành phố 3833 1164 1736 469 464
Tỷ lệ (%) 100 30,35 45,37 12,20 12,08
2
Cộng các Tổng công ty 91 1224 134 527 225 338
Tỷ lệ (%) 100 10,97 43,04 18,41 27,58
3
Cộng các Bộ, ngành 553 16 95 71 371
Tỷ lệ (%) 100 2,88 17,15 12,82 55,97
4
Tổng số 5610 1314 2352 765 1773
Tỷ lệ (%) 100 23,43 42,02 13,64 20,89
Nguồn: Kinh tế Nhà nước và quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước Nxb
Chính trị quốc gia, 2001
Qua bảng ta thấy, có tới 75,72% DNNN có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng,
còn tỷ trọng DNNN có quy mô vốn trên 5 tỷ vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Để
thành phần kinh tế Nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong
nền kinh tế thì phải giảm dần số lượng các DNNN có quy mô vốn dưới 5 tỷ
đồng và tăng dần tỷ trọng DNNN có quy mô vốn trên 5 tỷ đồng. Điều này đặt
ra yêu cầu phải nỗ lực hơn nữa trong việc sắp xếp và đổi mới DNNN.
c. Công nợ của các DNNN ngày càng tăng, lao động thiếu việc làm và dôi dư

còn lớn, trình độ quản lý còn yếu kém
Nợ của các DNNN đang là một gánh nặng khó khắc phục, nợ quá hạn và
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nợ khó đòi ngày càng tăng. Tổng số nợ phải trả của DNNN tính đến tháng 12
năm 2003 theo Bộ Tài chính lên đến 207,8 nghìn tỷ đồng, trong đó 76% là
vay nợ ngân hàng, còn lại là do chiếm dụng các khoản phải nộp ngân sách
hoặc chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác. Tình hình tài chính không
lành mạnh một phần là do lịch sử để lại, mặt khác là do lúng túng, chưa có
giải pháp khả thi xử lý dứt điểm. Điều này làm cho hạch toán kế toán của
doanh nghiệp bị méo mó, không minh bạch và DNNN luôn ở trong tình trạng
bị động đối với các khoản nợ khó đòi.
Lao động thiếu việc làm và dôi dư cũng là khó khăn lớn, ảnh hưởng đến
quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN. Không ít DNNN tuỳ tiện tăng biên chế
gián tiếp, trực tiếp quá mức khiến cho bộ máy làm việc cồng kềnh dẫn đến chi
phí tăng và năng suất lao động giảm. Bên cạnh đó, các DNNN lại thiếu lao
động trẻ có trình độ chuyên môn cao, người lao động đang làm việc phần lớn
chưa qua đào tạo hoặc làm việc trái nghề dẫn đến năng suất lao động thấp.
Năm 2000, theo báo cáo của Bộ Lao động – thương binh và Xã hội, số lao
động mất việc và không có việc làm thường xuyên ở các DNNN là 20%, và
đến năm 2002, 2003 tăng lên tương ứng là 26% và 28%.
Thêm vào đó là trình độ quản lý của lãnh đạo DNNN chưa đáp ứng được
yêu cầu của cơ chế thị trường, chưa năng động, nhanh nhạy với điều kiện
mới. Nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo hoặc đào tạo lại nên không đáp
ứng được nhu cầu chuyên môn của công việc. Một bộ phận không nhỏ cán bộ
quản lý sa sút về phẩm chất đạo đức, dựa vào hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp để làm lợi cho cá nhân.
d. Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu
Theo khảo sát của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tại nhiều
DNNN, thiết bị, máy móc, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới 10 –

20 năm, trình độ cơ khí hoá, tự động hoá dưới 10%, tài sản ở dạng thanh lý
chiếm 38% và 52% đã qua bảo dưỡng, sửa chữa. Hậu quả là chưa tạo được
nhiều sản phẩm mũi nhọn có hàm lượng chất xám cao trên cơ sở kết hợp phát
huy lợi thế so sánh, nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu quả hợp tác
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quốc tế.
Tóm lại, với thực trạng hoạt động kém hiệu quả như trên của DNNN
trong thời gian qua đặt ra yêu cầu phải thực hiện các giải pháp mạnh mẽ và
cương quyết nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN. Một
trong những giải pháp quan trọng nhất là thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN.
Có như vậy DNNN mới phát huy tác dụng trong việc nâng cao vai trò chủ đạo
của khu vực KTNN.
2.4.2. Những yêu cầu mới đặt ra
a. Gắn kết lợi ích của người lao động, lợi ích của người quản lý với lợi ích của
Nhà nước
Trong các DNNN chưa có sự xác định thực sự mối quan hệ giữa chủ sở
hữu và người điều hành. Do đó không những không xác định rõ trách nhiệm
mà ngay cả trong quyền điều hành hoạt động của DNNN. Bản thân yếu tố sở
hữu được quan niệm là Nhà nước nhưng tồn tại một cách chung chung, thiếu
cụ thể về người đại diện. Điều hành các DNNN là ban giám đốc, ban quản lý
nhưng thiếu những yếu tố ràng buộc trách nhiệm và hạn chế cả về quyền hạn
nên thiếu sự kiểm soát chặt chẽ từ phía chủ sở hữu và thiếu tính tích cực chủ
động sáng tạo trong điều hành của bộ máy quản lý. Vì vậy, các doanh nghiệp
này thường chậm đổi mới về mọi mặt, kém năng động trên thị trường, né
tránh thách thức và ít mạnh dạn trong hoạt động kinh doanh, bỏ lỡ nhiều cơ
hội kinh doanh và phát triển.
Hệ thống quản lý của các DNNN thiết kế quá cồng kềnh, phức tạp, nhiều
cấp trung gian nhưng trách nhiệm cá nhân lại không được ràng buộc chặt chẽ
và tương xứng với quyền hạn, đồng thời không gắn với lợi ích cá nhân của

các cán bộ quản lý một cách thoả đáng. Nhiều khi đây lại là nguyên nhân làm
cho các doanh nghiệp này mất đi lợi thế so với các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác ở trong nước, làm chúng chịu thua thiệt trong kinh
doanh với khách hàng nước ngoài.
Sự can thiệp nhiều khi quá sâu của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động
của DNNN (quy định các định mức kinh tế - tài chính, quyết định mức chi
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiêu hoặc hạn mức chi tiêu cho nhiều hoạt động cụ thể, quy định cách thức
hoặc mức thù lao, cách thức hạch toán...) làm giảm tính tự chủ và giảm đi một
phần trách nhiệm của cá nhân các cán bộ hoặc của cả tập thể ban quản lý
DNNN. Mặt khác, các thủ tục quá chặt chẽ về quá nhiều vấn đề có tính sự vụ
(mua sắm, thanh lý tài sản...) làm cho tính chủ động của cán bộ quản lý
DNNN bị hạn chế. Tâm lý ỷ lại, trông chờ, thái độ thiếu tích cực... cũng từ đó
mà phát sinh, gây ra những cản trở không nhỏ cho hoạt động kinh doanh của
các DNNN.
b. Khai thác các nguồn lực xã hội
Trong nhiều năm qua, theo báo cáo của DNNN cũng như bất kỳ cuộc
điều tra nào về doanh nghiệp này cũng có thể nhận thấy yêu cầu cấp bách của
các doanh nghiệp về việc cấp thêm vốn. Cho đến nay, DNNN chỉ có thể bổ
sung vốn bằng cách xin cấp thêm vốn hoặc vay ngân hàng. Hình thức vay vốn
của cán bộ, công nhân viên đã được thử nghiệm ở một số doanh nghiệp, đã
phát huy tác dụng tích cực nhất định nhưng cũng làm xuất hiện thêm nhiều
vấn đề khó giải quyết. Trong khi đó vẫn chưa tận dụng được nguồn vốn nhàn
rỗi trong nhân dân dẫn đến các nguồn lực xã hội chưa được khai thác đầy đủ
và có hiệu quả.
c. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Quan hệ kinh doanh với đối tác nước ngoài không chỉ đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có tiềm năng thích hợp, có khả năng ra quyết định kịp thời, độc
lập mà còn phải có những hình thức pháp lý quen thuộc đối với họ. Việc

chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước sẽ cho phép tạo ra những hình thức
pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế, hàng loạt những yêu cầu ngày càng trở nên bức thiết đòi hỏi các
DNNN phải tiến hành chuyển đổi sở hữu.
Tóm lại, việc chuyển đổi sở hữu ở các doanh nghiệp là những hoạt động
bình thường trong hoạt động của chủ sở hữu. Sự chuyển đổi đó là cần thiết
nếu nó liên quan, phục vụ trực tiếp cho lợi ích của chủ sở hữu và chủ đầu tư.
Đối với các DNNN cũng không phải là ngoại lệ mặc dù trong nhiều trường
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hợp Nhà nước chú trọng đến lợi ích kinh tế - xã hội nhiều hơn lợi ích kinh tế
đơn thuần. Sự chuyển đổi đó là cần thiết vì xét cho cùng là vì lợi ích của Nhà
nước với tư cách là chủ đầu tư. Khi các DNNN hoạt động kinh doanh kém
hiệu quả thì chẳng những lợi ích kinh tế đã không được bảo đảm mà lợi ích
chính trị - xã hội cũng bị ảnh hưởng không tốt.
II. Các hình thức chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam
1. Căn cứ lựa chọn doanh nghiệp nhà nước tiến hành chuyển đổi sở hữu
Chuyển đổi sở hữu là quá trình đa dạng hoá các DNNN, làm cho doanh
nghiệp đó không thuộc quyền sở hữu 100% của Nhà nước. Nói cách khác,
một công ty hay một doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu thuộc nhiều thành
phần kinh tế khác nhau. Việc chuyển đổi sở hữu này sẽ giúp cho doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, tự chủ tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh
doanh của mình. Chuyển đổi sở hữu được tiến hành theo ba hình thức: CPH,
bán hoặc giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động.
Quyết định 155/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24 tháng
8 năm 2004 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và
công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty Nhà nước được xem
là căn cứ để lựa chọn DNNN tiến hành chuyển đổi sở hữu. Các DNNN sẽ dựa
vào nội dung của Quyết định này để đánh giá xem doanh nghiệp của mình có

tiến hành chuyển đổi sở hữu được hay không.
1.1. Những công ty mà Nhà nước giữ 100% vốn
Nhà nước nắm giữ 100% vốn đối với những công ty hoạt động trong các
ngành, lĩnh vực sau:
 Những công ty hoạt động trong một số lĩnh vực quan trọng: Sản xuất,
cung ứng vật liệu nổ; Sản xuất, cung ứng hoá chất độc; Sản xuất, cung ứng
chất phóng xạ; Hệ thống truyền tải điện quốc gia; Mạng trục thông tin quốc
gia và quốc tế; Sản xuất thuốc lá điếu; Điều hành bay; Bảo đảm hàng hải; Sản
xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,
trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật và cung ứng dịch vụ bảo mật thông tin bằng kỹ
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuật nghiệp vụ mật mã; Các công ty được giao thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh đặc biệt và các công ty đóng tại địa bàn chiến lược quan trọng
kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; In
tiền, chứng chỉ có giá, sản xuất tiền kim loại; Xổ số kiến thiết; Các nhà xuất
bản; Sản xuất phim khoa học, phim thời sự, phim tài liệu, phim cho thiếu nhi;
Đo đạc bản đồ; Quản lý, bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia, cảng hàng
không và cảng biển có quy mô lớn, vị trí quan trọng theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ; Quản lý, khai thác công trình thuỷ nông đầu nguồn, công
trình thuỷ nông có quy mô lớn; Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng; Thoát nước ở đô thị lớn; Chiếu sáng đô thị; Một số lĩnh
vực quan trọng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ...
 Những công ty bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc miền núi, vùng
sâu, vùng xa.
 Những công ty đáp ứng đủ các điều kiện sau: vốn nhà nước từ 30 tỷ
đồng trở lên, mức thu nộp ngân sách nhà nước bình quân ba năm liền kề từ 3
tỷ đồng trở lên, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ
cao, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và hoạt động trong những

ngành, lĩnh vực sau: Chế biến dầu mỏ; Khai thác quặng có chất phóng xạ;
Đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường không; In sách, báo chính trị;
Bán buôn thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, hoá dược; Bán buôn lương thực; Bán
buôn xăng dầu; Vận tải đường không, đường sắt.
1.2. Những công ty tiến hành chuyển đổi sở hữu dưới hình thức cổ phần hoá,
giao cho tập thể người lao động hoặc bán
 Những công ty khi CPH, Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần
là những công ty có vốn nhà nước từ 20 tỷ đồng trở lên, mức thu nộp ngân
sách nhà nước bình quân ba năm liền kề từ 2 tỷ đồng trở lên, hoạt động trong
những ngành, lĩnh vực đã nêu ở trên và các ngành, lĩnh vực sau: Sản xuất
điện; Khai thác các khoáng sản quan trọng: than, bô xít, quặng đồng, quặng
sắt, quặng thiếc, vàng, đá quý; Sản xuất các sản phẩm cơ khí: thiết bị kỹ thuật
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điện và vật liệu điện, máy công nghiệp chuyên dùng, máy móc, thiết bị phục
vụ nông, lâm, ngư nghiệp, đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường biển,
đường sắt; Cung cấp hạ tầng mạng viễn thông; Sản xuất kim loại đen (gang,
thép) trên 100.000 tấn/năm; Sản xuất xi măng công nghệ hiện đại, chất lượng
cao, có công suất thiết kế trên 1,5 triệu tấn/năm; Sản xuất phân hóa học, thuốc
bảo vệ thực vật; Sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm: muối ăn,
sữa, bia trên 50 triệu lít/năm, cồn và rượu trên 10 triệu lít/năm; Khai thác, lọc
và cung cấp nước sạch ở các thành phố lớn; Vận tải đường biển; Kinh doanh
tiền tệ, bảo hiểm; Sản xuất giống cây trồng, vật nuôi; Dịch vụ đánh bắt hải
sản xa bời; Quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, đường thuỷ quan trọng; Quản
lý, khai thác các công trình thuỷ nông; Dịch vụ hợp tác lao động; Kinh doanh
mặt bằng hội chợ, triển lãm.
 Những công ty không thuộc mục kể trên khi tiến hành CPH, cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền căn cứ từng trường hợp cụ thể, quyết định việc Nhà
nước giữ cổ phần ở mức thấp hoặc không giữ cổ phần.
 Những công ty không CPH được, thì thực hiện chuyển đổi sở hữu

dưới hình thức giao công ty cho tập thể người lao động hoặc bán công ty theo
quy định của Chính phủ.
2. Hình thức CPH
2.1. Mục tiêu, yêu cầu của CPH
2.1.1 Mục tiêu
Chuyển đổi những công ty Nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100%
vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá
nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để tăng
năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và
người lao động trong doanh nghiệp.
2.1.2 Yêu cầu
Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển
thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
2.2. Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa
Các công ty nhà nước không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ thực hiện CPH bao gồm: các Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng
thương mại nhà nước và các tổ chức tài chính nhà nước); công ty nhà nước
độc lập; công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty do Nhà nước
quyết định đầu tư và thành lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà
nước.
Những công ty nêu trên được tiến hành CPH khi còn vốn Nhà nước
(chưa bao gồm giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm trừ giá trị tài sản
không cần dùng, tài sản chờ thanh lý; các khoản tổn thất do lỗ, giảm giá tài
sản, công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí CPH.
Việc CPH đơn vị hạch toán phụ thuộc của các công ty nhà nước chỉ được

tiến hành khi:
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch
toán độc lập
- Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp
2.3. Hình thức CPH công ty nhà nước
Có ba hình thức CPH như sau:
 Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu cầu
tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu
cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần được
phản ánh trong phương án CPH.
 Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút
vốn.
 Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
3. Hình thức giao công ty nhà nước cho tập thể người lao động
Giao công ty cho tập thể người lao động được hiểu là việc chuyển đổi sở
hữu công ty nhà nước và tài sản nhà nước tại công ty thành sở hữu của tập thể
người lao động trong công ty có phân định rõ sở hữu của từng người, từng
thành viên với các điều kiện ràng buộc.
3.1. Mục tiêu của việc giao công ty nhà nước
Giao công ty nhà nước là biện pháp tiếp tục sắp xếp và đổi mới những
công ty nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, Nhà nước không cần nắm giữ
và không CPH được nhằm:
 Tạo điều kiện cơ cấu lại công ty nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế
và sức cạnh tranh của khu vực kinh tế Nhà nước.

 Sử dụng có hiệu quả hơn số vốn, tài sản Nhà nước đã đầu tư vào công
ty, khai thác mọi tiềm năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh.
 Bảo đảm việc làm cho người lao động, thay đổi phương thức quản lý
công ty, tạo động lực để phát huy quyền làm chủ của người lao động.
 Giảm bớt chi phí và trách nhiệm trực tiếp kinh doanh của Nhà nước,
đảm bảo lợi ích chung cho cả Nhà nước và người lao động trong công ty.
Giao công ty nhà nước (gọi tắt là giao công ty) áp dụng đối với công ty
nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty có
vốn nhà nước ghi trên sổ sách kế toán dưới 5 tỷ đồng.
3.2. Điều kiện giao doanh nghiêp cho tập thể người lao động
Tập thể người lao động trong công ty được xem xét giao công ty khi đáp
ứng đủ các điều kiện sau:
 Tự nguyện đăng ký nhận giao công ty
 Cam kết đầu tư thêm để phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc
làm tối thiểu từ 3 năm trở lên, đóng đầy đủ bảo hiểm cho người lao động
trong công ty theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp tự nguyện chấm dứt
hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật về lao động và chính sách đối
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với lao động dôi dư do sắp xếp lại công ty nhà nước).
 Kế thừa phần công nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty sau khi xử
lý. Kế thừa quyền và nghĩa vụ đối với người lao động theo Bộ luật Lao động.
 Không được cho thuê, chuyển nhượng, tự giải thể công ty trong thời
gian tối thiểu 3 năm sau khi giao.
4. Hình thức bán công ty nhà nước
Bán công ty hoặc bộ phận của công ty là việc chuyển đổi sở hữu sở hữu
có thu tiền toàn bộ công ty, bộ phận công ty sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc
pháp nhân khác.
4.1. Mục tiêu của việc bán công ty nhà nước

Việc thực hiện bán công ty nhà nước nhằm cơ cấu lại công ty, nâng cao
khả năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Thông qua đó, sử dụng có hiệu quả số vốn, tài sản của Nhà
nước và khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế khác cho đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh.
Khi tiến hành bán công ty nhà nước, người lao động sẽ được bảo đảm
việc làm, ổn định thu nhập và phát huy quyền làm chủ của người lao động.
Lúc này, Nhà nước sẽ không sở hữu hoàn toàn DNNN đã thực hiện bán nên
giảm bớt chi phí và trách nhiệm kinh doanh của Nhà nước. Do đó bảo đảm
được lợi ích của cả Nhà nước và người lao động.
4.2. Các phương thức tiến hành bán công ty nhà nước
Việc bán DNNN được tiến hành theo ba phương thức: đấu thầu, đấu giá
hoặc bán trực tiếp.
Nếu có từ hai người trở lên đăng ký mua doanh nghiệp thuộc diện phải
chuyển đổi sở hữu thì doanh nghiệp sẽ được bán theo phương thức đấu thầu.
Trường hợp công ty đã giải quyết hết số lao động hoặc đã phê duyệt
phương án giải quyết hết số lao động theo quy định mà lại có từ hai người
đăng ký mua trở lên thì phải bán doanh nghiệp theo phương thức đấu giá theo
Quy chế bán đấu giá do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Nếu chỉ có một người đăng ký mua thì doanh nghiệp sẽ được bán theo
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương thức trực tiếp.
Người đăng ký mua doanh nghiệp có quyền đến doanh nghiệp nghiên
cứu sổ sách kế toán, bảng kê tài sản và thực trạng hoạt động của doanh nghiệp
để quyết định có tiếp tục mua doanh nghiệp hay không.
Kết luận: Việc thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN chỉ được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt khi có phương án sử dụng lao động trong doanh nghiệp
hợp lý. Đây chính là mục tiêu chung và quan trọng nhất của các hình thức
chuyển đổi sở hữu DNNN.

III. Các nhân tố tác động đến quá trình chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN ở nước ta diễn ra nhanh hay chậm,
thuận lợi hay khó khăn là do sự tác động của rất nhiều nhân tố. Các nhân tố
đó có quan hệ tác động qua lại hoặc cùng chiều hoặc ngược chiều. Nếu chúng
tác động đồng thuận sẽ tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi sở hữu diễn ra
nhanh. Ngược lại, nếu chúng tác động ngược chiều nhau sẽ làm chậm lại quá
trình chuyển đổi. Có rất nhiều nhân tố tác động nhưng theo em bốn nhân tố
sau có tác động mạnh nhất.
1. Cơ chế chính sách liên quan đến việc chuyển đổi sở hữu
Sở hữu luôn là một trong những vấn đề trọng tâm của mọi thời kỳ lịch
sử. Nó vừa là kết quả của sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nó cũng tác
động trở lại đến quá trình kinh tế xã hội. Chính vì vậy, vấn đề sở hữu luôn là
mối quan tâm của các nhà chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Việc
tiến hành chuyển đổi sở hữu DNNN đồng nghĩa với việc giảm sở hữu Nhà
nước, đây là vấn đề không mới nhưng chúng ta vẫn phải vừa làm vừa “dò
dẫm” và học hỏi kinh nghiệm các nước bạn. Bởi vậy, để việc chuyển đổi sở
hữu được tiến hành thống nhất trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà nước đã
không ngừng ban hành các quyết định, nghị định phù hợp với điều kiện thực
tế khi tiến hành chuyển đổi. Cơ chế chính sách được ban hành có phù hợp với
thực tiễn, có phù hợp với yêu cầu đổi mới hay không phụ thuộc vào sự nhanh
nhẹn và nhạy bén của cơ quan thường trực sắp xếp và đổi mới DNNN. Chỉ
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khi nào những cơ chế chính sách không còn là rào cản cho quá trình chuyển
đổi thì quá trình đó mới diễn ra theo đúng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã
đặt ra.
Một trong những chính sách có tác động mạnh đến sự chuyển đổi sở hữu
DNNN chính là chính sách ưu đãi đối với người lao động. Niềm tin của người
lao động trong doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi sở hữu về khả năng

thành công có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo chủ trương của Đảng khi tiến
hành chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần là ưu tiên bán cổ phần cho
người lao động để đảm bảo thu nhập và quyền làm chủ của người lao động.
Nếu chuyển sang hình thức giao hoặc bán thì đối tượng nhận mua hoặc nhận
giao chủ yếu là tập thể người lao động. Do vậy, nếu không có những chính
sách ưu đãi phù hợp với người lao động tạo cho họ niềm tin về sự hiệu quả về
khả năng kinh doanh có lời sau khi tiến hành chuyển đổi sở hữu thì người lao
động sẽ không chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi.
Xuất phát từ mục tiêu đảm bảo thu nhập, nâng cao mức sống của người
lao động cùng với việc đẩy mạnh hiệu quả sử dụng đồng vốn kinh doanh sau
chuyển đổi là những yếu tố quan trọng tạo niềm tin cho người lao động khi
tham gia chuyển đổi sở hữu. Muốn như vậy thì cơ chế chính sách ưu đãi
người lao động phải phù hợp và dễ hiểu để người lao động không cảm thấy
khó khăn khi tiếp cận chính sách pháp luật.
2. Sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện
Có được cơ chế chính sách về chuyển đổi sở hữu phù hợp đã quan trọng
thì sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước lại càng quan trọng hơn. Nó quyết định
rất nhiều đến sự thành công hay thất bại của quá trình chuyển đổi sở hữu. Bởi
một nghị định hay quyết định được ban hành, không phải cơ quan nào, cấp có
thẩm quyền nào cũng có thể hiểu thông suốt, cũng có khả năng tiến hành thực
hiện. Việc thực hiện phải có sự chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể của Đảng và Nhà
nước. Một nghị định được ban hành về một vấn đề kinh tế xã hội nào đó thì
kèm theo nó là một thông tư hướng dẫn cụ thể việc thi hành nghị định ấy. Mà
việc chuyển đổi sở hữu DNNN khá phức tạp và “đụng chạm” đến quyền lợi
Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 25

×