Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận chính sách tiền tệ và công cụ chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.48 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I....................................................................................................................................................1
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG......................1
1.1. Khái niệm và vị trí của chính sách tiền tệ...............................................................................................1
1.1.1.Khái niệm chính sách tiền tệ................................................................................................................1
1.1.2.Vị trí chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường...........................................................................1
1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.............................................................................................................1
1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ........................................................................................................3
1.1.3.Nhóm công cụ trực tiếp.......................................................................................................................3
1.1.4.Nhóm công cụ gián tiếp.......................................................................................................................4


CHƯƠNG I
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái niệm và vị trí của chính sách tiền tệ
1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ quốc gia là tổng hoà những phương thức mà NHTW thông qua
các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
1.1.2. Vị trí chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một
trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền
tệ. Song cũng có quan hệ với các chính sách vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách
thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là
hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của NHTW đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ
hoạt động hiệu quả hơn.
1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
- Phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng
Sự tác động vào quá trình phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng do nhiều yếu tố tác


động. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, muốn kinh tế tăng trưởng thì nhất thiết phải
thực hiện tái sản xuất mở rộng trên cơ sở khai thác triệt để các nguồn vốn tiềm năng trong
và ngoài nước. Trong việc thực hiện mục tiêu này, vai trò của NHTW rất quan trọng. Với
chức năng là trung tâm tín dụng, dưới sự chỉ đạo của NHTW thông qua chính sách tiền tệ,
các ngân hàng huy động sẽ huy động một cách triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội, trên cơ sở đó phân phối lại cho các chủ thể cần vốn để phát triển kinh tế.
- Tạo công ăn việc làm
Trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao động trở thành hàng hoá thì hiện tượng
thất nghiệp là một hiện tượng tất yếu xảy ra. Do vậy, tạo công ăn việc làm là một yêu cầu
bức thiết và thường trực của các quốc gia

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 1


Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm, nói chung chủ yếu phụ thuộc vào tình hình
tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế được mở rộng và phát triển thì việc làm được tạo ra
nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và ngược lại. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, khi tăng
trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà
thậm chí còn giảm. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu này, NHTW phải vận dụng các công cụ
của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Những phân tích trên cho thấy vai trò của NHTW trong việc thực hiện mục tiêu
này là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh. Mặt khác, phải tham gia tích cực vào việc chống suy thoái kinh tế, tạo ra sự
tăng trưởng kinh tế ổn định, vững chắc, nhằm mục đích khống chế tỷ lệ thất nghiệp không
vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, gia tăng khối lượng công ăn việc làm.
- Kiểm soát lạm phát
Trong điều kiện lưu thông tiền vàng hoặc tiền giấy tự do chuyển đổi ra vàng, thì
khối lượng tiền thực tế sẽ phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Ngày nay, thời đại của

chế độ lưu thông tiền giấy bất khả hoán, lạm phát là một hiện tượng tất yếu xảy ra. Một
nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng được trong một môi trường ổn định về tiền tệ - giá cả.
Trong điều kiện đó, NHTW phải luôn coi việc kiểm soát lạm phát là một trong những
mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Thường thì lạm phát vừa phải là mục tiêu phấn đấu của các NHTW trong vấn đề
kiểm soát lạm phát. Vì theo kết quả nghiên cứu được công bố năm 1960 của nhà kinh tế
học người Mỹ, tên là A.W Philips, thì lạm phát và thất nghiệp tỷ lệ nghịch với nhau. Cụ
thể, cứ giảm 1% tỷ lệ lạm phát thì tỷ lệ thất nghiệp tăng 2%. Mặt khác, mức lạm phát quá
thấp thì nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng suy thoái. Mà tăng trưởng kinh tế, khống chế tỷ
lệ thất nghiệp và kiềm chế lạm phát đều là các mục tiêu cần đạt đến của chính sách tiền tệ
quốc gia.
Rõ ràng, sự phối hợp ba mục tiêu này là rất quan trọng. Bởi vì không phải cùng
một lúc cả ba mục tiêu đó đều có thể thực hiện được mà không có sự mâu thuẫn với nhau.
Do vậy, khi đặt các mục tiêu cho chính sách tiền tệ quốc gia cần phải có sự dung hoà. Cụ
thể là phải tuỳ lúc, tuỳ thời, tuỳ điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Muốn vậy,
NHTW phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu,
nhằm điều chỉnh chúng khi có sự thay đổi bằng những giải pháp thích hợp.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 2


1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ chính sách tiền tệ quốc gia là các hoạt động của NHTW nhằm tác động
đến cung tiền và lãi suất, qua đó nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
NHTW sử dụng hai nhóm công cụ chính sách tiền tệ đó là: nhóm công cụ gián tiếp (thị
trường) và nhóm công cụ trực tiếp (hành chính).
1.1.3. Nhóm công cụ trực tiếp
Công cụ trực tiếp là công cụ mà thông qua chúng, NHTW có thể tác động trực tiếp

đến các mục tiêu mà không phải qua một biến số trung gian nào khác. Các công cụ trực
tiếp mà NHTW có thể sử dụng thường là:
 Ấn định lãi suất tiền gửi
Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn để
cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng cung cấp tín
dụng của các NHTM và các tổ chức tín dụng.
Khi NHTW thay đổi các mức ấn định lãi suất tiền gửi, các NHTM và các tổ chức
tín dụng phải tuân thủ các mức lãi suất ấn định này, từ đó sẽ làm thay đổi khối lượng tiền
tệ, tín dụng trong nền kinh tế. Việc thay đổi các mức ấn định lãi suất tiền gửi sẽ có tác
động trực tiếp và nhanh chóng đến khối lượng tiền tệ và tín dụng của nền kinh tế, song
nhược điểm của biện pháp này là làm cho các tổ chức tín dụng mất đi tính linh hoạt và
quyền tự chủ kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng, dễ dẫn đến tình
trạng ứ đọng vốn nhất thời ở ngân hàng nhưng lại thiếu vốn cho đầu tư hoặc có thể
khuyến khích dân chúng dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng
hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay
 Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay hoặc lãi suất cơ bản
NHTW có thể tác động tới khối lượng tiền cung ứng bằng cách quy định và điều
chỉnh khung lãi suất (giới hạn tối đa và tối thiểu) hoặc quy định điều chỉnh lãi suất cơ bản
và biên độ dao động.
Biện pháp này giúp ngân hàng thương mại được quyền lựa chọn mức lãi suất tiền
gửi hoặc lãi suất cho vay phù hợp với điều kiện cụ thể của mình trong giới hạn khung lãi
suất hay biên độ giao động của lãi suất cho phép để kinh doanh, nâng cao được tính độc
lập, tự chủ của mỗi ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường,
lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nên nhiều khi khung lãi suất do NHTW quy định trở nên
gò bó, cứng nhắc, không theo kịp những diễn biến của thị trường.
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 3



 Ấn định hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng
Đây là biện pháp NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với NHTM và tổ chức
tín dụng. Trên cơ sở quy mô, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của
từng tổ chức tín dụng, NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng tổ chức tín
dụng, đó chính là mức tối đa mà mỗi ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng được phép vay từ
NHTW. Việc sử dụng biện pháp này tạo cho NHTW dễ dàng đạt được mục tiêu kiểm soát
khối lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, với sự biến động
thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp này tỏ ra không còn linh hoạt phù hợp
với sự biến động của nền kinh tế.
Bên cạnh việc quy định hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng, NHTW còn
quy định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này NHTW có thể quy
định giới hạn khối lượng tín dụng mà các tổ chức tín dụng được cung cấp cho nền kinh tế.
Công cụ này được sử dụng để kiểm soát chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi mà NHTW
thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
 Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư
Khi ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt, NHTW phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt
ấy. Biện pháp này làm gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông và hậu quả là gia tăng lạm
phát.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội có thể được thực hiện thông qua con đường
tín dụng ngân hàng. Việc NHTW phát hành tiền trực tiếp cho đầu tư là một biện pháp cần
thiết trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm năng kinh tế và sẽ mang lại hiệu
quả tích cực nếu việc phát hành tiền được sử dụng để khai thác tiềm năng về tài nguyên
và con người.
1.1.4. Nhóm công cụ gián tiếp
Công cụ gián tiếp là công cụ mà sự tác động của chúng đến các mục tiêu của chính
sách tiền tệ được thực hiện thông qua một biến số khác thuộc về sự kiểm soát của NHTW
và qua cơ chế tự điều tiết của các lực lượng thị trường.
Nhóm công cụ gián tiếp thường bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp
vốn và dự trữ bắt buộc .
 Nghiệp vụ thị trường mở (Open market operation)

Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất, bởi vì
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 4


chúng là những nhân tố chủ yếu làm thay đổi lãi suất và khối lượng tiền cơ sở, là nguồn
chủ yếu làm thay đổi cung tiền. Như vậy, nghiệp vụ thị trường mở không tác động trực
tiếp mà tác động gián tiếp đến cung tiền và lãi suất thị trường thông qua lãi suất liên ngân
hàng và tiền cơ sở đến cung tiền và lãi suất thị trường. Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp
vụ mua bán các chứng khoán ngắn hạn của NHTW trên thị trường mở.
- Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
Nếu muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng, NHTW tiến
hành mua giấy tờ có giá trên thị trường. Ngược lại khi muốn giảm mức cung ứng tiền, thu
hẹp tín dụng, NHTW phát hành và bán các giấy tờ có giá.
Khi NHTW mua các giấy tờ có giá chứng khoán sẽ tạo ra các hiệu ứng:
+ Lãi suất liên ngân hàng giảm ngay lập tức, qua đó tác động làm cho lãi suất thị
trường ngắn hạn giảm theo
+ Dự trữ của hệ thống ngân hàng tăng ngay lập tức, qua đó làm tăng tiền cơ sở.
Tiền cơ sở tăng, thông qua cơ chế tạo tiền gửi, làm cho cung tiền tăng lên
Ngược lại, khi NHTW bán chứng khoán sẽ tạo ra các hiệu ứng:
+ Lãi suất liên ngân hàng tăng ngay lập tức, qua đó tác động làm cho lãi suất thị
trường ngắn hạn tăng theo.
+ Dự trữ của hệ thống ngân hàng giảm ngay lập tức, qua đó làm giảm khối lượng
tiền cơ sở. Tiền cơ sở tăng, thông qua cơ chế tạo tiền gửi, làm cho cung tiền giảm xuống.
Như vậy, thông qua các nghiệp vụ của thị trường mở, NHTW có thể kiểm soát
được mức lãi suất thị trường ngắn hạn và mức cung tiền trong nền kinh tế.
Thông thường, nghiệp vụ thị trường mở bao gồm 2 loại:
+ Nghiệp vụ chủ động (dynamic open market operations): là nghiệp vụ được tiến
hành nhằm mục đích chủ động thay đổi mức dự trữ và tiền cơ sở. Chẳng hạn, NHTW thấy

tổng lượng tiền cung ứng vào lưu thông không đủ để kích thích nền kinh tế phát triển nên
quyết định thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để tăng lượng tiền đưa vào lưu thông.
+ Nghiệp vụ bị động (defensive open market operations): là nghiệp vụ được tiến
hành nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố ảnh hưởng một cách không có lợi
đến tổng lượng tiền trong lưu thông. Chẳng hạn, khi tiền gửi của Kho bạc, các NHTM và
các tổ chức tín dụng tại NHTW được dự đoán là giảm xuống, điều này đồng nghĩa với sự
tăng lên của tổng lượng tiền trong lưu thông, NHTW sẽ phải tiến hành bán chứng khoán
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 5


trên thị trường mở.
Ưu, nhược điểm của nghiệp vụ thị trường mở
- Ưu điểm
Các công cụ nghiệp vụ thị trường mở có những lợi thế nhất định so với các công
cụ khác trong chính sách của NHTW. Lợi thế này bao gồm tính chính xác với tổng dự trữ
và cơ số tiền dự trữ và cơ số tiền tệ có thể bị ảnh hưởng bởi tính linh hoạt của nghiệp vụ
thị trường mở và thực tế là quyền lực đối với sự thay đổi hoàn toàn trong tay của NHTW.
+ Tính chính xác: Hoạt động thị trường mở giúp cho NHTW quản lý chính xác
tổng dự trữ ngân hàng và cơ số tiền tệ, đặc biệt khi chúng được tính bình quân tuần hoặc
tháng dựa trên số liệu hàng ngày. Nếu NHTW muốn bơm bao nhiêu tiền dự trữ vào hệ
thống ngân hàng nó thực hiện đơn giản bằng cách mua bấy nhiêu tiền chứng khoán Chính
phủ. Mức chính xác cao này không thể đạt được khi sử dụng các công cụ lãi suất tái cấp
vốn hoặc dự trữ bắt buộc. Chẳng hạn, nếu NHTW muốn giảm dự trữ thông qua chính
sách tái cấp vốn, tất cả những gì nó có thể làm là tăng lãi suất tái cấp vốn và thậm chí có
thể phát hành một thông báo khiển trách các ngân hàng không chịu vay với khối lượng
lớn tại NHTW. Trong một chừng mực nào đó, những hành động này sẽ tạo ra một sự suy
giảm trong dự trữ và cơ số tiền tệ không thể dự báo trước được.
+ Tính linh hoạt: NHTW có thể tham gia vào thị trường mở hàng ngày, mua và

bán với số lượng lớn chứng khoán chính phủ thông qua mạng lưới phân phối của nó. Vì lý
do này NHTW dễ dàng thay đổi cung bậc của chính sách tiền tệ và thậm chí đảo hướng
của nó thông qua các hoạt động của thị trường mở (chỉ trong thời gian ngắn nếu muốn).
Điều tương tự không đúng với những thay đổi trong chính sách tái cấp vốn và dự trữ bắt
buộc là những thứ mà công chúng có thể nhận thức rõ ràng. Chẳng hạn, nếu NHTW tăng
lãi suất tái cấp vốn hoặc dự trữ bắt buộc thì đây là một hành động hạn chế cung tiền. Do
vậy, hành động của NHTW được xem như là dấu hiệu một nhu cầu về hạn chế tiền tệ.
Hướng ngược lại của việc giảm lãi suất tái cấp vốn hoặc dự trữ bắt buộc trong thời gian
tiếp theo sẽ làm NHTW lúng túng. Bằng cách như vậy, nó sẽ bị công chúng coi là sai lầm.
Hậu quả là nó không đảo ngược được hướng của công cụ chính sách tới tận khi có những
bằng chứng tin cậy cho thấy rằng một sự thay đổi trong chính sách là cơ bản.Vì lý do này
mà công cụ nghiệp vụ thị trường mở có thể được NHTW thực hiện nhiều lần mỗi ngày
trong khi đó với hai công cụ trên thì chỉ được sử dụng một vài lần trong năm.
+ Khả năng tiên liệu: Nếu NHTW phải tác động đến các hoạt động kinh tế thông
qua dự trữ bắt buộc, cơ số tiền tệ hoặc dự trữ vượt mức, sự thay đổi trong những biến số
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 6


này nhất định phải do các quyết định của NHTW thay vì bị áp đặt bởi các lực lượng bên
ngoài. Tức là, khả năng tiên liệu những thay đổi trong dự trữ, dự trữ vượt mức nằm trong
sự kiểm soát và quyết định của NHTW. Đây cũng là tình huống đối với hoạt động thị
trường mở: bằng cách tiên liệu các hoạt động như vậy NHTW có thể điều khiển ứng xử
của tổng dự trữ ngân hàng và cơ số tiền tệ. Một tình huống tương tự có thể được thực hiện
đối với công cụ dự trữ bắt buộc, nó cho phép NHTW có thể kiểm soát dự trữ yêu cầu.Tuy
nhiên, điều này không đúng đối với công cụ lãi suất tái cấp vốn.
Nhờ những ưu điểm trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ hữu hiệu
nhất trong các công cụ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, việc thực hiện công cụ này đỏi
hỏi sự phát triển của thị trường tài chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng.

Ngoài ra NHTW phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả
dụng trong hệ thống ngân hàng.
-

Nhược điểm

+ Các ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở đến cơ số tiền có thể bị triệt tiêu bởi
các tác động ngược chiều làm dự trữ của ngân hàng không tăng hoặc giảm tương ứng khi
NHTW tiến hành các nghiệp vụ mua bán chứng khoán. Chẳng hạn, do dòng chảy ngược
chiều của vốn, do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc số dư tiền gửi của ngân sách
ở NHTW tăng lên làm cho việc mua chứng khoán nhằm tăng lượng tiền cung ứng của
NHTW có thể bị triệt tiêu một phần hay toàn bộ.
+ Các NHTM không nhất thiết phải tăng hoặc giảm lượng cung ứng tín dụng và
đầu tư khi dự trữ tăng lên hay giảm đi do tác động của các nghiệp vụ trên thị trường mở.
Có một số yếu tố ngăn cản các NHTM sử dụng tối đa số dự trữ dư thừa cho việc mở rộng
tín dụng như: nhu cầu trả nợ NHTW, nhu cầu sử dụng tiền mặt tăng lên.
+ Khi sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, NHTW thường mua bán với khối lượng
chứng khoán lớn nên có thể gây ra sự biến động về lãi suất trên thị trường. Trong trường
hợp lãi suất thị trường giảm xuống thì khối lượng tín dụng không nhất thiết tăng lên tương
ứng bởi lẽ điều này còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức rủi ro
và sự ổn định của môi trường đầu tư.
 Dự trữ bắt buộc (Reserve requirements)
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải duy trì theo quy định của
NHTW. Nó được xác định bằng tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền gửi của các NHTM
và các tổ chức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 7



Dự trữ bắt buộc được xác định theo công thức sau:
Tiền gửi dự
trữ bắt buộc

=

Tổng số tiền gửi
phải tính dự trữ bắt
buộc

x

Tỷ lệ dự
trữ bắt
buộc

Tuỳ theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ mà NHTW có những quy
định về việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Dự trữ bắt buộc có thể quy định
cho tất cả các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể được quy định chung cho
toàn bộ các nguồn vốn huy động được của các tổ chức tín dụng, hoặc có thể chỉ được quy
định đối với tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi ngắn hạn dưới một năm.
- Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho các tổ
chức tín dụng và quan trọng hơn là để NHTW kiểm soát quá trình tạo tiền của hệ thống
NHTM và các tổ chức tín dụng khác.Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến sự
thay đổi số nhân tiền và qua đó tác động tới mức cung tiền. Cụ thể:
+ Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không thay đổi, ngay lập tức dự
trữ vượt mức của hệ thống ngân hàng giảm, làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của tổ
chức tín dụng, do đó làm giảm cung tiền trong lưu thông.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là bộ phận cấu thành mẫu số của hệ số nhân tiền. Vì thế khi

tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng sẽ làm giảm hệ số nhân tiền, làm giảm khả năng tạo tiền và
cung ứng tiền của hệ thống ngân hàng.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm tăng cầu dự trữ của các NHTM trên thị trường
liên ngân hàng. Trong điều kiện cung dự trữ không đổi, sự tăng cầu dự trữ làm tăng lãi
suất liên ngân hàng, từ đó dẫn đến tăng các mức lãi suất trên thị trường, giảm khối lượng
cung tiền.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng sẽ làm tăng chi phí đầu vào cho các NHTM. Khi đó,
để cho vay có lãi, buộc các NHTM phải nâng lãi suất cho vay.
Ngược lại, nếu NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức
tín dụng mở rộng, khả năng cho vay và đầu tư, dẫn đến khả năng tăng mức cung tiền
trong nền kinh tế.
Như vậy, thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động cả về khối lượng tín
dụng và giá cả tín dụng của các tổ chức tín dụng:
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 8


Về khối lượng tín dụng: việc tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là thắt chặt
hay nới lỏng khả năng tạo tiền của NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
Về chi phí: việc tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là làm tăng hoặc
giảm chi phí tín dụng của các NHTM.
Do đó, dự trữ bắt buộc tạo ra tác động kép để buộc các tổ chức tín dụng có thể mở
rộng hay hạn chế khả năng cung ứng tiền tệ và tín dụng trong nền kinh tế.
- Ưu, nhược điểm của công cụ dự trữ bắt buộc
+ Đây là công cụ có ảnh hưởng rất mạnh và nhanh chóng đến lượng tiền cung ứng.
Chỉ cần một thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể khối
lượng tiền cung ứng
+ Bất lợi chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc là có thể khiến cho một số tổ chức
tín dụng có dự trữ vượt mức ở mức thấp có thể nhanh chóng rơi vào tình trạng mất khả

năng thanh toán
 Chính sách chiết khấu (Discount policy)
Chính sách chiết khấu thể hiện bằng quy chế cho vay của NHTW đối với các
NHTM vav các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Quy chế này bao gồm những nội dung về
điều kiện cho vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá do các tổ chức tín
dụng đưa đến. Mục đích vay chiết khấu của các tổ chức tín dụng là để bù đắp thiếu hụt
tạm thời nhu cầu thanh toán hoặc thiếu hụt dự trữ bắt buộc.Những thay đổi trong chính
sách chiết khấu của NHTW sẽ tác động đến khối lượng vay chiết khấu của các ngân hàng
thương mại, từ đó ảnh hưởng tới lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường.
- Cơ chế tác động của chính sách chiết khấu
NHTW thay đổi lãi suất chiết khấu và hạn mức chiết khấu, qua đó ảnh hưởng đến
hoạt động đi vay của các tổ chức tín dụng như sau:
+ Hạn mức chiết khấu: Khối lượng dự trữ bổ sung cho các tổ chức tín dụng có thể
bị thu hẹp hoặc nới rộng phụ thuộc vào hạn mức chiết khấu của NHTW, từ đó ảnh hưởng
đến khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, làm
thay đổi lượng tiền cung ứng. Mặt khác, khi cung tiền thay đổi sẽ tác động làm cho lãi
suất thị trường thay đổi.
+ Lãi suất chiết khấu: Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu sẽ làm tăng chi phí đi
vay của các tổ chức tín dụng, để kinh doanh có lãi, các tổ chức tín dụng phải tăng lãi suất
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 9


cho vay, từ đó làm giảm nhu cầu tín dụng. Mặt khác, khi lãi suất chiết khấu tăng, chi phí
đi vay tăng buộc các tổ chức tín dụng hạn chế vay NHTW. Để hồi phục dự trữ, các tổ
chức tín dụng phải giảm cung ứng tín dụng, khiến lãi suất thị trường tăng.
- Ưu, nhược điểm của chính sách chiết khấu
+ Ưu điểm của công cụ chiết khấu là các khoản vay chiết khấu đều được đảm bảo
bằng các giấy tờ có giá, nên NHTW chắc chắn thu hồi được nợ khi đến hạn.

+ Tuy nhiên, tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các các tổ chức tín
dụng có nhu cầu vay từ NHTW với mức lãi suất hợp lý. Với sự phát triển của thị trường
tài chính, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàngcó thể tìm
kiếm được các nguồn cho vay thay thế làm cho sự phụ thuộc vào các khoản vay NHTW
giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.
+ Ngoài ra, NHTW khó có thể kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công
cụ này bởi NHTW chỉ có thể thay đổi được lãi suất chiếu khấu và các điều kiện cho vay
mà không kiểm soát được việc các tổ chức tín dụng quyết định vay từ mình bao nhiêu.
+ Công cụ này cũng không dễ khắc phục được sai sót như nghiệp vụ thị trường
mở. Chẳng hạn, nó cũng có thể gây ra những biến động lãi suất trên thị trường,…

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2012
2.1.

Quan điểm điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn 2011 - 2012
Hội nghị Trung Ương 3 (khóa XI) tháng 10/2011 đã xác định năm 2012 và giai
đoạn năm 2011-2015, ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm chế lạm phát, ổn
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 10


định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế.
Năm 2012 được coi là năm bản lề và có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện
thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015. Bên cạnh việc tiếp
tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ còn
đặt mục tiêu triển khai đề án tái cấu trúc nền kinh tế với ba trụ cột là tái cơ cấu đầu tư

công, tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, tái cấu trúc hệ thống tài chính với trọng tâm
là hệ thống ngân hàng thương mại.
Như vậy, trọng trách nặng nề đặt ra cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và hệ thống
ngân hàng nói riêng đối với phát triển kinh tế bền vững, nhất là trong việc thực hiện mục
tiêu, định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn hiện nay và
những năm tiếp theo.
2.2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam
Công cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp mà NHNN có thể sử dụng để điều
chỉnh, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mức cung cầu tiền tệ, nhằm đạt được mục
tiêu cao nhất của CSTT đã đề ra.
Theo quy định của luật NHNN 2010, Thống đốcNHNN có quyền quyết định lựa
chọn sử dụng công cụ điều hành chính sách tiền tệ để thực hiện các mục tiêu của chính
sách tiền tệ đã được Chính phủ đề ra.
Việc sử dụng công cụ chính sách tiền tệ chỉ phát huy được hiệu quả khi nó tạo ra
được cơ chế truyền dẫn tác động dây chuyền từ công cụ chính sách tiền tệ tác động đến
mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ đã được NHNN sử dụng chủ yếu trong
thời gian qua bao gồm: lãi suất, tái cấp vốn, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ
thị trường mở, kiểm soát hạn mức tín dụng…

2.2.1. Công cụ lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ gián tiếp để điều hành CSTT, NHNN thông
qua công cụ này để điều khiển mức cung tiền cho nền kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu
kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia. Chính sách, cơ chế điều hành
lãi suất của NHNN được định hướng theo nguyên tắc đảm bảo các mục tiêu của CSTT:
kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 11



Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, NHNN trực tiếp quyết định các mức lãi
suất như: Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất OMO, trần
lãi suất huy động ngắn hạn, trần lãi suất cho vay ngắn hạn thuộc 4 đối tượng ưu tiên đối
với nền kinh tế của các TCTD. Các TCTD được quy định lãi suất thỏa thuận đối với tiền
gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên; lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các đối tượng khác ngoài
4 đối tượng ưu tiên; lãi suất cho vay trung dài hạn cho tất cả các đối tượng khách hàng.
Một số chuyển biến tích cực của cơ chế điều hành lãi suất 2011-2012:
Cơ chế điều hành các loại lãi suất năm 2012 được điều chỉnh linh hoạt, hợp lý và
đồng bộ hơn so với 2011, phát huy được vai trò Ngân hàng trung ương là người cho vay
cuối cùng.
Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành theo cơ
chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao động +/- 2% để
điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị trường mở được ấn định biến động trong
biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn (trần) và lãi suất chiết khấu (sàn).
Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của NHTM được điều
chỉnh giảm xuống theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-10/2012), đảm bảo nguyên
tắc thực dương, nguồn vốn huy động 10 tháng tăng +14.2%, thanh khoản của hệ thống
Ngân hành được cải thiện bằng nguồn vốn hút vào từ nền kinh tế chứ không phải từ
nguồn tái cấp vốn như năm 2011.
Từ tháng 6/2011-10/2012: Mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều chỉnh hợp
lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: Lãi suất tái chiết khấu < lãi suất huy động vốn
dưới 12 tháng > “sàn” là lãi suất tái chiết khấu; “Trần” là lãi suất tái cấp vốn; Biên độ 12%, lãi suất huy động vốn của TCTD biến động trong biên độ nói trên.
Sự đổi mới cơ chế lãi suất lãi suất nói trên đã khuyến khích các TCTD huy động
vốn từ nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN, không còn cơ hội cho các TCTD lợi dụng
vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao
để hưởng chênh lệch lãi suất lớn.
Lãi suất huy động và cho vay của TCTD 2012 giảm hơn nhiều so với 2011, đặc
biệt là chính sách cho vay lãi suất thấp hơn các đối tượng khác đối với 4 đối tượng sản

xuất kinh doanh được ưu tiên, là quyết định đúng đắn, kịp thời;tác động tích cực đến
giảm chi phí vay vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 12


Đồ thị 1: CPI và các loại lãi suất (%/tháng)

So với cuối năm 2011, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng giảm được
6%/năm (14%/năm xuống 8%/năm), lãi suất cho vay 4 đối tương ưu đãi giảm được 4%5%/năm (16-17%/năm xuống 12%/năm). Hiện nay, lãi suất cho vay phổ biến đối với 4
lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công
nghiệp hỗ trợ ở mức 11-12%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở mức
14-17%/năm. Đặc biệt, lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh 8-9%/năm so với đầu năm
2012, thị trường tiền tệ đã có sự cải thiện tích cực hơn nhiều so với năm 2011.
Cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với lãi suất huy động vốn trên 12 tháng và lãi suất
cho vay trung dài hạn là bước đi phù hợp, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động kinh
doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường.
Cơ chế lãi suất huy động lãi suất thỏa thuận được thực hiện theo Thông tư
19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012: “Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên do
TCTD ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường”.
Lãi suất cho vay thỏa thuận được thực hiện từ 14/4/2010 theo Thông tư số
12/2010/TT-NHNN vàthông tư 14/2012/TT-NHNN từ ngày 4/5/2012. Đối với các khoản
cho vay ngoài 4 lĩnh vực ưu tiên TCTD cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
Một số vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện trong cơ chế điều hành lãi suất 2011-2012:
Duy trì quá lâu cơ chế điều hành trực tiếp lãi suất lãi suất huy động vốn và cho
vay của các TCTD, làm cho các mức lãi suất kinh doanh của TCTD không phù hợp với
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT


Trang 13


cung cầu vốn tín dụng trên thị trường và giảm tác dụng của các công cụ lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất OMO, công cụ dự trữ bắt buộc.
NHNN có nhiều giải pháp và công cụ gián tiếp để tác động điều chỉnh lãi suất kinh
doanh của các TCTD. Cụ thể, khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các TCTD đối
với nền kinh tế, NHNN sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh các mức lãi suất tái cấp
vốn, tái chiết khấu đối với TCTD. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường liên ngân hàng.
Cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của các TCTD đối với khách hàng.Nếu
NHNN trực tiếp quyết định cả mức lãi suất cho vay và huy động vốn của các TCTD thì
công cụ lãi suất điều hành của NHNN sẽ không phát huy hết tác dụng.
Trên thực tế, trong suốt thời kỳ 2011-2012, NHNN quyết định trực tiếp các mức lãi
lãi suất huy động cho vay của TCTD đối với khách hang đối với từng kỳ hạn và đối tượng
khách hàng (trừ lãi suất huy động trên 12 tháng theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày
8/6/2012 và lãi suất cho vay thỏa thuận theo Thông tư số 12/2010/TT-NHNN và Thông
tư 14/2012/TT-NHNN ngày 4/5/2012); Cơ chế điều hành trực tiếp quyết các mức lãi suất
kinh doanh của các TCTD đã làm vô hiệu hóa các mức lãi suất điều hành chủ chốt của
NHNN (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu)
Lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành là lãi suất
thực hiện vai trò định hướng thị trường tiền tệ, nhưnghiện nay chỉ mang tính hình thức,
chưa trở thành lãi suất cơ sở, chuẩn mực để định hướng cho các loại lãi suất khác trên
thị trường.Vì thế làm tăng rủi ro pháp lý trong hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng và
các quan hệ dân sự khi có phát sinh tố tụng.
Luật dân sự 2005 quy định các TCTD không được phép huy động và cho vay với
lãi suất cao hơn 150% mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Luật NHNN số
46/2010/QH12 “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các
loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”.
Vai trò đinh hướng và tác động của các loại lãi suất điều hành của NHNN (lãi
suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, OMO) đến lãi suất thị trường rất hạn chế. Một trong

những nguyên nhân chủ yều là phương pháp xác định các loại lãi suất trên còn bất cập,
không dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản là lãi suất chuẩn; cơ chế điều hành cụ thể các loại
lãi suất chưa được ban hành rõ ràng.
Thực tế trong thời gian qua, NHNN chưa ban hành được cơ chế điều hành và
phương pháp xác định cụ thể từng loại lãi suất trên. Khi quyết định các loại lãi suất chủ
yếu dựa vào diễn biến số liệu báo cáo thực hiện chỉ số CPI, các chỉ số kinh tế vĩ mô tháng
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 14


trước và quan điểm chỉ đạo điều hành mục tiêu CSTTcủa Chính phủ, thiếu các thông tin,
phân tích dự báo thị trường về cung cầu, số lượng giao dịch, lãi suất. Do đó các lãi suất
được điều hành không sát với cung cầu tiền tệ và lãi suất thực trên thị trường, hạn chế tác
dụng điều tiết của các công cụ lãi suất.
Sự điều chỉnh các mức lãi suất chưa theo sát kịp với diễn biến hàng tháng của chỉ
số CPI cả về biên độ và xu hướng, làm giảm hiệu quả và tác dụng của công cụ lãi suất.
Phân tích diễn biến CPI và các mức lãi suất thời kỳ 2011-2012 có thể thấy: đường
biến thiên của các loại lãi suất và chỉ số CPI chỉ có 4 tháng là cùng xu hướng (2/20126/2012) còn lại là lệch pha với biên độ chênh lệch quá lớn, nên hiệu quả tác động đến dự
trữR của các TCTD và M2 không đáng kể.
- Phân tích biến động lãi suất tái cấp vốn với CPI (2011-2012):
Đồ thị 2: CPI và lãi suất tái cấp vốn

Giai đoạn 2011-2012, NHNN có 6 lần điều chỉnh lãi suất (%/năm) theo xu hướng
tăng liên tục (1/2011-2/2012): 9%, 11%, 12%, 13%, 14%, 15%; có 4 lần điều chỉnh giảm
liên tục (3/2012-10/2012): 14%, 13%, 12%, 11%, 10% nhằm thực hiện mục tiêu…
Nhưng do các biên độ mỗi lần điều chỉnh quá hẹp, xu hướng điều chỉnh rất hiếm
khi phù hợp với xu hướng biến động của CPI nên tác động lên cung tiền và lãi suất thị
trường tiền tệ rất kém hiệu lực.
Duy trì quá lâu cơ chế cố định “trần” lãi suất huy động và “thả nổi” lãi suất cho

vay thỏa thuận, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các TCTD đẩy lãi suất cho vay lên tối đa,
làm tăng rủi ro tài sản có và nợ xấu của cả hệ thống NHTM và các TCTD khác.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 15


Từ tháng 1/2011-4/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định theo xu
hướng giảm dần (14%/năm, 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm) và lãi suất cho vay thỏa
thuận ở tất cả các đối tượng và kỳ hạn vay vốn của khách hàng.
Tháng 5/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động (11%/năm) và “trần” lãi
suất cho vay ngắn hạn theo biên độ (lãi suất cho vay = lãi suất huy động + 3%/năm) với 4
đối tượng cho vay ưu tiên, còn các đối tượng cho vay khác và cho vay trung dài hạn đều
lãi suất thỏa thuận.
Từ tháng 6/2012- nay, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định (9%/năm)
và “trần” lãi suất cho vay cố định(13%/năm) với 4 đối tượng sản xuất kinh doanh ưu tiên
còn các đối tượng khác đều cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, lợi nhuận của hầu hết các doanh nghiệp rất khí
có thể cao hơn lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD. Với cơ chế lãi suất cho vay
thỏa thuận các khách hàng tốt không dám vay vốn, còn các khách hàng chấp nhận được
lãi suất cao là những khách hàng đang thực sự khó khăn về tài chính, hoặc có nhu cầu tài
trợ cho những dự án có rủi ro rất cao.Vì vậy cơ chế lãi suất thỏa thuận chỉ mang lại lợi ích
trước mắt cho TCTD, nhưng lại tăng thêm các rủi ro do lựa chọn khách hàng, rủi ro tín
dụng, tăng nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu, tạo ra một danh mục tài sản có rủi ro cao.
Cố định mức lãi suất trần huy động vốn trong thời gian quá dài (trong suốt 12
tháng từ 3/2011-2/2012) trong khi CPI đã giảm mạnh và liên tục từ tháng 6/201112/2011, làm tăng áp lực thanh khoản của hệ thống, tăng thêm các rủi ro kỳ hạn, rủi ro
thanh khoản, rủi ro đạo đức trong hệ thống Tài chính - Ngân hàng.
Nhìn vào đồ thị biểu thị quan hệ giữa CPI và lãi suất huy động vốn của các TCTD
dễ thấy rằng: đường lãi suất gần như đi ngang trong khi đường CPI biến động lên xuống

hình sin với biên độ rất lớn và chu kỳ dài.
Hậu quả của cơ chế điều hành này gây thiệt hại cho người gửi tiền (7 tháng liên tục
lãi suất tiền gửi ở mức thực âm); các NHTM phá rào trần lãi suất huy động vốn bằng mọi
cách (hoa hồng, chi tiền mặt ngoài sổ sách) thanh khoản căng thẳng, thị trường tiền tệ, thị
trường liên Ngân hang đua nhau cạnh tranh lãi suất “ngầm”.
Trong suốt 12 tháng liên tục từ tháng 3/2011-2/2012, mức lãi suất “trần” huy động
vốn của các TCTD vẫn cố định 1, 17%/tháng (14%/năm). Trong khi CPI biến động liên
tục hàng tháng với biên độ lớn và xu thế giảm rõ rệt lần lượt là: 2.25%; 3.53%; 2.43%;
1.22%; 1.32%; 1.07%; 0.95%; 0.42%; 0.45%; 0.63%; 1.00%; 1.37%. Kết quả là rủi ro kỳ
hạn, rủi ro thanh khoản của các TCTD tăng lên do tiền gửi huy động được của các NHTM
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 16


chủ yếu là không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn 1-2 tháng, tiền gửi từ 3 -12 tháng chiểm tỷ
lệ rất ít; tiền gửi trung dài hạn trên 12 tháng không thể huy động được.
2.2.2. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là công cụ can thiệp trực tiếp, mang tính hành chínhcủa NHNN,
được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng khối lượng tiền
cung ứng cho nền kinh tế. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
Năm 2011, NHNN đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng chung cho toàn hệ thống
các TCTD, không phân bổ hạn mức theo từng TCTD. Năm 2012 là lần đầu tiên NHNN
quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho từng NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài
sản nợ, tài sản có, quy mô vốn, năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng
nhân lực và tuân thủ các quy định. Theo đó, các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp
dụng các hạn mức như sau: Nhóm thứ 1tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ
2 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được tăng trưởng 8%; nhóm 4 thuộc
diện phải cơ cấu lại, không được tăng trưởng tín dụng.

Đến tháng 6/2012, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng tăng 1, 51% so
với cuối năm 2011 (kế hoach năm 2012 là 12%), trong đó 69 TCTD có mức tăng trưởng
âm. Có 23 TCTD đề nghị mức tăng trưởng tín dụng vượt chỉ tiêu, có 29 TCTD xây dựng
kế hoạch tăng trưởng bằng mức chỉ tiêu thông báo, có 10 TCTD xây dựng kế hoạch tăng
trưởng tín dụng thấp hơn.
Tính đến thời điểm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép tăng chỉ tiêu đối với
10 TCTD có tính hình tài chính lành mạnh, đã có tăng trưởng tín dụng đạt trên 50% chỉ
tiêu thông báo của Ngân hàng Nhà nước từ đầu năm.
Công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng mà NHNN đưa ra trong 2012 đã phát huy
tác động tích cực thúc đẩy các TCTD đổi mới và tái cơ cấu hoạt động theo quan điểm và
mục tiêu của chính sách tiền tệ của Chính phủ trên các mặt sau:
- Thúc đẩy các NHTM phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả và các chỉ số an
toàn hoạt động để được xếp hạng tín nhiệm và hạn mức tăng trưởng cao.
- Điều chỉnh, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động
vốn, góp phần cải thiện tính thanh khoản của từng ngân hang và cả hệ thống hệ thống,
giảm áp lực lạm phát.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 17


- Tác động mạnh mẽ và có hiệu quả đến mục tiêu tái cơ cấu, sát nhập các NHTM
yếu kém, tăng vốn chủ sở hữu, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ kiểm soát hạn mức tín dụng của NHNN trong
thời gian qua đã cho thấy một số vấn đề cần nghiên cứu bổ sung nhằm phát huy hiệu quả
cao hơn:
Thời điểm áp dụng công cụ hạn mức tín dụng chưa phù hợp với giai đoạn suy
kiệt tín dụng và giảm tổng cầu của nền kinh tế, nên công cụ hạn mức tín dụng không phát
huy được tác dụng với nhiều TCTD.

Công cụ hạn mức tín dụng được áp dụng cho từng TCTD trong năm 2012, cảthời
điểm và điều kiện không phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô, làm vô hiệu hóa tác
dụng của hạn mức tín dụng.
Trong cả năm 2011, dư nợ tín dụng tăng trưởng 14%/, bằng 70% mục tiêu đề
ra( 20%) và giảm -56% so với mức tăng trưởng của 2010( 31.19%).
Từ tháng 3/2011-7/2012, CPI giảm liên tục xuống mức âm theo các tháng (0.16;
0.05; 0.18; -0.26; -0.29), CPI cả năm 2012 tăng rất thấp, ước 7, 0%.
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế 2012 ước tăng +5.5%, đạt hơn 30% so với mục
tiêu (+15% -17%/năm) và chỉ bằng 39% mức tăng trưởng tín dụng 2011.
Trong năm 2012 tổng cầu của nền kinh tế đang trong suy giảm, nền kinh tế không
hấp thu được tín dụng, tổng phương tiện thanh toán đang giảm thấp, công cụ hạn mức tín
dụng trở nên vô tác dụng.
2.2.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua, bán
giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng. Các loại giấy tờ có giá được phép giao dịch thông
qua nghiệp vụ thị trường mở hiện nay là: Tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu
Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu địa phương do UBND thành phố Hà nội, UBNN thành phố
Hồ Chí Minh phát hành.
Thời gian qua, nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày càng mở
rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh doanh cho các
TCTD, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến tổng lượng tiền cung
ứng (M2) trong nền kinh tế, theo mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 18


Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn
vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động

gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi suất huy động và cho vay của
TCTD, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp.
Đánh giá một cách khách quan, trong năm 2012, NHNN điều hành nghiệp vụ thị
trường mở OMO chủ động, linh hoạt và hiệu quả hơn thời gian trước đó.
Tuy nhiên, công cụ nghiệp vụ thị trường mở còn một số vấn đề cần nghiên cứu
hoàn thiện như:
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở chậm được điều chỉnh, sửa đổi theo sự đổi mới
của môi trường pháp lý, tạo ra những rủi ro về pháp lý và kinh tế cho các TCTD.
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành theo 01/2007/QĐ- NHNN và Quyết
định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung QĐ 01/2007/QĐ-NHNN chưa được điều chỉnh
cho phù hợp với sự thay đổi của các quy định pháp luật khác có liên quan như: Nghị định
01/2011/NĐ-CP ngày 5/1/2011 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh, trái phiếu của chính quyền địa phương; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chứng
khoán(Luật 62/2010/QH 12); Luật NHNN Việt Nam (luật 46/2010/QH12) và Luật Các
TCTD (Luật 47/2010/QH12),
Nhiều vấn đề cần phải bổ sung sửa đổi để đồng bộ với các văn bản pháp luật mới
(đặc biệt là các quy định mới về phát hành giấy tờ có giá, tiêu chuẩn giấy tờ có giá, định
giá giấy tờ có giá) nếu không sớm điều chỉnh sẽ phát sinh các rủi ro về pháp lý, rủi ro về
kinh tế cho các TCTD và làm giảm hiệu quả của công cụ Thị trường mở.
Cơ chế mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở hiện hành chủ yếu là đấu thầu
khối lượng, các mức lãi suất giao dịch thực tế phản ánh chưa chính xác quan hệ cung cầu
vốn, không khuyến khích cạnh tranh thực sự giữa các tổ chức tín dụng với mục tiêu hạ lãi
suất thị trường.
Phương thức mua bán trong thời gian qua chủ yếu là đấu thầu khối lượng: là việc
xét thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá
Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc bán và lãi suất do Ngân hàng Nhà nước thông báo.
Trong giai đoạn lạm phát rất thấp (từ tháng 3/2012-8/2012), lãi suất cho vay đối
với nền kinh tế còn quá cao so với CPI, các thành viên đủ điều kiện tham gia thị trường
mở là các NHTM lớn, thanh khoản đảm bảo, dư vốn khả dụng không cho vay được,


Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 19


phương thức xét thầu khối lượng chưa phù hợp, không tạo ra được sự cạnh tranh về lãi
suất của các TCTD, để hạ lãi suất thị trường.
2.2.4. Công cụ dự trữ bắt buộc
Theo quy định của Luật NHNN 2010, dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín
dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân
hàng Nhà nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và
từng loại tiền gửi tại tổ chức tín dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Cơ chế điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộctheo Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng
từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010
(đối với ngoại tệ), thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010. Theo đó, chính sách dự
trữ bắt buộc được căn cứ vào tính chất kỳ hạn tiền gửi (ngắn, trung, dài hạn), loại tiền gửi
(VND và ngoại tệ) và ưu tiên đối tượng cho vay nông nghiệp, nông thôn.
Đối với TCTD có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn trên
tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40% đến dưới 70% và
trên 70%: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam bằng 1/5 và 1/20 so
với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi.
Từ năm 2009-2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi VND cố
định 3% và không thay đổi.
NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời gian dài
từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu phát 6 tháng
2012.Công cụ tỷ lệ DTBB không phát huy tác dụng điều chỉnh nguồn vốn thanh toán và
cho vay của TCTD.Vì vậyhạn chế vai trò, tác dụng của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong việc
điều chỉnh lãi suất cho vay, lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của hệ thống TCTD.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ có tác động rất mạnh đến khối lương tiền cung
ứng trong lưu thông theo cấp số nhân, là công cụ kiểm soát lạm phát có hiệu quả nhất,

nhưng NHNN không tăng hoặc giảm tỷ lệ trong suốt thời gian dài, trong bối cảnh lạm
phát cao (2011) và xu hướng thiểu phát (6 tháng đấu năm 2012), nên không phát huy
được vai trò và tác dụng của công cụ này để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ.
Để phát huy được vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc phải điều chỉnh tỷ lệ dự trữ
bắt buộc để tác động đến cả khối lượng và lãi suất cho vay tín dụng của các NHTM, từ đó
tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM theo
mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 20


Trong giai đoạn lãi suất cho vay còn ở mức cao như thời gian vừa qua, nếu tăng tỷ
lệ DTBB sẽ tăng chi phí đầu vào của nguồn vốn cho vay làm tăng lãi suất cho vay của các
TCTD, nhưng NHNN có thể tăng lãi suất tiền gửi DTBB lên một mức hợp lý để bù đắp
chi phí huy động vốn cho các TCTD, giảm áp lực tăng lãi suất cho vay.
Chính sách dự trữ bắt buộc áp dụng một mức chung cho tất cả các NHTM, không
căn cứ vào quy mô vốn và tài sản, chất lượng hoạt động và mức độ an toàn của từng
ngân hàng, chưa phù hợp với quy mô và trình độ phát triển không đồng đều của các
NHTM VN, làm cho công cụ dự trữ bắt buộc hoàn toàn trở thành vô tác dụng.
Đặc điểm quan trọng của hệ thống NHTM của VN là trình độ phát triển không
đồng đều về lịch sử phát triển, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tài sản, chất lượng hoạt
động và mức độ an toàn. Trong đó nhóm 4 NHTM cổ phần Nhà nước và Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) có kinh nghiệm hoạt động kinh doanh 24 năm
và chiếm khoảng gần 50% thị phần trên mọi lĩnh vực hoạt động, nhóm G12 (12 ngân
hàng TMCP lớn nhất) chiếm thị phần khoảng 80-85%, nhóm 13 NHTMCP tư nhân, quy
mô vốn rất nhỏ bé, mức độ an toàn hoạt động rất thấp, mới chuyển đổi từ Hợp tác xã tín
dụng và Ngân hàng Nông thôn lên từ những năm 2002-2006.
2.2.5. Công cụ chính sách chiết khấu
 Tái cấp vốn

Theo quy định hiện hành, NHNN sử dụng công cụ tái cấp vốn để cấp tín dụng cho
các TCTD theo các hình thức: cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ có giá, chiết khấu giấy tờ
có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, nhằm mục đích: cung ứng vốn ngắn hạn và phương
tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng.
Thông qua hình thức tái cấp vốn: cho vay đảm bảo giấy tờ có giá, chiết khấu giấy
tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, công cụ tái cấp vốn của NHNN đã phát huy được
vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản cho các NHTM thời gian
qua.
Trong thời gian qua, công cụ tái cấp vốn chưa đủ tiềm lực vốn và điều kiện để
phát huy hiệu quả, vai trò cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các
TCTD, chưa tác động được nhiều đến cung cầu vốn và các loại lãi suất trên thị trường.
Nguyên nhân chủ yếu do nguồn vốn cho vay hạn hẹp, NHNN chỉ được cho vay tái
cấp vốn trong một giới hạn nhất định, nằm trong hạn mức tăng tổng phương tiện thanh
toán M2 đã được Chính phủ duyệt hàng năm; nhiều TCTD cần vay nhưng không điều
Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 21


kiện được vay tái cấp vốn; một số TCTD đủ điều kiện vay vốn nhưng không có nhu cầu
vay. Do đó, doanh số cho vay và dư nợ tái cấp vốn đối với các TCTD không lớn; mức độ
tác động tới lãi suất và cung cầu vốn trên thị trường hạn chế.
Trong điều kiện lạm phát đang bùng phát cao từ 1/2011- 2/2012, việc lựa chọn sử
dụng công cụ tái cấp vốn tuy giải quyết được khó khăn thanh khoản cho một số TCTD,
nhưng làm tăng thêm tiền cung ứng trong lưu thông, gây áp lực thêm cho mục tiêu kiểm
soát lạm phát.
Công cụ tái cấp vốn chỉ phát huy hiệu quả cao trong điều kiện lạm phát bình
thường và mục đích cho vay nhằm giải quyết khó khăn chi trả có tính chất tạm thời. Đối
với các trường hợp mất thanh khoản có nguyên nhân từ rủi ro cơ cấu kỳ hạn nguồn vốn và
sử dụng, chất lượng tài sản sản thấp, nợ xấu cao như các TCTD nông thôn mới chuyển

đổi thành NHTM không phải là sự mất thanh khoản có tính tạm thời và phải giải quyết
bằng biện pháp tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu tài sản nợ, tài sản có mới đúng bản chất.
Trong điều kiện lạm phát cao và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, nếu sử dụng
công cụ tái cấp vốn để bơm vốn một cách thường xuyên nhằm giải quyết khó khăn thanh
khoản triền miên cho các NHTM sẽ, không phải là sự lựa chọn hợp lý .
Mức lãi suất tái cấp vốn giai đoạn 1/2011-3/2012 thấp hơn nhiều so với lãi suất
cho vay thỏa thuận của các TCTD và lãi suất thị trường, tạo cơ hội cho một số TCTD có
điều kiện vay được nguồn vốn giá rẻ từ nguồn tái cấp vốn có hiệu quả hơn huy động vốn
từ dân cư và làm gia tăng rủi ro đầu tư tiền gửi trên thị trường tiền tệ.
Giai đoạn từ tháng 1/2011-3/2012, lãi suất tái cấp vốn giao động từ 7-15%/năm, có
những thời điểm lãi suất cho vay thỏa thuận các ngân hàng vay nhau trên thị trường liên
ngân hàng 25-30%/năm, NHTM cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thỏa thuận 2225% năm. Chênh lệch 2 loại lãi suất quá lớn sẽ tạo ra cơ hội phát triển các hoạt động kinh
doanh chênh lệch lãi suất trên thị trường tiền tệ dưới nhiều hình thức đầu tư tiền gửi khác
nhau, làm bất ổn thêm thị trường tiền tệ.
 Chiết khấu và tái chiết khấu
Trong giai đoạn 2011-2012, NHNN có 5 lần điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu
(%/năm) theo xu hướng giảm liên tục chỉ trong vòng 7 tháng (5/2011-24/12/2012): 12%,
11%, 10%, 9%, 8%; 7%, chỉ có 2 lần điều chỉnh tăng (08/03/2011-01/05/2011): 12%,
13% nhằm thực hiện mục tiêu.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 22


Giai đoạn vừa qua, nợ xấu của các NHTM Việt Nam đang đứng trên mức cao trào,
để giải quyết vấn đề nợ xấu, Việt Nam đã thành lập hoặc sát nhập ngân hàng để mua lại
nợ xấu hoặc giảm bớt nợ xấu. Vì vậy, NHNN đã giảm lãi suất tái chiết khấu để cung vốn
cho NHTM. Trong tương lai gần, cho rằng lãi suất tái chiết khấu sẽ không thay đổi và
NHNN sẽ đảo chiều nới lỏng vào giữa năm 2013. Điều này không làm thay đổi “sự ổn

định kinh tế vĩ mô” mặc dù một số rủi ro có thể tăng thêm.
Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu tuy là lãi suất cho vay cuối cùng của NHNN đối
với NHTM, xuất phát từ nhu cầu vế vốn của các NHTM, nhưng chỉ làm được khi NHTM
có các hối phiếu, chứng từ có giá, để đem chiết khấu hoặc chiết khấu lại. Lãi suất này
cũng không tác động trực tiếp đến việc NHNN quyết định đưa vốn vào hoặc rút vốn ra
khỏi lưu thông thông qua kênh tín dụng để NHNN có chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới
lỏng trong từng giai đoạn, thời kỳ của chính sách tiền tệ. Do đó, đây cũng không phải là
lãi suất chủ đạo để NHNN điều hành lãi suất.
Công cụ chiết khấu và tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW vì yếu tố chủ
động vay và không vay nằm ở NHTM tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa
thương phiếu, kỳ phiếu đến để xin “tái cấp vốn”. Trong khi đó nghiệp vụ TTM là công cụ
chủ động của NHTW để điều khiển cung tiền tệ bằng cách tác động vào giá và lãi suất
của giấy tờ có giá. Khi mua giấy tờ có giá, người mua cần mua loại có giá thấp, lãi suất
cao; ngược lại người bán muốn bán với gía cao tức lãi suất thấp. Giá của giấy tờ có giá
hay lãi suất trên TTM là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị
trường. Đó là việc NHTW cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu trên TTM.
Nếu NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, ở đó
lãi suất là cố định do NHTW chỉ đạo. Khi mục tiêu nghiêng về giác độ bơm rút tiền theo
một khối lượng mong muốn thì NHTW thực hiện đấu thầu lãi suất, ở đó lãi suất được thả
nổi theo cung cầu của thị trường, còn lãi suất trúng thầu sẽ đạt được xác đinh tại điểm đạt
được khối lượng tiền cần bơm hoặc rút bớt ra khỏi lưu thông.
2.3. Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được
Những chủ trương định hướng và quan điểm chỉ đạo điều hành về CSTT thể hiện
trong các Nghị quyết 11/2011/NQ-CP, NQ 01/2012/NQ-CP và NQ 13/2012/NQ-CP là sự
điều chỉnh đúng hướng, phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, sự diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT


Trang 23


Vai trò của tự chủ của NHNN trong hoạch định, điều hành, thực thi CSTT được
nâng cao và phát huy nhiều hơn trong việc quyết định lựa chọn sử dụng công cụ điều
hành CSTT để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ đã được Chính phủ đề ra.
Giữ được hệ thống TCTD không bị đổ vỡ, kiềm chế lạm phát từ mức rất cao
18.13% năm 2011 xuống ở mức khoảng 7% cuối 2012; Tỷ giá ổn định; dự trữ ngoại hối
được tăng lên, cán cân thanh toán được cải thiện; thị trường vàng được kiểm soát chặt
chẽ. Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngày càng có sự kết hợp đồng bộ hơn, hiệu
quả hơn đối với những thời kỳ trước đây.
Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế được điều chỉnh theo hướng hợp lý và
tích cực hơn: giảm tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các lĩnh vực đầu cơ bất động sản,
chứng khoán và tăng tỷ trọng tín dụng cho 4 lĩnh vực ưu tiên: sản xuất nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu, sản xuất phụ trợ và doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hoạt động trên thị trường liên ngân hàng và nghiệp vụ thị trường mở có những
bước phát triển mới, tạo ra những chuyển biến tích cực hơn trên thị trường tiền tệ. NHNN
đã chủ động hơn trong việc thu thập các thông tin về lãi suất và khối lượng giao dịch trên
thị trường tiền tệ để sử dụng các công cụ phù hợp điều tiết cung cầu vốn trên thị trường.
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại
Luật NHNN 2010 đã quy định mục tiêu duy nhất của CSTT là ổn định giá trị đồng
tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, nhưng trong các văn bản chỉ đạo, điều hành CSTT
thể hiện phải đồng thời thực hiện nhiều mục tiêu có mức ưu tiên như nhau như: mức cung
tiền M2, tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn hệ thống các
TCTD. Do đó các giải pháp và công cụ điều hành CSTT nhiều khi phải ưu tiên giải quyết
các mục tiêu trước mắt nhằm hỗ trợ tăng trưởng để ổn định kinh tế vĩ mô, nên kết quả
chưa đảm bảo được tính bền vững và mục tiêu trung dài hạn
Mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đạt được kết quả khi chỉ số lạm phát xuống mức
thấp dưới 1 con số nhưng kết quả chỉ mang tính thời điểm, chưa ổn định và bền vững.
Khả năng kiểm soát lạm phát theo mục tiêu còn nhiều thách thức và khó khăn dài hạn.

Những yếu tố và nguyên nhân cơ bản từ nội tại nền kinh tế làm cho lạm phát bùng
phát trở lại vẫn chưa được giải quyết; nhiều biến số tác động đến khối lượng tiền trong
lưu thông vượt ra khỏi tầm kiểm soát của NHNN; nguồn lực tài chính của Nhà nước chưa
đủ mạnh để can thiệp điều chỉnh có hiệu quả quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ.

Nhóm 04 – Lớp CH18B-QLKT

Trang 24


×