Phần mở đầu
Kinh tế chính trị Mác-Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống Xã
hội. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay yêu cầu học tập, nghiên
cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin càng được đặt ra một cách bức thiết, nhằm
khắc phục lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận với cuộc
sống, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới. Nước ta đang xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà nền kinh tế thị
trường thì luôn gắn liền với các phạm trù và các quy luật kinh tế của nó.
Trong đó có phạm trù giá trị thặng dư hay nói cách khác “sự tồn tại giá trị
thặng dư là một tất yếu khách quan ở Việt Nam khi mà ở Việt Nam ta đang
áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.Tuy nhiên hiện nay
chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định
hướng XHCN nhưng trong chừng mực nào đó vẫn tồn tại thành kiến đối
với các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản, coi các thành phần kinh tế này
là bóc lột, những nhận thức này không thể xảy ra với một số cán bộ, đảng
viên làm công tác quản lý mà còn xảy ra ngay trong những người trực tiếp
làm kinh tế tư nhân ở nước ta. Mà theo lý luận của Mác thì vấn đề bóc lột
lại liên quan đến “giá trị thặng dư”. Vì thế việc nghiên cứu về chất và
lượng của giá trị thặng dư sẽ giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn về con
đường đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam mà đảng và nhà nước ta đã
chọn. Với kiến thức còn hạn hẹp bài viết này chỉ nêu ra những nội dung cơ
bản của “giá trị thặng dư” , cùng một vài ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi
nghiên cứu vấn đề này và một số ý kiến để việc vận dụng “giá trị thặng dư”
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Bài viết này được chia thành 3 chương:
Chương I: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. ý nghĩa thực tiễn
của vấn đề nghiên cứu đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa
Chương II: Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng giá trị thặng dư ở
nước ta hiện nay
Chương III: Một số gải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
1
Tiểu luận
Thực trạng nghiên cứu và vận
dụng giá trị thặng dư trong
nền kinh tế định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay
Bài viết đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo hướng
dẫn, đồng thời được sự giúp đỡ của thư viện trường về nhiều tài liệu tham
khảo bổ ích.
Phần nội dung
Chương 1: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. ý nghĩa
thực tiễn của vấn đề nghiên cứu này đối với nước ta khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Cần phải nghiên cứu về giá trị thặng dư bởi sự tồn tại của giá trị thặng
dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu
khách quan, có nghiên cứu về giá trị thặng dư ta mới thấy rõ những đặc
tính phổ biến của sản xuất và phân phối giá trị thặng dư trong nền kinh tế
thị trường, từ đó tìm ra các giải pháp để vận dụng học thuyết giá trị thặng
dư nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, theo
mục tiêu đã được Đảng và Nhà nước ta vạch ra, làm dân giàu nước mạnh,
xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu về phạm trù giá trị thặng dư, Mác đã sử dụng nhuần
nhuyễn phương pháp duy vật biện chứng để nghiên cứu. Người đã gạt bỏ đi
những cái không bản chất của vấn đề để rút ra bản chất của nó, đi từ cái
chung đến cái riêng, từ trừu tượng đến cụ thể và đặc biệt là việc sử dụng
phương pháp trừu tượng hoá khoa học.
A. Mặt chất của giá trị thặng dư.
Mối quan hệ kinh tế giữa người sở hữu tiền và người sở hữu sức lao
động là điều kiện tiên quyết để sản xuất ra giá trị thặng dư vì vậy việc phân
tích của Mác về quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư về bản chất và nguồn
gốc là một vấn đề cần lưu ý.
I. Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản.
1. Công thức chung của tư bản
Tiền là sản phẩm cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá. Đồng
thời tiền cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Song bản thân tiền
không phải là tư bản mà tiền chỉ trở thành tư bản khi chúng được sử dụng
để bóc lột lao động của người khác. Tiền được coi là tiền thông thường thì
vận động theo công thức H-T-H. còn tiền được coi là tư bản thì vận động
theo công thức T-H-T. Ta thấy hai công thức này có những điểm giống và
khác nhau:
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
2
Giống nhau: Cả hai sự vận động đều bao gồm hai nhân tố là tiền và
hàng và đều có hai hành vi là mua và bán, có người mua, người bán.
Khác nhau: Trình tự hai giai đoạn đối lập nhau (mua và bán) trong hai
công thức lưu thông là đảo ngược nhau. Với công thức H-T-H thì bắt đầu
bằng việc bán (H-T) và kết thúc bằng việc mua (T-H), bán trước mua sau
nhưng tiền chỉ đóng vai trò trung gian và kết thúc quá trình đều là hàng
hoá. Ngược lại, với công thức T-H-T thì bắt đầu bằng việc mua (T-H) và
kết thúc bằng việc bán (H-T). ở đây tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm
kết thúc còn hàng hoá đóng vai trò trung gian, tiền ở đây chỉ để chi ra để
mua rồi lại thu lại sau khi bán. Vởy tiền trong công thức này chỉ được ứng
trước mà thôi.
Từ đó ta thấy giá trị sử dụng là mục đích cuối cùng của vòng chu
chuyển H-T-H giá trị sử dụng tức là nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất
định. Như vậy qua trình này là hữu hạn, nó sẽ kết thúc khi nhu cầu được
thoả mãn. Động cơ và mục đích của vòng chu chuyển T-H-T là bản thân
giá trị trao đổi trong lưu thông điểm đầu và điểm cuối đều là tiền chúng
không khác nhau về chất. Do vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì
quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Mà như ta đã biết, một món tiền chỉ
có thể khác với một món tiền khác về mặt số lượng. Kết quả là qua lưu
thông số tiền ứng trước không những được bảo tồn mà còn tự tăng thêm giá
trị. Nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’. Trong đó
T’=T+∆t số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra là ∆t, Các Mác gọi là giá trị
thặng dư số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá
trị mang lại giá trị thặng dư nên sự vận động của tư bản là không có giới
hạn vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Từ phân tích trên Mác đã phân biệt rõ ràng tiền thông thường và tiền tư
bản. Tiền thông thường chỉ đóng vai trò trung gian trong lưu thông. Còn
tiền tư bản là giá trị vận động, nó ra khỏi lĩnh vực lưu thông rồi lại trở lại
lưu thông, tự duy trì và sinh sôi nảy nở trong lưu thông quay trở về dưới
dạng đã lớn lên và không ngừng bắt đầu lại cùng một vòng chu chuyển
ấy.T-H-T’mới nhìn thì nó là công thức vận động của riêng tư bản thương
nghiệp nhưng ngay cả tư bản công nghiệp và cả tư bản cho vay thì cũng
vậy.Tư bản chủ nghĩa cũng là tiền được chuyển hoá thành hàng hoá thông
qua sản xuất rồi lại chuyển hoá thành một số tiền lớn hơn bằng việc bán
hàng hoá đó. Tư bản cho vay thì lưu thông T-H-T’được biểu hiện dưới
dạng thu ngắn lại là T-T’ một số tiền thành một số tiền lớn hơn. Như vậy
T-H-T’thực sự là công thức chung của tư bản.
Nhưng bên cạnh đó công thức: T-H-T’mâu thuẫn với tất cả các quy luật
về bản chất của hàng hóa, giá trị, tiền và bản thân lưu thông.
2. Những mâu thuẫn của công thức chung:
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
3
-Trong lưu thông có thể có hai trường hợp xảy ra: một là trao đổi tuân
theo quy luật giá trị (trao đổi ngang giá); hai là trao đổi không tuân theo
quy luật giá trị (trao đổi không ngang giá).
- Trường hợp trao đôi ngang giá : Nếu hàng hoá được trao đổi ngang
giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ T-H và H-T còn tổng giá
trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi, trước sau
không đổi. Tuy nhiên về giá trị sử dụng thì cả hai bên đều có lợi.ở đây
không có sự hình thành giá trị thặng dư.
Trường hợp trao đổi không ngang giá: Nếu hàng hóa bán cao hơn giá
trị của chúng khi đó người bán được lợi một khoản là một phần chênh lệch
giữa giá bán và giá trị thực của hàng hóa,còn người mua bị thiệt một khoản
đúng bằng giá trị mà người bán được lợi. Còn nếu người bán hàng hoá dưới
giá trị của chúng (bán rẻ) thì người mua được lợi một khoản là phần chênh
lệch giữa giá trị thực và giá bán của hàng hoá còn người bán bị thiệt một
giá trị đúng bằng giá trị mà người mua được lợi.
Vậy trong cả hai trường hợp trên cho thấy,nếu người này được lợi thì
người kia thiệt nhưng tổng hàng hoá vẫn không tăng lên nên cả hai trường
hợp này không hình thành nên giá trị thặng dư.
Tiền đưa vào lưu thông, qua lưu thông thì thu được giá trị thặng dư mà
lưu thông không tạo ra giá trị nên không tạo ra giá trị thặng dư, tiền rút
khỏi lưu thông làm chức năng lưu thông thì làm chức năng cất trữ thì
không thu được giá trị thăng dư.Như vậy cùng với lưu thông và lại không
cùng với lưu thông đây chính là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
.
Để giải quyết vấn đề này ta phải đứng trên các quy luật của lưu thông
hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Vấn đề cơ bản là nhà tư bản đã gặp trên thị
trường một loại hàng hoá đặc biệt mà khi tiêu dùng nó sẽ đem lại giá trị
thặng dư đó là sức lao động.
3.Hàng hoá - sức lao động
a. Sức lao động và điều kiện tạo ra hàng hoá
Sức lao động bao gồm toàn bộ sức thần kinh, sức cơ bắp, thể lực, trí lực
tồn tại trong bản thân con người sống, nó chỉ được bộc lộ qua lao động và
là yếu tố chủ thể không thể thiếu được của mọi quá trình sant xuất Xã hội .
Sức lao động không phải bao giờ cũng là hàng hoá nó chỉ biến thành
hàng hoá khi có đầy đủ hai điều kiện:
Thứ nhất:người lao động phải được tự do về thân thể, tự do về năng lực
lao động của mìnhvà chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
4
định . Bởi vì sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là
hàng hoá khi nó được đưa ta thị trường tức là bản thân người có sức lao
động đó đem bán nó. Muốn vậy người lao động phải đựoc tự do về thân thể
có quyến sở hữu sức lao động của mình thì mới đem bán sức lao động
được. Người sở hữu sức lao động chỉ nên bán sức lao động trong một thời
gian nhất định thôi nếu bán hẳn sức lao động đó trong một lần thì người đó
sẽ trở thành nô lệ.
Thứ hai: Người lao động phải bị tước hết tư liệu sản xuất,muốn sống họ
phải bán sức lao động của mình. Vì nếu người lao động được tự do về thân
thể mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hoá và bán hàng
hoá do mình sant xuất ra chứ không bán sức lao động.
Khi sức lao động trở thành hàng hoá,nó cũng xó hai thuộc tính là giá
trị và giá trị sử dụng nhưng nó là hàng hoá đặc biệt vì vậy, giá trị và giá trị
sử dụng của nó có những nét đặc thù so với những hàng hoá khác.
b. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động:
Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá
trị.
*Giá trị của hàng hoá sức lao động:
Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Mà sức lao động lại gắn
liền với cơ thể sống. Do đó việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động
cũng bao hàm việc duy trì cuộc sống của con người đó.Muốn duy trì cuộc
sống của bản thân mình, con người cần có một số tư liệu sinh hoạt nhất
định. Mặt khác số lượng của những nhu cầu cần thiết ấy, cũng như phương
thức thoả mãn những nhu cầu đó ở mỗi một người, nhóm người lao động
lại khác nhau,do các yếu tố lịch sử, tinh thần, nên giá trị của sức lao động
còn mang tính tinh thần, thể chất lịch sử. Nhưng những người sở hữu sức
lao động có thể chết đi do vậy muốn cho người ấy không ngừng xuất hiện
trên thị trường hàng hoá sức lao động thì người bán sức lao động ấy phải
trở nên vĩnh cửu bằng cách sinh xon đẻ cái. Vì vậy tổng số những tư liệu
sinh hoạt cho những người thay thế đó tức là con cái của những người lao
động. Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vất chất và tinh thần cần thiết để tái
sản xuất sức lao động,duy trì đời sống công nhân.Muốn cho mgười lao
động có kiến thức và sức lao động vận dụng khoa học trong một ngành lao
động nhất định thì cần phải tốn nhiều hay ít chi phí đào tạo.
*Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
Nó cũng giống như các hàng hoá thông thường khác ở chỗ là nó cũng
phải thoả mãn nhu cầu nào đó của người mua. Còn khác ở chỗ các hàng
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
5
hoá thông thường qua tiêu dùng thì giảm dần còn sức lao động qua tiêu
dùng tức là qua lao động thì nó tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản
thân nó do người công nhân theo thời gian đã tích luỹ được kinh nghiệm
sản xuất. Và phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Đến
đây ta đã hiểu được mâu thuẫn công thức chung của tư bản là cùng lưu
thông và không cùng với lưu thông từ đó ta thấy khi sức lao động trở thành
hàng hóa,tiền tệ thành tư bản.
II. Sản xuất ra giá trị thặng dư.
Khi người có sức lao động đem bán sức lao động thì người mua sẽ tiêu
dùng sức lao động của họ bằng cách bắt người bán đó phải lao động. Mà
giá trị sử dụng của sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng
sức lao động tức là quá trình lao động và trong quá trình ấy sức lao động
tạo ra giá trị thặng dư. Do đó để nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư sẽ bắt đầu nghiên cứu quá trình lao động.
1. Quá trình lao động :
Lao động là hoạt động có mục đích có ý thức của con người nhằm thay
đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người
Như vậy quá trình lao động là sự kết hợp của 3 yếu tố: Đối tượng lao
động, tư liệu lao động và sức lao động.
- Sức lao động: Như đã nói ở trên thì nó là yếu tố cơ bản của quá
trình lao động vì sức lao động gắn với con người mà con người luôn
sáng tạo ra tư liệu lao động, đối tượng lao động đồng thời sử dụng
chúng để phục vụ lợi ích của mình.
Lao động và sức lao động khác nhau ở chỗ sức lao động mới chỉ là khả
năng của lao động còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện
thực. Mà sức lao động + đối tượng lao động và tư liệu lao động tạo ra
của cải vật chất. Trong quá trình lao động, sức lao động kết hợp với
dụng cụ lao động tác động với đối tượng lao động và chuyển toàn bộ
giá trị của những tư liệu sản xuất vào sản phẩm được tạo ra.
- Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con
người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích
con người.
Đối tượng lao động có hai loại: Loại có sẵn như gỗ, rừng, quặng trong
lòng đất,tôm,cá dưới sông biển lao động của con người tác động vàậ phục
vụ ngay cho nhu cầu của con người.Và một loại phải qua chế biến được gọi
là nguyên vật liệu.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
6
- Tư liệu lao động: là những vật hoặc hệ thống những vật mà con người
dùng để tác động vào đối tượng lao động cho phù hợp với nhu cầu con
người.Trong tư liệu lao động trước hết phải kể đến công cụ lao động,đây là
yếu tố trực tiếp cải biến đối tượng lao động. Sự phát triển của công cụ lao
động nói lên thời đại khác.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động có sự phân biệt tương đối. Đối
tượng lao động và tư liệu lao động trong quá trình lao động sản xuất hợp
thành tư liệu sản xuất, do đó, có thể nói rằng: quá trình lao động là sự kết
hợp của hai yếu tố: sức lao động và tư liệu sản xuất.
Đi từ cái chung là việc nghiên cứu quá trình lao động, Mác đã đi đến
phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư dưới CNTB.
2. Sản xuất ra giá trị thặng dư:
Mụcđích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng
mà là giá trị, hơn nữa cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị
thặng dư.Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư trước hết nhà tư bản phải sản
xuất ra một giá trị sử dụng nàậ đó,vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị và
giá trị thặng dư.
Để hiểu rõ hơn quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc
sản xuất sợi của một nhà tư bản làm ví dụ:
Giả sử để có sợi bán nhà tư bản đã mua (giả định theo đúng giá trị)
20kg bông giá 20đôla; tiền hao mòn máy móc 3 đôla, tiền thuê công nhân
là 4đôla (Ngang bằng tư liệu sinh hoạt để họ sống trong một ngày)và giả sử
họ kéo hết số bông trên trong 4 giờ và mỗi giờ tạo ra một lượng giá trị mới
là 1 đôla. Việc mua bán trên là đúng giá trị và điều kiện sản xuất trung bình
của Xã hội.
Quá trình sản xuất được tiến hành trong 4 giờ lao động với tư cách là
lao động cụ thể công nhân kéo hết 20kg bông thành sợi. Giá trị của bông và
hao mòn máy mócđược lao động cụ thể của công nhân chuyển dịch và bảo
tồn vào giá trị của sợi, hình thành ra bộ phận giá trị cũ (C) là 23 đôla.Như
vậy để sản xuất ra 20kg sợi thì nhà tư bản phải ứng trước một số tiền là 23
đôla. Để sản xuất ra 20kg sợi thì cần phải có 20kg bông và sự hao mòn của
máy móc,khi 5kg sợi được sản xuất ra thì không có nghĩa là giá trị của 5kg
bông và phần máy móc bị hao mòn mất đi mà phần giá trị đó được chuyển
nguyên vẹn vào giá trị của 20kg sợi. Như vậy, giá trị của nhưng tư liệu sản
xuất 20kg bông và hao mòn máy móc được biểu hiện bằng 23 đôla, là
những bộ phận cấu thành giá trị của 20kg sợi.Chú ý là người ta chỉ chi phí
một thời gian lao động cần thiết trong những điều kiện sản xuất Xã hội nhất
định mà thôi, vì vậy dù nhà tư bản có sử dụng những tư liệu sản xuất nàậ có
giá trị lớn hơn 23đôla như trên đi nữa thì giá nhập vàậ của giá trị của 5kg
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
7
sợi cũng chỉ là 23 đôla, tức là số lao động Xã hội cần thiết của nền sản xuất
mà thôi.
Xét về phần giá trị mà lao động của người công nhân đã kết hợp vào
bông. Giả định muốn sản xuất một lượng trung bình những tư liệu sinh hoạt
cần thiết hàng ngày cho một người lao động thì mất 4 giờ lao động trung
bình và giả sử 4 giờ lao động trung bình đã được vật hoá trong 4 đôla.
Việc nhà tư bản trả 4 đôla cho một ngày lao động của người công nhân
là đúng giá trị của sức lao động.Trong quá trình lao động, lao động không
ngừng chuyển hoá từ hình thái hoạt động sang hình thái tồn tại, từ hình thái
vận động sang hình thái vật thể.Như vậy 4 giờ lao động Xã hội cần
thiết,vận động kéo sợi sẽ biểu hiện ra trong một lượng sợi nhất định là 20kg
sợi.Do đó thành phần giá trị do lao động của người công nhân kết hợp vào
giá trị của 20kg sợi là 4 giờ lao động xã hội cần thiết và chỉ là lượng vật
chất hoá của số giờ lao động xã hội đó mà thôi.Vậy cũng với 4 giờ lao động
trên với tư cách là lao động trừu tượng sức lao động của công nhân tạo ra
lượng giá trị mới (V+m) là 4 đôla, kết tinh vào giá trị của sợi.
Bây giờ ta thấy tổng giá trị của 20kg sợi gồm giá trị của 20kg bông là
20 đôla, với hao mòn máy móc là 3 đôla và 4 giờ lao động của người công
nhân kéo sợi biểu hiện là 4 đôla.Vậy giá trị của 20kg sợi là 27đôla. Họ ứng
ra 27đôla thu về 27 đôla như vậy họ không đạt được mục đích. Nhà tư bản
suy nghĩ công nhân lao động được trả tiền họ cũng lao động nhưng không
được gì. Họ suy nghĩ công nhân được trả 4 đôla ngang bằng với tư liệu sinh
hoạt sống trong một ngày do đó không thể chỉ lao động 4 giờ mà nhiều hơn
nữa là 8 giờ chẳng hạn, 4 giờ sau nhà tư bản chỉ phải mua 20kg bông trị giá
20 đôla, hao mòn máy móc là 3 đôla. Vậy tổng số tiền nhà tư bản ứng trước
để sản xuất 40kg sợi là 40 đôla cho 40kg bông, 6 đôla cho hao mòn máy
móc, 4đôla để thuê công nhân. Tổng là 50 đôla, mà giá trị của 40kg sợi là
54 đôla. Nếu nhà tư bản đem bán 40kg sợi (đúng giá trị) với giá 54 đôla thì
thu được lượng trội hơn là 4 đôla (54-50) là giá trị thặng dư của nhà tư bản.
Để làm sáng tỏ thêm CácMác đã lấy ngày lao động của công nhân để
chứng minh. Ông chia ngày lao động của công nhân làm hai phần là thời
gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Công nhân làm việc
trong phần thời gian lao động cần thiết tạo ra sản phẩm cần thiết với tiền
công của mình còn làm việc trong thời gian lao động thặng dư là tạo ra sản
phẩm thặng dư cho nhà tư bản. Nhà tư bản bán nó thu về giá trị thặng dư.
Từ đó cho ta biết được nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư: là
một bộ phận của giá trị mới, bộ phận giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao
động của công nhân. Do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị
nhà tư bản chiếm không là lao động không công của công nhân cho tư bản.
Là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, quá trình sản xuất ra giá trị đến
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
8
một thời hạn mà ở đó giá trị sức lao động của công nhân được hoàn lại
bằng một bộ phận của giá trị mới.
Tư bản ứng trước của nhà tư bản được chia làm hai bộ phận. Một là bộ
phận tư bản được chi ra để mua tư liệu sản xuất (tư bản bất biến) ký hiệu là
C. Hai là bộ phận tư bản được chi ra để mua sức lao động (tư bản khả biến)
ký hiệu là V, bộ phận tư bản này cũng chỉ là một số tiền như tư bản chi ra
để mua tư liệu sản xuất nhưng nhờ mua được sức lao động là loại hàng hoá
đặc biệt mà khi tiêu dùng nó tạo ra giá trị thặng dư nên trở thành lượng khả
biến. Việc phân chia này càng chỉ rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là sức
lao động chứ không phải là máy móc hay tư liệu sản xuất khác.
Có hai phương thức sản xuất ra giá trị thặng dư:
a. Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Đây là phương thức sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài tuyệt
đối ngày lao động trong khi phần thời gian lao động cần thiết của công
nhân không đổi. Phần thời gian giá trị thặng dư kéo dài bao nhiêu là được
hưởng bấy nhiêu.
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ trong đó gồm thời gian lao động cần thiết
là 4 giờ và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nay ngày lao động kéo dài
tuyệt đối thành 10 giờ mà thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời
gian lao động thặng dư tăng từ 4 giờ đến 6 giờ. Điều này dẫn đến việc đấu
tranh của công nhân và sự đấu tranh đó buộc nhà tư bản phải rút ngắn thời
gian lao động. Khi đó độ dài ngày lao động được xác định và nhà tư bản
phải tìm phương thức khác để sản xuất ra giá trị thặng dư đó là phương
thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
b. Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần
thiết của công nhân trong khi thời gian lao động của người công nhân
không đổi dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.
Ví dụ: Người lao động làm việc 8 giờ trong đó 4 giờ là thời gian lao
động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nay ngày lao động
vẫn giữ nguyên là 8 giờ nhưng thời gian lao động cần thiết của công nhân
rút ngắn xuỗng còn 2 giờ nên thời gian lao động thặng dư tăng lên từ 4 giờ
đến 6 giờ. Như vậy muốn rút ngắn thời gian lao động của công nhân phải
tăng năng suất lao động xã hội và năng suất lao động xã hội tăng ên làm
cho giá trị hàng hoá tiêu dùng giảm xuống kéo theo sức lao động giảm. Vì
vậy 2 giờ lao động cần thiết cũng đảm bảo khối lượng tư liệu sinh hoạt để
công nhân tái sản xuất sức lao động, đồng thời để tăng năng suất lao động
phải cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ. Những doanh nghiệp nào đi đầu
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
9
trong đổi mới công nghệ sẽ thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Giá trị
thặng dư siêu ngạch chính là giá trị thặng dư tương đối vì nó đều do tăng
năng suất lao động mà có. Nhưng khác ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do
tăng năng suất lao động xã hội do đó tất cả các nhà tư bản đều được hưởng.
Còn giá trị thặng dư siêu ngạch là do tăng năng suất lao động cá biệt nên
chỉ có những nhà tư bản nào có năng suất lao động cá biệt hơn năng suất
lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch. ở đây máy
móc công nghệ tiên tiến không tạo ra giá trị thặng dư mà nó tạo điều kiện
để tăng sức lao động của người lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá
thấp hơn giá trị của thị trường. Nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
B. Mặt lượng của giá trị thặng dư:
Mặt lượng của giá trị thặng dư biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, ở
khối lượng giá trị thặng dư, và ở trong các hình thức của giá trị thặng dư.
I. Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ so sánh giữa giá trị thặng dư và tư bản
khả biến (ký hiệu là m’).
Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng giá trị mới so sức lao động tạo
ra thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm được bao nhiêu
đồng thời nó còn chỉ rõ trong một ngày lao động, phần thời gian lao động
thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần
trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình. Nói lên sự bóc lột của
nhà tư bản với công nhân làm thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột. Để phản
ánh quy mô bóc lột CácMác sử dụng phạm trù khối lượng giá trị thặng dư.
II. Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và
tổng số tư bản khả biến được sử dụng. Ký hiệu là M.
Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư có thể được biểu hiện bằng công
thức:
M = m’.V
(Trong đó, V là tổng số tư bản khả biến được sử dụng.)
Nhìn vào công thức trên ta thấy,ở cùng một trình độ bóc lột (m’) nhất
định, nếu nhà tư bản sử dụng càng nhiều tư bản khả biến thì khối lượng giá
trị thặng dư thu được sẽ càng lớn. Như vậycó thể thấy giá trị thặng dư phản
ánh quy mô của sự bóc lột, hay đó là sự bóc lột theo chiều rộng.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
10
III. Sự thay đổi trong đại lượng của giá trị thặng dư:
Khi ta bán hàng hoá thì giá cả phải luôn luôn cao hơn giá trị của nó.
Trong giá cả của hàng hoá gồm giá trị của nó và phần giá trị thặng dư, mà
phần giá trị thặng dư được quyết định bởi ba nhân tố là độ dài ngày lao
động, cường độ bình thường của lao động và sức sản xuất của lao động.
1. Đại lượng của ngày lao động và cường độ lao động không đổi (cho
sẵn), sức sản xuất của lao động thay đổi:
Đại lượng của ngày lao động không đổi, có nghĩa là giá trị của ngày lao
động đó không đổi, hay giá trị mới được tạo ra trong ngày lao động là
không đổi. Giá trị mới tạo ra này bao gồm giá trị sức lao động và giá trị
thặng dư. Mà giá trị của sức lao động không giảm xuống, thì giá trị thặng
dư không tăng lên, nên để có sự thay đổi đó cần phải thay đổi sức sản xuất.
Giả định: thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, nếu sức sản xuất của lao
động tăng lên, thì chỉ cần một thời gian ít hơn 4 giờ để sản xuất ra khối
lượng tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết mà trước đây phải cần 4 giờ để
sản xuất. Do đó, giá trị của sức lao động sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu sức
sản xuất của lao động giảm xuống, thì giá trị của sức lao động tăng lên.
Như vậy, việc tăng năng suất lao động sẽ làm giảm giá trị của sức lao động,
và đồng thời làm tăng giá trị thặng dư mà việc tăng hay giảm của giá trị
thặng dư luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà sản xuất nó là kết quả
chứ không phải là nguyên nhân của việc tăng hay giảm tương ứng của giá
trị sức lao động.
2. Ngày lao động không đổi, sức sản xuất của lao động không đổi,
cường độ lao động thay đổi:
Khi cường độ lao động cao thì sản phẩm làm ra trong ngày sẽ nhiều
hơn so với số lượng sản phẩm làm ra trong một ngày có cường độ lao động
thấp hơn mà số giờ lao động thì như nhau.
Trong trường hợp này cũng gần giống như trên là đều đem lại số lượng
sản phẩm lớn hơn trong cùng một thời gian lao động. Song cũng có điểm
khác là giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm trong trường hợp này không đổi vì
trước cũng như sau để làm ra một sản phẩm đều hao phí một lượng lao
động như nhau còn trong trường hợp tăng sức sản xuất của lao động giá trị
của mỗi đơn vị sản phẩm giảm đi vì nó tốn ít lao động hơn trước.
Việc tăng cường độ lao động, làm khối lượng sản phẩm sản xuất ra khi
đó tăng lên, giá trị lại không giảm, làm tổng giá trị tăng, trong khi đó giá trị
của sức lao động không đổi, do đó, làm giá trị thặng dư tăng lên. Việc đó
khác với việc tăng sức sản xuất của lao động, làm cho giá trị của sức lao
động giảm đi, mà tổng số giá trị không tăng lên (vì tuy khối lượng sản
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
11
phẩm tăng, nhưng giá trị của mỗi sản phẩm lại giảm đi tương ứng), do đó
giá trị thặng dư tăng lên.
3. Sức sản xuất của lao động và cường độ lao động không thay đổi,
ngày lao động thay đổi:
Ngày lao động có thể thay đổi theo hai chiều, nó có thể được rút ngắn
lại hay kéo dài ra.
Việc rút ngắn ngày lao động, trong điều kiện năng suất lao động và
cường độ lao động không thay đổi, không làm thay đổi giá trị của sức lao
động, hay không làm thay đổi số thời gian lao động cần thiết, vì thế nó làm
thời gian lao động thặng dư bị rút ngắn, hay làm giá trị thặng dư giảm. Đại
lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư giảm làm đại lượng tương đối của nó so
với đại lượng không đổi của giá trị sức lao động cũng giảm xuống. Nên chỉ
có bằng cách giảm giá cả của sức lao động xuống thì nhà tư bản mới không
bị tổn thất. Nếu không thì việc rút ngắn thời gian lao động bao giờ cũng
gắn liền với sự thay đổi của năng suất lao động và cường độ lao động.
Kéo dài thời gian lao động: Giả sử thời gian lao động cần thiết là 4 giờ,
hay giá trị của sức lao động là 4 đồng, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ
và giá trị thặng dư là 4 đồng. Toàn bộ ngày lao động là 8 giờ, và biểu hiện
trong sản phẩm là 8 đồng. Nếu ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ, và
giá cả sức lao động không thay đổi, thì đại lượng tương đối của giá trị
thặng dư tăng lên cùng với đại lượng tuyệt đối của nó. Mà vì giá trị của sức
lao động không đổi, giá trị thặng dư lại tăng lên, do đó, đại lượng tương đối
của giá trị sức lao động so với giá trị thặng dư sẽ giảm xuống. Như vậy, giá
trị thặng dư tăng lên là nguyên nhân làm đại lượng tương đối của giá trị sức
lao động giảm. Khi kéo dài ngày lao động cho đến một điểm nhất định, thì
sự hao mòn sức lao động tăng lên, người lao động cần nhiều tư liệu sinh
hoạt hơn để bù đắp hao mòn đó, do đó, giá cả của sức lao động phải tăng
lên, nhưng ngay cả khi giá cả của sức lao động có tăng lên thì giá trị của
sức lao động cũng giảm đi tương đối so với giá trị thặng dư.
4. Sự thay đổi cùng lúc của ngày lao động, sức sản xuất và cường độ
của lao động :
Có hai trường hợp quan trọng sau cần phải nghiên cứu:
Sức sản xuất của lao động giảm xuống, đồng thời ngày lao động bị kéo
dài.
Chúng ta nói đến sức sản xuất của lao động giảm xuống là nói đến
những ngành lao động mà sản phẩm quyết định giá trị của sức lao động,
như ngành nông nghiệp, sức sản xuất của lao động đã giảm xuống do độ
màu mỡ của đất kém đi, và giá cả sản phẩm đó đắt lên một cách tương ứng.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
12
Khi sức sản xuất của lao động giảm đi, thì như phân tích ở trên, giá trị
của sức lao động sẽ tăng lên, thời gian lao động cần thiết tăng lên, làm thời
gian lao động thặng dư giảm đi, giá trị thặng dư cũng vì thế mà giảm
xuống. Nếu như ngày lao động được kéo dài để giá trị thặng dư được sinh
ra khi đó đúng bằng lượng giá trị thặng dư trước đó, thì đại lượng của nó
vẫn giảm xuống tương đối so với giá trị sức lao động. Và nếu tiếp tục kéo
dài thời gian lao động thì có thể cả hai đại lượng tuyệt đối và tương đối của
giá trị thặng dư có thể tăng lên.
Cường độ và năng suất lao động tăng lên cùng với việc rút ngắn ngày
lao động
Khi cường độ và sức sản xuất của lao động tăng lên có nghĩa là thời
gian lao động cần thiết được rút ngắn lại, đồng thời, thời gian lao động
thặng dư được kéo dài ra, giá trị thặng dư được sinh ra tăng lên. Và do đó,
có thể rút ngắn ngày lao động đến khi thời gian lao động thặng dư không
còn nữa, nhưng cả khi sức sản xuất và cường độ của lao động có tăng đi
nữa, giới hạn thời gian lao động cần thiết vẫn sẽ được nới rộng, bởi vì, càng
ngày con người càng có nhu cầu sinh sống, hoạt động phong phú hơn, đồng
thời một phần lao động thặng dư ngày nay sẽ được tính vào lao động cần
thiết, cụ thể là phần lao động cần thiết cho việc thành lập quỹ dự trữ và quỹ
tích luỹ xã hội. Năng suất lao động càng phát triển, thì lại càng có thể rút
ngắn ngày lao động, và ngày lao động càng rút ngắn lại thì cường độ lao
động càng có thể tăng lên.
IV. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là một phạm trù nói lên bản chất của nền sản xuất
TBCN. Trong đời sống thực tế của xã hội tư bản, giá trị thặng dư chuyển
hoá và biểu hiện thành lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi
nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay, địa tô TBCN.
1. Lợi nhuận:
Muốn tạo ra giá trị hàng hoá tất yếu phải chi ra một số lao động nhất
định gọi là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện
tại. Lao động quá khứ (lao động vật hoá) tức là giá trị của tư liệu sản xuất
(C), lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới
(V+m). Chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi phí tạo ra giá
trị hàng hóa (W). W=C+V+m
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
13
Song đối với nhà tư bản họ không phải chi phí lao động để sản xuất
hàng hóa cho nên họ không quan tâm đến còn trên thực tế họ chỉ quan tâm
đến việc ứng tư bản để mua tư liệu sản xuất (C) và mua sức lao động (V).
Do đó nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ không tính đến
hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. CácMác gọi chi phí đó là chi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa (k) (k=C+V). Như vậy chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá. Như
vậy giá trị hàng hóa là W= C+V+m sẽ chuyển thành W= k+m. Nhìn vào
công thức trên thì ta thấy sự phân biệt giữa C và V đã biến mất, người ta
thấy dường như k sinh ra m. Chính ở đây chi phí lao động bị che lấp bởi chi
phí tư bản (k) lao động là thực thể, là nguồn gốc của giá trị thì bị biến mất
và giờ đây hình như toàn bộ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra giá trị
thặng dư.
Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có
một khoảng chênh lệch cho nên sau khi bán hàng (giá cả bằng giá trị) nhà
tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được một số
tiền lời ngang bằng với m, số tiền này được gọi là lợi nhuận (p) do đó cơ
cấu sản phẩm là W=k+p.
Giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận có sự khác nhau cơ bản về chất và
lượng. Giá trị thặng dư thì sinh ra từ V (tức là lao động của công nhân) còn
lợi nhuận thì được coi là đã được sinh rat từ C+V (tư bản ứng trước).
Nhưng chúng cũng có sự giống nhau ở chỗ đều có chung một nguồn gốc là
kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. Thực chất lợi nhuận
và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái
thần bí hoá của giá trị thặng dư. Như CácMác viết: “Giá trị thặng dư hay là
lợi nhuận chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hóa so với chi phí
sản xuất của nó nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng
trong hàng hoá so với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong
hàng hoá. Nếu như nhà tư bản bán hàng hoá với giá cả bằng giá trị thì khi
đó
m =p, nếu bán với giá cả cao hơn giá trị thì khi đó m <p, nếu bán với
giá cả nhỏ hơn giá trị thì khi đó m>p. Nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá
cả luôn bằng tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư. Chính sự không
nhất trí giữa m và p nên càng che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản.
Trong nền kinh tế tư bản mặc dù lợi nhuận là mục đích trực tiếp và tối
cao của các nhà tư bản nhưng khi bắt đầu đầu tư vào một ngành sản xuất
kinh doanh nào đó thì cái mà nhà tư bản quan tâm đến trước hết là tỷ suất
lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng
dư mà nhà tư bản đã bóc lột được của công nhân làm thuê so với tổng tư
bản ứng trước ký hiệu là p’ vì thế có công thức p’
(C+V)
= m x 100%. P’
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
14
không phản ánh trình độ bóc lột mà nó chỉ phản ánh nơi đầu tư vốn có lợi
nhất cho nhà tư bản về lượng. Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất
lợi nhuận là động lực thúc đẩy, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Sự thèm khát lợi nhuận của các nhà tư bản là không có giới hạn. Mức tỷ
suất lợi nhuận cao bao nhiêu cũng không thoả mãn được lòng tham vô đáy
của chúng. Nhưng tỷ suất lợi nhuận lại phụ thuộc vào những yếu tố khách
quan: Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận cáng lớn và
ngược lại, tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, cấu tạo hữu cơ tư bản càng
cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại. Nếu tốc độ chu chuyển
của tư bản càng lờn thì tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng tăng lên do
đó tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng. Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng
dư và tư bản khả biến không đổi nếu tư bản khả biến càng nhỏ thì tỷ suất
lợi nhuận càng lớn.
2.Lợi nhuận thương nghiệp:
Đối với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản thì lợi nhuận
thương nghiệp được coi là do mua rẻ bán đắt mà có. CácMác nói: lợi nhuận
thương nghiệp không những là kết quả việc ăn cắp và lừa đảo mà đại bộ
phận lợi nhuận thương nghiệp chính là do những việc ăn cắp lừa đảo mà ra
cả.
Đối với tư bản thương nghiệp,tư bản chủ nghĩa thì nhìn bề ngoài hình
như là lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ bán đắt mà có do lưu thông
tạo ra. Nhưng về bản chất thì lợi nhuận thương nghiệp một phần giá trị
thặng dư sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp
nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Vậy tại sao nhà tư bản công nghiệp
lại nhường một phần giá trị thặng dư của mình cho nhà tư bản thương
nghiệp.Sở dĩ như vậy là do nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm
nhiệm khâu bán hàng để nhà tư bản công nghiệp rảnh tay tập trung vào sản
xuất. Nhờ đó mà nhà tư bản công nghiệp rút ngắn được vòng tuần hoàn vốn
(tư bản), nhờ đó thu được nhiều lợi nhuận hơn. Hơn nữa khi tham gia vào
quá trình đó nhà tư bản thương nghiệp cũng phải ứng vốn ra để kinh doanh
do họ cũng muốn có lợi nhuận.
Nhường bằng cách nào? Nhà tư bản công nghiệp nhường bằng cách
bán hàng hoá cho nhà tư bản thương nghiệp với giá bán buôn hay giá trị
công nghiệp, giá bán này nhỏ hơn giá trị hàng hoá, bằng chi phí sản xuất
cộng lợi nhuận công nghiệp rồi nhà tư bản thương nghiệp đem hàng hoá
bán cho người tiêu dùng theo giá bán lẻ bằng giá trị hàng hoá hay chi phí
sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp và tư bản thương nghiệp.
3.Lợi tức:
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
15
Tư bản cho vay là tư bản sinh lợi tức. Đứng về phìa nhà tư bản cho vay
thì do họ nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác trong một
thời gian nhất định nên thu được lợi tức.Về bản chất của lợi tức là một
phần giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà các nhà tư bản
hoạt động trả cho nhà tư bản cho vay về món tiền mà nhà tư bản cho vay đã
bỏ ra cho nhà tư bản hoạt động sử dụng. Như vậy thức chất lợi tức chỉ là
một phần lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ sử dụng tư bản
đi vay, phải trả cho nhà tư bản cho vay. Trên thực tế lợi tức là một phần lợi
nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay, căn
cứ vào số tư bản mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử
dụng.
4. Địa tô tư bản chủ nghĩa:
Dưới chủ nghĩa tư bản có hình thức sở hữu độc quyền về đất đai, nó
cho phép địa chủ có quyền chiếm hữu một phần giá trị thặng dư do những
hoạt động diễn ra trên mảnh đất ấy sinh ra, không kể đất đai đó được dùng
trong nông nghiệp, cho xây dựng, cho đường sắt hay cho bất kỳ một mục
đích sản xuất nào khác. Địa tô chỉ là một phần của giá trị thặng dư sau khi
đã trừ đi phần lợi nhuận của tư bản kinh doanh nông nghiệp.
Như thế, có thể nói lợi nhận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi
tức, địa tô chỉ là các phần khác nhau của giá trị thặng dư - được sinh ra từ
lao động của người công nhân làm thuê - phân giải thành.
C. ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu về giá trị thặng dư
đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN:
1. Nghiên cứu để có nhận thức đúng về giá trị thặng dư là nhằm
tránh những nghi ngờ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước ta
đang thực hiện:
Sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các học giả tư
sản đã thừa cơ đẩy mạnh công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin; nhiều
nhà khoa học ở các nước XHCN cũng hoài nghi, thậm chí phê phán, đòi xét
lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có học thuyết giá trị
thặng dư. Họ làm như vậy là bởi vì họ không hiểu được cốt lõi lý luận của
Mác, nhất là không nắm được phương pháp duy vật biện chứng của Mác
trong nghiên cứu và trình bày học thuyết giá trị thặng dư. Do đó, việc
nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ giúp tránh được những sai lầm như thế.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
16
Hơn nữa, như Ph. Ăng-ghen đã nói: “Nhờ hai phát hiện ấy (chủ nghĩa
duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng dư), chủ nghĩa xã hội đã trở thành
một khoa học, và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó
trong mọi chi tiết và mọi mối quan hệ tương hỗ của nó”, điều đó có nghĩa
là việc nghiên cứu về giá trị thặng dư không bao giờ là thừa. Đặc biệt, hiện
nay, chủ nghĩa tư bản đã và đang có sự thay đổi, có sự điều chỉnh để bảo vệ
cho chính mình, mà những chính sách điểu chỉnhh ấy đã làm cho sự bóc lột
trở nên ngày càng tinh vi hơn, bản chất bóc lột được che giấu. Nếu như
không nghiên cứu về lý luận giá trị thặng dư này và đặt nó trong tình hình
mới, nhằm bổ sung, hoàn chỉnh lý luận giá trị thặng dư, cho phù hợp với
tình hình mới, thì chúng ta rất dễ có những nghi ngờ.
2.Việc nghiên cứu về mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư
giúp chúng ta thấy được thực chất của giá trị thặng dư, từ đó không
đồng nhất giá trị thặng dư với sự bóc lột, tránh có những nhận thức sai
lầm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang được áp dụng ở
nước ta hiện nay:
Quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình phấn đấu
lâu dài và gian khổ. Từ khi chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp chuyển
sang kinh tế thị trừơng định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta đã đạt được
rất nhiều thành tựu về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá
Nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân. Do Đảng và nhà nước ta
đã áp dụng nhưng cuộc sống để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần
năng động sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất thúc đẩy
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Với những biện pháp như trên đã làm hoạt
động kinh tế nước ta ngày càng tăng trưởng thu được nhiều lợi nhuận, đang
từng bước tham gia và hội nhập, đuổi kịp các nước trong khu vực và trên
thế giới. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho ta những giải pháp
để tăng khối lượng giá trị thặng dư của nền kinh tế. Nó góp phần thay đổi
nhận thức sai lầm trước đây về giá trị thặng dư, coi nó là phạm trù riêng
của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó với sự bóc lột cần phải xoá bỏ. Việc
nghiên cứu sẽ nhận thức đúng rằng: giá trị thặng dư là phạm trù chung của
bất kì chế độ xã hội nào có thời gian lao động xã hội lớn hơn thời gian lao
động cần thiết. Và các quyết định sự bóc lột không phải là lượng giá trị
thặng dư được sinh ra nhiều hay ít mà là việc phân phối giá trị thặng dư đã
được tạo ra như thế nào. Từ đó chúng ta có được những quan niệm tốt phá
bỏ được nhiều định kiến không hay, để có thể mở rộng khả năng kinh
doanh và phát triển nền kinh tế, phát huy hết tiềm năng của mình.
3. Nghiên cứu giá trị thặng dư có ý nghĩa trong việc đề ra các chính
sách kinh tế phù hợp
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
17
Với lý luận giá trị thặng dư và thực tiễn của nó, không những giúp
chúng ta phá vỡ những định kiến về kinh tế tư nhân mà còn giúp đưa ra các
chính sách kinh tế phù hợp như áp dụng kỹ thuật và sản xuất sẽ giúp xây
dựng hoàn thiện các chính sách chiến lược phát triển khoa học công nghệ
thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Giúp chúng ta thấy được sự tác động của quy luật giá trị thặng dư sẽ
dẫn tới cạnh tranh gay gắt, hình thành độc quyền, do đó làm cho sự phân
hoá giàu nghèo càng trở nên rõ rệt. Song song với việc phát triển kinh tế,
có nhiều mặt tích cực vẫn còn tồn tại rất nhiều những tiêu cực theo sự phát
triển kinh tế. Vì vậy cần phải có những chính sách để khắc phục những hạn
chế (xoá đói giảm nghèo, điều tiết thu nhập dân cư )
Chương 2 : Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng phạm trù giá
trị thặng dư ở nước ta hiện nay
A. Quan điểm của Đảng về việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết
giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện
nay
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
còn mang nặng tính tự túc, tự cấp. Vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ
phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển dần thành nền kinh tế hàng hoá, thúc
đẩy sự xã hội hóa sản xuất. Chính trên cơ sở này Đảng và Nhà nước ta đã
xác định: “Mô hình kinh tể ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời sản xuất hàng hoá không đối lập với
chủ nghĩa xã hội mà là những thành tựu phát triển của nền văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và cả khi chủ nghĩa xã hội được xác định”. Điều này cho thấy Đảng ta thừa
nhận sự tồn tại của các phạm trù kinh tế trong đó có phạm trù giá trị thặng
dư.
Mà trong cương lĩnh thông qua tại đại hội VII Đảng ta đã khẳng định:
“Chủ nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng và kim chỉ
nam cho mọi hoạt động của Đảng”. Thế có nghĩa là việc vận dụng giá trị lý
luận về giá trị thặng dư của Mác vào sự hoạt động của nền kinh tế nước ta
đã được khẳng định. Ta vận dụng một quan điểm nào đó của Mác-LêNin,
tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ
không nên bê nguyên si vận dụng cứng nhắc vào tình hình thực tiễn. Từ đó
khi vận dụng lý luận giá trị thặng dư của Mác vào hoạt động của nền kinh
tế nước ta phải nghiên cứu để nắm vững lý luận này. Để hạn chế bớt mặt
tiêu cực của sự hoạt động quy luật giá trị thặng dư đó là sự phân hoá giàu
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
18
nghèo tình trạng cạnh tranh gay gắt thì theo đại hội IX nhấn mạnh: “Thực
hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội,
thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản
xuất khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”.
B. Thực trạng nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư ở
nước ta hiện nay
I.Tình hình nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư hiện nay ở nước ta
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng, nghiên cứu
vận dụng học thuyết kinh tế của Mác và cụ thể là học thuyết giá trị thặng
dư. Trong điều kiện hoàn cảnh mới hiện nay các nghiên cứu đã chứng minh
những luận điểm đúng đắn của Mác: “ Chỉ có lao động mới tạo ra giá trị và
giá trị thặng dư, máy móc tuy có vai trò không thể thiếu trong quá trình sản
xuất, là điều kiện để sản xuất giá trị thặng dư song nó không làm tăng giá
trị mà chỉ chuyển dần giá trị của nó vào trong sản phẩm mới; phân tích rõ
đặc điểm vai trò của lao động trí tuệ, lao động quản lý trong quá trình lao
động và quá trình tạo ra giá trị thặng dư; khẳng định sản xuất tạo ra giá trị
thặng dư hay lợi nhuận vẫn là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn là chế độ xã hội dựa trên
cơ sở bóc lột lao động làm thuê ”. Điều này cho thấy lý luận giá trị thặng
dư của Mác trong điệu kiện mới của thời đại được khẳng định.
II. Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư ở nước ta
Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, là việc phát triển nguồn nhân lực; khuyến
khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế; áp dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động; và việc phân phối giá trị
thặng dư.
1.Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, số người trong độ tuổi lao động
chiếm phần đa số ngoài ra còn phải kể đến hàng triệu người già vẫn còn
khả năng lao động và mong muốn được lao động. Thêm vào đó người lao
động Việt Nam lại cần cù, chăm chỉ, năng động có khả năng thích ứng thị
trường cao, nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật mới ứng dụng vàậ sản xuất kinh
doanh. Tuy đây là một thuận lợi lớn của nước ta song chất lượng lao động
và trình độ kỹ thuật, tay nghề của lao động Việt Nam còn thấp, cơ cấu
ngành không hợp lý, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động không có việc làm
cao. Muốn khắc phục nhược điểm này ta phải biết tăng chất lượng của
nguồn lao động như nâng cao trình độ học vấn của nhân nhất là phổ cập
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
19
tiểu học, trung học cơ sở, mở trường dạy nghề, học phải gắn với thực hành.
Trước tình hình đó Đảng đã có chủ trương: “ Xã hội hoá giáo dục nhằm đa
dạng hoá các loại hình giáo dục, đào tạo với phương châm nhà nước và
nhân dân cùng làm”. Với những chủ trương đó chất lượng nguồn lao động
đã có những sự biến đổi so với trước đây.
2. Khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế
khép kín mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Chúng ta
“mở cửa” nền kinh tế thực hiện đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ kinh tế
quốc tế nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi
thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ công nghệ, cơ cấu ngành và
sản phẩm mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh
liên kết hợp tác để tạo điều kiện khuyến khích sản xuất trong nước phát
triển bắt kịp vởi trình độ thế giới.
Từ năm 1991, nguồn vốn đầu tư trong nước liên tục tăng, tổng vốn đầu
tư trong nước năm 1991 mới là 11545 tỷ đồng, đến năm 1996 là 54912 tỷ
đồng, tăng gần 5 lần. Đến năm 1998, con số này là 72084 tỷ đồng, tăng gần
7 lần so với năm 1991 và tăng 31% so với năm 1996. Trong đó, vốn đầu tư
khu vực quốc doanh thường cao hơn khu vực ngoài quốc doanh. ở giai
đoạn 1999 – 2001, tổng vốn đầu tư vẫn tiếp tục tăng, riêng năm 2001, tăng
lên hơn 10.000 tỷ đồng so với năm 2000.
Đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoàit ta đã tranh thủ được nguồn
viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, Cho đến nay, tổng
mức cam kết tài trợ là13,04 tỷ USD, trong đó vốn đã được ký là gần 10 tỷ
USD và số vốn đã giải ngân tới cuối 1999 là gần 6 tỷ USD. Nhà nước đã
ban hành “luật đầu tư nước ngoài”. Cho đến hết 2000, đã có 66 nước và
vùng lãnh thổ với nhiều công ty, tập đoàn lớn đã đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam.
Trong cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành ta thấy, vốn đầu tư thuộc
kinh tế nhà nước phần lớn dành cho ngành dịch vụ từ 51,02% năm 1999 lên
51,45% năm 2001, vốn đầu tư cho công nghiệp giảm từ 36,13% năm 1999
xuống 35,81% năm 2001. Còn phân theo ngành của kinh tế ngoài quốc
doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng vốn đầu tư dành cho
công nghiệp và nông nghiệp không ngừng tăng lên, vốn đầu tư dành cho
ngành dịch vụ giảm từ 45,83% năm 1999 xuống 44,04% năm 2001. Như
vậy muốn tạo được chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc tế chúng ta
phải có những sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam. Vì thế phải
phát triển công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nhằm nâng cao sức mạnh cho
công nghiệp.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
20
3. áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc không tạo ra giá trị
thặng dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá
trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị
thặng dư tăng lên.
Ngày nay, việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu đối với nông nghiệp, đem lại giá trị kinh tế cao như sản
xuất thu hoạch bảo quản chế biến
Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công nghệ thông tin, điện tử,
viễn thông đã ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế giới và
đã thực hiện được đúng theo chủ trương “đi trước đón đầu” của Đảng ta.
Với các lĩnh vực khác trong ngành công nghiệp, việc sử dụng các máy móc
hiện đại vào sản xuất cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng giá trị sản xuất
công nghiệp lên 12,9% (năm 2000).
4.Vấn đề bóc lột trong sản xuất và phân phối giá trị thặng dư ở nước
ta:
Ngày nay sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn, để thành công
trong công việc kinh doanh, người chủ kinh doanh ngày nay không chỉ có
đóng góp tài sản, tiền vốn mà còn đóng góp sức lao động của mình vào quá
trình sản xuất. Sức lao động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị thặng dư.
Tài sản và tiền vốn có nguồn gốc từ lao động – là sản phẩm của lao động –
nên nó đóng vai trò hết sức quan trọng của quá trình sản xuất. Tài sản và
vốn là yếu tố thu hút sức lao động, và nhờ vậy sản xuất ra giá trị thặng dư
và phần thu nhập của người chủ kinh doanh là không liên quan đến bóc lột.
Và hiện nay, ở nước ta cũng đang thực hiện cách phân phối này, phân phối
theo lao động và phân phối theo vốn, tài sản. Phân phối theo lao động thì
dựa trên nguyên tắc lao động ngang nhau thì hưởng ngang nhau, làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Với xu thế cổ phần hoá trong sự hình thành
và phát triển hệ thống doanh nghiệp, có phần góp vốn của người lao động
và người lao động cũng được phân phối một phần lợi nhuận cho vốn – theo
vốn của họ. Đây là hình thức phân phối giá trị thặng dư Nhưng trong xã
hội cũng có những người không thể tham gia góp vốn và lao động được thì
cần phải có hình thức phân phối lại qua các quỹ phúc lội công cộng của xã
hội và của tập thể. Nội dung của hình thức phân phối này được biểu hiện ở
việc: mọi công dân đều phải có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước - Nhà
nước là đại diện cho lợi ích của toàn dân, toàn xã hội. Nhà nước trích một
phần ở trong ngân sách thu từ thuế lập quỹ phúc lợi xã hội. Những người
được hưởng họ sẽ không trực tiếp được hưởng ngay một lúc toàn bộ giá trị
mà họ đã sáng tạo ra mà họ sẽ được hưởng gián tiếp từ từ thông qua các
quỹ phúc lợi hay các hàng hoá công cộng.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
21
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
22
Chương 3: Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư
nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay
I. Các giải pháp về vấn đề vốn đầu tư:
1. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung đầu tư cho công nghiệp:
Cần phải chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư theo ngành theo
hướng tăng đầu tư cho ngành sản xuất vật chất và giảm đầu tư đối với
ngành dịch vụ. Vì chỉ có phát triển công nghiệp, chúng ta mới thực sự phát
huy được năng lực nội sinh. Tập trung đầu tư cho công nghiệp, với mục
tiêu lấy đó làm đà để phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân,
trong đó đặc biệt phải đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến, cần phải chú
ý đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến nông – lâm sản, vì đây là chìa
khoá, nhằm nâng cao giá trị, khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông lâm
sản trên thị trường thế giới.
Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư này cần được coi là nhiệm vụ của tất cả
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ
không phải chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước hay một vài doanh nghiệp nhà
nước.
Cần gắn việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư với việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện tự do di chuyển vốn giữa các ngành kinh tế, nhưng đồng thời
Nhà nước phải đóng vai điều tiết đầu tư bằng những chính sách kinh tế vĩ
mô (như thuế, và những ưu đãi, khuyến khích đối với những ngành cần đầu
tư) nhằm đảm bảo việc chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư cũng như cơ cấu
kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
2. Khuyến khích và thu hút đầu tư:
Cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Thực hiện sự bình đẳng
giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực vay vốn ở các ngân hàng.
Tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ tục
cho các doanh nghiệp, vì trong kinh doanh cơ hội tốt chỉ xuất hiện trong
thời gian ngắn.
Tăng cường khả năng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Băng
cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với các kỹ thuật sản xuất
tiên tiến, hiện đại thông qua các buổi thuyết trình, giới thiệu sản phẩm của
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
23
các công ty nước ngoài. Xây dựng một hệ thống thông tin về tình hình khoa
học kỹ thuật của thế giới cho các doanh nghiệp. Tăng cường hoạt động xúc
tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong nước.
Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần thông qua các hoạt động ngoại
giao, thuyết phục các nước công nhận rằng hiện nay Việt Nam đang thực
hiện kinh tế thị trường, thông qua các buổi thuyết trình hay triển lãm tại
nước ngoài để giới thiệu về môi trường đầu tư tại Việt Nam, các chính sách
ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài cho các doanh nhiệp, doanh nhân
nước ngoài, cũng như với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài.
3.Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá
hoạt động đầu tư. Khi nói đến hiệu quả đầu tư là không chỉ nói đến hiệu
quả kinh tế mà còn phải nói đến hiệu quả xã hội (tức là việc đầu tư đó, có
thể thu hút được bao nhiêu lao động; ảnh hưởng đến môi trường ở mức độ
nào…). Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phụ thuộc vào mục
đích của hoạt động đầu tư là hiệu quả kinh tế hay hiệu quả xã hội. Vì vậy,
khi đầu tư phải xác định rõ mục đích đầu tư và không được thay đổi mục
đích đó trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư.
Thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh của các thành phần kinh tế,
tận dụng tính năng động của các thành phần kinh tế tư nhân, phát triển sản
xuất. Chủ đầu tư phải được độc lập trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và
phương án đầu tư, tránh tình trạng đầu tư theo phong trào.
Đối với các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là chú ý đến
việc thực hiện giá trị thặng dư, theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, giá trị
được sinh ra trong lĩnh vực sản xuất, chứ không phải trong lưu thông,
nhưng quá trình lưu thông lại là quá trình thực hiện giá trị, mà nếu giá trị
không được thực hiện thì cũng không có giá trị thặng dư. Vì vậy, trong quá
trình sản xuất, doanh nghiệp phải chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá
đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời phải sử dụng các phương thức có
hiệu quả để bán hàng, nhằm thực hiện giá trị thặng dư.
Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến,
nhằm nâng cao năng suất lao động, thu giá trị thặng dư siêu ngạch.
Đối với các địa phương khi tiến hành đầu tư cần phát huy lợi thế so
sánh của mình, nhằm tận dụng tối đa những thế mạnh của địa phương
mình.
II.Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao
động trong nước, có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Phát triển thị
trường lao động với tư cách là một yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
24
sản xuất, theo đó cung về lao động phải đáp ứng cầu về lao động cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, phù hợp với mục tiêu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay theo chủ trương của Đảng và Nhà
nước. Tăng cả về số lượng và chất lượng của lao động trong ngành công
nghiệp, giảm về số lượng lao động trong ngành nông nghiệp.
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp. Cải cách phương pháp đào tạo, gắn việc dạy lý
thuyết với thực hành, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa
học. Nhằm tăng lao động lành nghề, lao động có tri thức để tiếp nhận kỹ
thuật, công nghệ mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ
thuật.
Thường xuyên đào tạo mới và đào tạo lại lao động, để đáp ứng nhu cầu
trên thị trường sức lao động, đồng thời phải đảm bảo cơ hội bình đẳng về
việc làm cho người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với
nhà trường trong việc đào tạo.
Đối với các doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc việc tổ chức
khám chữa bệnh định kỳ cho công nhân, đặc biệt là với những ngành nghề
lao động trong môi trường độc hại.
Để phát triển thị trường sức lao động ở nước ta còn cần phải nhanh
chóng cải cách chế độ tiền lương, chế độ tiền lương mới cần phải có sự
phân biệt đáng kể về thu nhập trên cơ sở lấy hiệu quả lao động làm chính,
phân biệt giữa người làm ít với người làm nhiều, giữa lao động phức tạp
với lao động giản đơn. Sự phân biệt này góp phần thúc đẩy quá trình tự
nâng cao chất lượng lao động đối với mỗi người lao động, khuyến khích
người lao động bán sức lao động của họ ở những nơi có mức tiền lương
cao. Mặt khác vẫn phải duy trì những ưu đãi xã hội và thực hiện tốt vấn đề
bảo hiểm xã hội…
III. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững
định hướng XHCN:
Cần tiến hành phân cấp quản lý nhà nước, đặc biệt là việc phân cấp
quản lý nhà nước về kinh tế. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của
Nhà nước, tránh sự quản lý chồng chéo, gây ra sự phiền hà đối với việc
kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhất là, trong việc quản lý đăng ký kinh
doanh của các doanh nghiệp, hiện nay còn có nhiều cơ quan thuộc các cấp
khác nhau quản lý việc đăng ký kinh doanh, gây tình trạng lộn xộn, khiến
việc nắm về số lượng, việc kiểm tra giám sát việc kinh doanh của các
doanh nghiệp khó khăn. Cần phải quy định riêng một cơ quan làm công
việc này.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
25