Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Ảnh hưởng của đạo cao đài ban chỉnh đối với đời sống tinh thần ở bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.4 KB, 84 trang )

LUẬN VĂN:
Ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
đối với đời sống tinh thần ở Bến Tre


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một vấn đề phức tạp và hết sức nhạy cảm. Trước đổi mới, ở nước ta,
tôn giáo được nhìn nhận, đánh giá theo những chiều hướng khác nhau, nhưng phần lớn
đều khẳng định, tôn giáo là nhân tố tiêu cực trong đời sống xã hội. Trong quá trình đổi
mới, vấn đề tôn giáo được nhìn nhận một cách toàn diện hơn. Tôn giáo vừa có mặt tiêu
cực nhưng đồng thời cũng có những giá trị tích cực. Vì vậy, việc nghiên cứu hướng đến
những phát hiện hợp lý, khoa học là một vấn đề không bao giờ cũ.
Thực tế ở Việt Nam, trong hành trình lịch sử dân tộc, bên cạnh những hạn chế,
những đóng góp của tôn giáo đối với dân tộc là khó có thể phủ nhận. Một số tôn giáo đã
có vai trò to lớn trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Bên
cạnh đó, tôn giáo còn đóng góp những giá trị quý báu tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc độc
đáo của Việt Nam.
Ngày nay, trước những biến đổi hết sức nhanh chóng của tình hình trong nước và
quốc tế, các tôn giáo đang có những biến động khá phức tạp theo nhiều chiều hướng
khác nhau. Nhiều vấn đề đã và đang được đặt ra có tính thời sự cấp thiết xung quanh
việc đánh giá vai trò của tôn giáo, ảnh hưởng của tôn giáo đối với văn hoá hay đối với
đời sống tinh thần nói chung. Trước tình hình đó, nhận thức được vai trò của tôn giáo
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã đi đến khẳng định: tín
ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới (Nghị quyết số 24-NQ/TW của
Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra ngày 16-101990). Tiếp tục quan điểm này, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức
tốt đẹp của các tôn giáo. Nghị quyết Đại hội X xác định: đồng bào các tôn giáo là bộ
phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc.


Cao Đài là một tôn giáo rất trẻ, xuất hiện vào đầu thế kỷ XX (1926), tại Nam bộ.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, tôn giáo này đã lôi cuốn ồ ạt hàng vạn người, sau đó


trở thành một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Tính đến năm 1975, chưa đầy nửa
thế kỷ đã thu nạp gần 3 triệu tín đồ. Cao Đài trở thành một hiện tượng xã hội đặc biệt
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử ở Việt Nam. Là một
tôn giáo địa phương nhưng Cao Đài có bộ máy hành chính đạo khá chặt chẽ và hoàn
chỉnh như bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Lịch sử giáo hội tuy ngắn ngủi,
song có thời kỳ hết sức phức tạp, phân nhiều chi phái khác nhau. Mỗi một chi phái có
vai trò và ảnh hưởng khác nhau đối với lịch sử của vùng đất Nam bộ này. Vùng đất Bến
Tre như một cù lao của miền Tây Nam bộ, ở đây trong lịch sử đã từng nảy sinh nhiều
nhân vật văn hoá có ảnh hưởng lớn trong những năm đầu và suốt thế kỷ XX như Phan
Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thị Định... Trong số những người đó có ông
Nguyễn Ngọc Tương với chi phái Cao Đài Ban Chỉnh rất đặc thù. ảnh hưởng của đạo
Cao Đài Ban Chỉnh đối với nhân dân Bến Tre nói riêng và vùng đồng bằng sông Cửu
Long nói chung là khá sâu đậm. Thế nhưng việc nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Cao
Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần ở Bến Tre, cho đến nay vẫn còn là vấn
đề bỏ ngỏ. Đây là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức cấp bách. Nghiên
cứu sự ảnh hưởng của nó đối với đồng bào tín đồ góp phần phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay, do vậy, nó trở thành vấn
đề thời sự không chỉ đối với Bến Tre mà của cả khu vực. Chính điều này thúc đẩy
tác giả chọn vấn đề này làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, về tôn giáo nói chung và đạo Cao Đài nói riêng đã có nhiều công
trình nghiên cứu, tiêu biểu như sau:
- Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam của GS Trần Văn Giàu, 1993.
- Một số tôn giáo ở Việt Nam của TS. Nguyễn Thanh Xuân - Ban Tôn giáo Chính
phủ, 2005.
- Tôn giáo và hiện thực của Nguyễn Chí Mỳ, 1998.

- Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn (1920 - 1926) của Lê Anh Dũng.
- Lịch sử của đạo Cao Đài (1926 - 1937) của GS Trần Quang Vinh.
- Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài của GS Đặng Nghiêm Vạn, 1995.


Các công trình này đã nghiên cứu tôn giáo lớn ở Việt Nam, trong đó có đạo Cao
Đài nhưng với đạo Cao Đài phần nhiều chỉ mới dừng ở bước đầu tìm hiểu. Bên cạnh đó,
một số luận văn về đạo Cao Đài như:
- Bước đầu tìm hiểu một số biểu hiện đặc thù của đạo Cao Đài của Nguyễn Văn
Ron, luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 1995.
- Đạo Cao Đài và quá trình đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của giáo
phái Cao Đài Tây Ninh trong giai đoạn cách mạng hiện nay của Võ Văn Phuông - luận
văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 1995.
- ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh của Nguyễn
Thị Thu Nga, luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2000.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần ở
Bến Tre thì chưa có công trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở phân tích ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh
thần ở Bến Tre, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần định hướng hoạt động
của đạo thực hiện tốt phương châm truyền thống "phụng đạo - yêu nước", qua đó đóng
góp vào xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong một bộ phận nhân dân Bến Tre.
- Nhiệm vụ của luận văn:
- Để đạt mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Trình bày một vài nét về đạo Cao Đài nói chung và Cao Đài Ban Chỉnh nói
riêng.
+ Phân tích sự ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần
trong một bộ phận nhân dân Bến Tre.
+ Đề xuất những nhóm giải pháp cơ bản giúp cho việc khơi dậy mặt tích cực,

khắc phục mặt tiêu cực của đạo Cao Đài Ban Chỉnh nhằm góp phần xây dựng đời sống
tinh thần tiến bộ ở Bến Tre.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:


Luận văn chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu ành hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
đối với một số lĩnh vực đời sống tinh thần ở Bến Tre.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ Nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm về tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam; kế thừa có chọn lọc các công
trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, đồng thời, luận văn còn sử dựng
phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
5. Những góp mới của luận văn
Luận văn trình bày sự hình thành của đạo Cao Đài Ban Chỉnh, nêu bật lên được
những yếu tố tích cực, nhất là tinh thần yêu nước và ảnh hưởng của đạo đối với đời
sống tinh thần ở Bến Tre. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp có tính khả thi cho
việc khơi dậy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực của đạo Cao Đài Ban Chỉnh trên địa
bàn tỉnh Bến Tre.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của tôn giáo trong Chủ nghĩa
xã hội, những đóng góp quan trọng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh trong hai cuộc kháng chiến
cứu nước và trong quá trình xây dựng đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập triết học
nhất là chuyên đề về tôn giáo và cũng là tài liệu tham khảo góp phần vào việc hoạch
định chủ trương, chính sách đối với công tác tôn giáo, nhất là đạo Cao Đài Ban Chỉnh ở
Bến Tre.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.


Chương 1
MộT VàI NéT Về ĐạO CAO Đài BAN CHỉNH

1.1. Sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài cũng như các tôn giáo khác ra đời đều gắn liền với quá trình tồn tại
và phát triển của xã hội. Suy cho cùng, sự ra đời, phát triển và mất đi của một tôn giáo
là do sự phát triển của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội quy định. Vì vậy, khi
nghiên cứu bất kỳ một tôn giáo, tín ngưỡng nào chúng ta không thể tách rời lịch sử của
đất nước, của một vùng, miền đã là cái nôi của nền tín ngưỡng, tôn giáo ấy. Đạo Cao Đài
được khởi nguyên trong thập niên 20 của thế kỷ XX, tại miền Nam, lúc ấy còn được gọi là
Nam kỳ, Nam kỳ lục tỉnh với những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội sinh ra nó.
1.1.1.1. Khái quát về dân cư và văn hóa vùng đất Nam bộ
Lịch sử khai khẩn vùng đất Nam bộ của người Việt được hơn 300 năm, nhưng lịch
sử vùng đất này đã có từ lâu và trải qua nhiều bước thăng trầm theo sự biến thiên của tự
nhiên, xã hội và con người, Nam bộ hiện nay là đất Phù Nam xưa. Vương quốc Phù
Nam được hình thành từ đầu công nguyên tồn tại đến cuối thế kỷ thứ VI bị sụp đổ. Từ
sau khi vương quốc Phù Nam sụp đổ đến khi người Việt đến khai khẩn (đầu thế kỷ
XVII) cư dân Nam bộ rất thưa thớt. Công cuộc khai khẩn vùng đất Nam bộ được mở
đầu bằng những cuộc di dân ngấm ngầm, không tuyên bố của người Việt từ đầu thế kỷ
XVII. Chính lịch sử khai phá như vậy, nên nguồn gốc và thành phần cư dân Nam bộ rất
đa dạng, phức hợp, một tập hợp những mảng vỡ các cộng đồng truyền thống lâu đời
Việt, Khơme, Chăm, Hoa. Các cộng đồng truyền thống này vốn có quan hệ lịch sử văn
hóa với nhau, nhưng đã hình thành những cộng đồng xã hội mang bản sắc độc lập, là
những nét độc đáo so với miền Bắc và miền Trung. Họ là những người có nguồn gốc xã

hội khác nhau. Tuy vậy, họ đều có nguồn gốc văn hóa Việt truyền thống và giàu bản
sắc. Khi vào vùng đất mới, hành trang văn hóa của họ khá phong phú, họ mang theo
nhiều truyền thống phong tục tập quán ở miền Bắc, miền Trung. Nhưng dần dần trong
quá trình thích nghi với môi trường mới, họ đã trút bỏ không ít những ràng buộc của thể


chế cũ cũng như tâm lý, nếp sống cũ ở miền Bắc, miền Trung. đặc biệt ở vùng đất mới,
người dân Nam bộ phải đấu tranh gian khổ để chống chọi với thiên nhiên, thú dữ, bệnh
tật để sinh tồn. Trước những hiểm nguy và thách thức, tính mạo hiểm, đầu óc sáng tạo
được phát triển.
Tuy nhiên, thiên nhiên ở Nam bộ rất phong phú, khi được khai thác lại tỏ ra rất
hào hiệp, lại có khí hậu điều hòa nên đời sống vật chất của người dân không gặp khó
khăn. Họ vốn đoàn kết để vượt qua thử thách hiểm nguy, đến khi có cuộc sống vật chất
dễ chịu họ sống chan hòa cởi mở với nhau, tất cả những điều đó tạo ra tính cách rất đặc
trưng của dân Nam bộ: khảng khái, nghĩa khí nhưng rất phóng khoáng, hào hiệp; đối
với kẻ thù thì dũng cảm, kiên quyết; đối với anh em bạn bè thì chân thành cởi mở, trọng
nghĩa khinh tài. Trịnh Hoài Đức đã nhận xét về Gia Định cũng là nhận xét chung về
Nam bộ. Gia Định đất rộng, thực vật nhiều, không lo bị đói rét, cho nên dân ít phải dành
dụm sĩ khí hiên ngang, con người chuộng nghĩa tiết [19, tr 190].
ở Nam bộ với tính mở của địa hình, của thiết chế và cá tính của con người với đầu óc
thông thoáng, sẵn sàng ở tư thế giao lưu, tiếp thu, rồi hội nhập với cái mới. Chính vì tính cách
ấy, khi tiếp xúc với cái mới người Nam bộ dễ dàng có thái độ bao dung, chấp nhận, rồi tích
cực ủng hộ. Do vậy sự kết dính giữa các tộc người cùng với tính cách văn hóa và trình độ của
những người lưu tán đã là mảnh đất màu mỡ cho sự ra đời và nuôi dưỡng nhiều thứ tôn giáo,
trong đó có đạo Cao Đài.
1.1.1.2. Hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội
Với chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, chính quyền thực dân Pháp đã coi
Nam bộ là bộ phận đất đai của nước Pháp, họ đặt bộ máy cai trị trực tiếp, khác với
Trung và Bắc bộ Việt Nam.
Ngay sau khi chiếm được mảnh đất đầu tiên ở Nam bộ, thực dân Pháp đẩy mạnh

hơn bao giờ hết cuộc khai thác thuộc địa với một loạt chính sách vơ vét bóc lột về kinh
tế, áp bức thống trị về chính trị, nô dịch đồng hóa về văn hóa. Tình hình ấy đã đưa cuộc
đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân ở Nam bộ chống thực dân Pháp
vào giai đoạn quyết liệt. Tuy nhiên, do hạn chế của giai cấp mình, nông dân không thể
tự giải phóng được. Lúc đó lại chưa có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một chính đảng


của giai cấp vô sản. Do vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân lần lượt bị thực dân Pháp dìm
trong bể máu.
Sự bế tắc trong cuộc sống, sự thất bại trong cuộc đấu tranh đã làm cho một bộ
phận nhân dân Nam bộ mất niềm tin, nên càng thúc đẩy họ tìm đến với tôn giáo. Những
mong sự an ủi, chở che, do đạo Cao Đài khi mới ra đời ít nhiều mang tính phản kháng
xã hội đương thời, với tư tưởng muốn phục hồi lại chế độ quân chủ, thông qua tư tưởng
tam giáo, thích hợp với truyền thống yêu nước mặn mà của những người dân vùng đất
mới.
Một vấn đề tư tưởng quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài
là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo, đạo lý đương thời. Khi chưa có đạo Cao
Đài thì quần chúng nhân dân theo đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão và một số ít theo đạo
Công giáo. Nhưng những tôn giáo này đã dần dần mất uy tín, khủng hoảng thậm chí
chưa đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của một bộ phận quần chúng nhân dân.
Trước hết là Phật giáo, với Phật giáo tiểu thừa tại chỗ của người Khơme với những quan
niệm hạn hẹp về sự giải thoát và cách thức tu hành chỉ giải thoát cho chính người đi tu
với phương châm tự độ, tự tha tỏ ra không thích hợp với hoàn cảnh sống và phong tục
tập quán của cư dân Nam bộ, nhất là tinh thần liên kết của những người dân khai khẩn
miền đất mới. Phật giáo đại thừa bị suy vi từ mấy thế kỷ trước, nay bị chia rẻ theo nhiều
tông phái, nhất là sự xâm nhập các yếu tố mê tín dị đoan của đạo Lão thần tiên. Suy
thoái đến mức nhiều người ca thán, đến nỗi một số phật tử rời chùa, bỏ tu, nêu vấn đề
chấn hưng. Đạo Nho là một học thuyết chính trị đạo đức có yếu tố tôn giáo, luôn bảo vệ
quyền lợi và trật tự phong kiến, ngăn trở sự vận động của xã hội đương thời, một số
giáo lý đã bị phê phán nên khó đi vào quần chúng đông đảo. Mặc dù đạo Nho vẫn còn là

căn bản cho đạo đức gia đình trong những thập niên 1920, 1930. đạo Lão thì gắn liền
với các yếu tố mê tín dị đoan, phù thủy bùa chú đưa con người đến chỗ xuất thế mà
quên đi hiện tại. Đạo Công giáo, lúc bấy giờ xét về mặt chính trị, trước con mắt của
người dân Nam bộ gắn liền với cuộc xâm lược của Pháp, chính quyền Pháp và nó cũng
gắn liền với sự mất nước. Mặt khác, xét về mặt tư tưởng với chủ trương độc tôn, phủ
nhận sạch trơn các văn hóa tín ngưỡng truyền thống nên người dân Nam bộ không ưa,


nếu không nói là khinh ghét, cho nên khó đi vào người nông dân Nam bộ vốn sống cởi
mở và tự do. Đạo thờ tổ tiên trong đó có đạo ông bà, tuy gần gũi nhưng chưa đủ thỏa
mãn tâm linh tôn giáo Trong khi người dân Nam bộ do đặc điểm riêng về mặt lịch sử,
địa lý, dân cư nên có đời sống tâm linh phong phú, có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo rất
cao. Đặc biệt, đầu thế kỷ XX do bị bế tắc trong cuộc sống, họ lại càng tha thiết đến với
tôn giáo hơn. Các tôn giáo đương thời lại sa sút, mất uy tín đã tạo khoảng trống về mặt
văn hóa, tâm linh, tạo điều kiện cho đạo Cao Đài ra đời và phát triển. đúng như Nguyễn
An Ninh đã viết: “Dân đã mê muội trong các tôn giáo mà các tôn giáo, các đạo lý của
Nhà nước đều suy sụp. Làm sao không theo đạo Cao Đài được" [5, tr 204].
Sự suy thoái của các tôn giáo đương thời là điều kiện cần nhưng chưa đủ để có
thể lôi cuốn được nhiều tín đồ, vì còn thiếu một yếu tố huyền bí. Yếu tố đó là tục cầu
hồn, cầu tiên ở phương Đông, kết hợp với phong trào thần linh học ở phương Tây.
Phong trào thần linh học xuất hiện với quan niệm con người có 2 phần: Linh hồn và thể
xác, đây là một hình thức mê tín, giống như tục cầu hồn, cầu tiên đã thâm nhập vào
Nam bộ nó có vẻ như là một khoa học huyền bí; vì vậy nó có khả năng đem lại cho
đồng bóng và đạo giáo một sự biện hộ mới, một sức sống mới, khiến cho nhiều người
hâm mộ khi gặp gỡ với sinh hoạt cầu cơ của Ngũ chi Minh đạo, đã làm dấy lên phong
trào cầu cơ chấp bút gọi tắt là cơ bút được giới công chức, trí thức, tư sản, tiểu tư sản
đón nhận một cách nồng nhiệt dẫn đến việc ra đời của đạo Cao Đài.
Có thể nói, đạo Cao Đài ra đời ở Nam bộ những năm đầu thế kỷ XX là một hiện
tượng tôn giáo xã hội tất yếu vì ở đó đã hội đủ các yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và tư tưởng để dẫn đến sự ra đời của một tôn giáo mới: đạo Cao Đài.

1.1.1.3. Sự hình thành đạo Cao Đài
Người đặt nền móng đầu tiên xây dựng lý thuyết cho đạo Cao Đài là Ngô Văn
Chiêu, ông là người ham mê chuyện thần tiên và cầu cơ, xem đó là thú vui tâm linh cho
riêng mình và cùng bè bạn vào những cuộc cầu hồn kiểu phương Tây: xây bàn - xuất
phát từ thần linh học đã được phổ biến ở Việt Nam sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ
nhất. Nhưng không dừng lại ở sự đam mê mà ngày càng tiến những bước xa hơn, đó là
sự xuất hiện hay tiếp xúc được với Cao Đài Tiên ông, đưa ra những biểu tượng thờ


cúng, mơ tưởng đến cảnh bồng lai, xem đó là thế giới lý tưởng mà cuộc sống loài người
phải phấn đấu vươn tới. Lúc này, những yếu tố cơ bản của một tôn giáo tuy chưa hoàn
chỉnh nhưng đã phôi thai hình thành trong thực tế. Sự phát hiện này đã được nhóm Lê
Văn Trung, Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang tích cực hưởng ứng. Đến
đêm Noel năm 1925, trong buổi cầu cơ bình thường như bao buổi khác, những người
cầu đã tuyên bố Đấng thiêng liêng xuất hiện, nói rõ danh tánh là Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ tát ma-ha-tát và đã giao cho họ lập một tôn giáo mới ở phía Nam lấy tên là Cao Đài
Đại đạo Tam kỳ phổ độ, gọi tắt là Cao Đài [51, tr 297]. Như vậy, Ngô Văn Chiêu đã
hoàn thành sứ mạng tạo dựng ra đạo Cao Đài. Tuy nhiên, đàn cơ của ông không phổ
biến sâu rộng mà chỉ giới hạn trong một số người. Sau này nhờ có đàn cơ của Lê Văn
Trung, Phạm Công Tắc, đạo Cao Đài mới chính thức phát triển sâu rộng, thu hút nhiều
tín đồ là các công chức, trí thức, nghiệp chủ, điền chủ có cả một số chức sắc và tín đồ
của Ngũ Chi Minh đạo tham gia, làm cho số lượng tín đồ phát triển rất nhanh trong một
thời gian ngắn.
Nắm được tâm lý tín ngưỡng của quần chúng nông dân Nam bộ và cũng để công
khai hóa nhu cầu tâm linh của tín đồ Cao Đài, ngày 27-10-1926, ông Lê Văn Trung thay
mặt 28 người sáng lập đã làm đơn và gởi tờ khai đạo lên thống đốc Nam kỳ xin phép
cho đạo Cao Đài hoạt động. Giữa tháng 11-1926, không đợi thống đốc Nam kỳ đồng ý
hay không, những chức sắc lãnh đạo Cao Đài tổ chức đại lễ tại chùa Gò Kén (Tây Ninh)
chính thức cho ra đời một tôn giáo mới: đạo Cao Đài.
Như vậy, đạo Cao Đài manh nha trên mảnh đất phì nhiêu của đàn cơ, với tầng

lớp trí thức công chức nhỏ của chính quyền thực dân Pháp làm hạt nhân. Từ đây, đã
hình thành nên một tôn giáo mới.
Mỗi tôn giáo ra đời đều mang một tên gọi. Các nhà sáng lập ra đạo Cao Đài tìm
thấy tên gọi của đạo này từ 2 câu thơ trong đạo Minh sư của người Hoa: “Cao như Bắc
khuyết nhân chiêm ngưỡng, Đài tại Nam phương đạo thống truyền, ghép 2 chữ đầu của
2 câu thơ nên thành Cao Đài, với tên gọi đầy đủ: Đại đạo Tam kỳ phổ độ. Gọi Đại đạo
Tam kỳ phổ độ, theo Thái Thơ Thanh trong sách Đại đạo Vấn đáp căn nguyên đã viết:
Phàm các tôn giáo lớn trên thế giới đều hay đều tốt cả; những nhà sáng lập các tôn giáo


đều là các bậc cao thượng trên đời, từ bi bác ái cả. Mục đích của đạo Cao Đài Tam kỳ
phổ độ chúng tôi mong kết hợp hết thảy các tôn giáo trên thế giới mà khảo cứu đi, đến
chỗ truy tầm nguyên thủy những điều cao thâm tinh khiết và họ còn giải thích từ khi có
loài người đến khi có đạo Cao Đài ra đời, thượng đế đã 2 lần cứu rỗi (phổ độ) chúng
sinh. Lần thứ nhất (nhất kỳ phổ độ) gọi là hội tý thượng nguyên gồm: Thái thượng đạo
tổ-tiền thân của đạo Lão, Phục Hy - tiền thân của đạo Nho; Nhiên đăng Phật tổ - tiền
thân của đạo Phật. Lần thứ hai, (Nhị kỳ phổ độ) gọi là (Hội sửu Trung nguyên) gồm
Thích ca Mâu Ni - lập đạo Phật, Thái thượng Lão quân lập đạo Tiên, Khổng tử lập đạo
Nho, Chúa Giêsu Kitô lập đạo Thánh. Đạo Cao Đài cho rằng 2 lần cứu rỗi này thượng
đế thấy điều kiện nơi phàm trần gặp khó khăn, năm châu sống lẻ loi nên đã cho lập ra
nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo phù hợp với phong tục tập quán từng vùng, từng quốc gia,
trong những thời gian khác nhau. Đến nay, điều kiện đi lại dễ dàng, “Năm châu chung
chỗ, bốn phương chung nhà” hơn nữa vì tồn tại nhiều tôn giáo riêng lẽ đã sản sinh ra
mâu thuẫn xung đột giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, nên thượng đế phải lập ra một
tôn giáo mới chung cho mọi người: đạo Cao Đài.
Giáo lý của đạo Cao Đài không có hệ thống các tín điều có chiều sâu dựa trên
những cơ sở triết học, thần học như những tôn giáo khác mà chỉ là sự vay mượn, sự kết
hợp các giáo lý của các tôn giáo đã có từ cổ chí kim, từ đông sang tây. Giáo lý đạo Cao
Đài đặc biệt quan tâm và đề cao tính thiêng liêng huyền diệu của cơ bút, coi nó là linh
hồn của đạo. Nội dung của Giáo lý được đề cập trong các sách: Đại thừa chân giáo,

Ngọc đế chân truyền, Pháp chánh truyền, Thánh ngôn hợp tuyển. Đạo Cao Đài có chủ
trương quy nguyên tam giáo và có ý đồ hiệp nhất ngũ chi, thống nhất 5 ngành đạo:
Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo. Quy nguyên tam giáo có nghĩa
là hợp nhất 3 tôn giáo lớn ở phương Đông: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo với 3 tư
tưởng: từ bi (Phật), bác ái (Lão) và công bằng (Nho). Trung tâm giáo lý của đạo Cao
Đài là sự thể hiện của các tư tưởng lớn đó. Trong ý thức những người sáng lập đạo Cao
Đài muốn dung chứa hết thảy các tôn giáo có mặt ở Việt Nam và làm cho giáo lý của nó
mang tính dung hợp, hòa trộn các tôn giáo có trước, góp nhặt những yếu tố cần thiết và
tùy theo giáo phái của mình mà có thể nghiêng về phần phổ độ hoặc tự rèn luyện thêm


cho mình. Nhưng sự góp nhặt đó đôi khi có không ít điều diễn đạt không đúng giáo lý
của các tôn giáo được thâu góp, do sự hạn chế vốn tri thức đương thời của những người
sáng lập. Giáo lý Cao Đài có nhiều chỗ nôm na, lại có nhiều chỗ tối nghĩa, mâu thuẫn
niềm tin vào đạo của các tín đồ có khi lại được củng cố ở những thánh ngôn và thường
họ không hiểu [47, tr 158].
Với tính chất dung hợp đến mức phức tạp trong giáo lý của đạo Cao Đài, rõ ràng
để hiểu được bản chất của nó đòi hỏi phải nắm vững về giáo lý của nhiều tôn giáo khác
mà tín đồ Cao Đài, một số chức sắc cũng không hiểu hết và không quan tâm mặc dù
giáo lý của họ chẳng có dung lượng bao nhiêu. Họ quan tâm nhiều ở sinh hoạt tôn giáo,
đó là sinh hoạt cộng đồng.
Trong sinh hoạt cộng đồng, tín đồ Cao Đài hành đạo và xử thế theo những luật
lệ, lễ nghi được quy định trong giáo lý như: thực hiện ngũ giới cấm, tứ đại điều quy,
luật lệ lễ nghi của đạo Cao Đài được hình thành vừa chịu sự ảnh hưởng của luật lệ, lễ
nghi tam giáo vừa chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán văn hóa truyền thống Nam
bộ, được thể hiện trong các sách: thánh ngôn hợp tuyển, pháp chánh truyền, tân luật. Lễ
nghi của đạo Cao Đài rất rườm rà, cầu kỳ bởi lễ nghi đó phải phản ánh tinh thần tổng
hợp các tôn giáo thông qua lễ phẩm, lễ sĩ, lễ phục; vì vậy, các sinh hoạt lễ nghi của đạo
Cao Đài rất gần gủi và phù hợp với trình độ nhận thức với hoàn cảnh kinh tế - xã hội
của số đông nông dân Nam bộ và hơn thế nữa nhiều luật lệ, lễ nghi đã ăn sâu vào cuộc

sống, trở thành phong tục tập quán, lối sống của đông đảo quần chúng tín đồ [16, tr
193].
Tổ chức giáo hội đạo Cao Đài được phỏng theo mô hình thể chế nhà nước chính
trị quân chủ lập hiến. Mỗi hệ phái của đạo Cao Đài đều có tổ chức giáo hội riêng. Đa số
những người sáng lập, lãnh đạo Cao Đài là tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, công chức của
Pháp nên họ khá am hiểu các thể chế chính trị trên thế giới và cho rằng chế độ quân chủ
lập hiến (kiểu Nhật Bản) là hình thức chính quyền tốt nhất. Và theo họ ở Việt Nam, với
hình thức quân chủ lập hiến sẽ vừa trung thành với truyền thống, vừa thích nghi với tinh
thần dân chủ của thời đại mới. Do đó, khi thiết kế tổ chức giáo hội, họ đã vừa dựa theo


khuôn của bộ máy nhà nước Nhật, vừa theo mô hình của Vaticăng, nhưng nhiều chỗ bổ
sung rườm rà, quan liêu hơn [51, tr 325].
Chức sắc đạo Cao Đài khá đông với các cấp bậc khác nhau, phỏng theo hàng giáo
phẩm của đạo công giáo, nhưng được thay thế bằng những từ Hán - Việt cầu kỳ như là để
tăng thêm vẻ huyền bí. Thực chất đó là một thứ nhà nước trong một nhà nước hay một bộ
máy nhà nước trá hình. Chính việc xây dựng bộ máy tổ chức có hệ thống và chặt chẽ một
mặt đã làm tăng sức mạnh của đạo Cao Đài, mặt khác đó cũng là điều kiện cho mọi thứ cơ
hội nảy sinh trong đó có bọn cơ hội chính trị đội lốt tôn giáo đã từng gây khó khăn, phức tạp
cho Nhà nước ta ở một số thời điểm nhất định.
1.1.1.4. Sự phân phái của đạo Cao Đài
Khi mới ra đời, đạo Cao Đài là một tổ chức thống nhất với cơ quan đầu não là
Tòa Thánh Tây Ninh, đạo đã nỗ lực truyền giáo mở rộng lực lượng, thu hút tín đồ và
thật sự đã phát triển rất nhanh ở Nam Bộ. Điều đó đã làm cho Cao Đài trở thành một tôn
giáo thực thụ.
Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, nội bộ bắt đầu rạn nứt và có xu hướng lạc
giáo. Khi đạo Cao Đài phát triển mạnh mẽ và có tiếng vang trong nước thì sự chia rẽ
càng mạnh. Gần như là quy luật, các tôn giáo khi phát triển đến một mức độ nhất định
đều có sự phân hóa. Nếu như các tôn giáo khác phân hóa do sự bất đồng về quan điểm
giáo thuyết, thần học thì đạo Cao Đài phân hóa chủ yếu do những mâu thuẫn giữa cá

nhân các chức sắc. Có thể ở mỗi người do chỗ đứng và các cách nhìn nhận nên việc tiếp
nhận chân đạo có những điểm không đồng nhất [21, tr 18], có thể vì động cơ cá nhân, vì
phải chiều theo những thế lực chính trị đứng đằng sau hoặc khác nhau về cách hành đạo
[47, tr 67]. Mặc dù đã có những dấu hiệu rạn rứt trong nội bộ, nhưng phải đến năm 1934
mới chính thức chia rẽ thành nhiều chi phái bằng việc 2 ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê
Bá Trang - 2 chức sắc cao cấp của đạo vì bất đồng với 2 ông Lê Văn Trung và Phạm
Công Tắc đã thâu tóm quyền hành trong tay làm đạo giảm uy tín. Lúc đó các chi phái
lần lượt ra đời. Trước tiên, ngài Ngô Văn Chiêu từ chối phẩm vị Giáo tông mà chọn
phần ẩn tu, sau là chi phái Chiếu Minh, kế tiếp là chi phái Minh Chơn lý, Minh Chơn
đạo, Tiên Thiên, cuối cùng 12 chi phái ra đời trong đó có Cao Đài Ban Chỉnh đạo do 2


Ngài Quyền Thượng và Ngọc đầu sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) và
Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang) dẫn đạo. Nếu trước đây ở Tòa Thánh Tây Ninh, Hội
Vạn Linh đã chọn quyền đầu sư Thượng Tương Thanh cầm giềng mối đạo thì thời chỉnh
đạo ở Bến Tre cũng cử ông cầm giềng mối đạo, giữ chức giáo tông của một giáo hội
mới tại Bến Tre với tên gọi Đại đạo tam kỳ phổ độ - Hội thánh dưới quyền ủng hộ của
Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương. Sau này hình thành tên gọi chính thức: Hội thánh
Cao

Đài

Ban

Chỉnh đạo.
Sự chia rẽ đạo Cao Đài ra thành các chi phái, thậm chí trong nội bộ của từng chi
phái cũng có sự chia rẽ cũng là điều dể hiểu, bởi lẽ giáo lý thì mơ hồ, chưa được triển
khai đầy đủ, nhiều chỗ lỏng lẽo thậm chí mâu thuẫn, thêm bớt dễ dàng. Lại thêm đạo
ban đầu phát triển quá nhanh, tín đồ cũng do nhu cầu bức bách mà theo. Tham vọng của
những người cầm đầu lúc bấy giờ hầu hết là những người trí thức, công chức của chính

quyền đương thời do bị thất sủng, chèn ép nên khi tham gia thành lập đạo, một số muốn
lấy đạo tạo đời, muốn trở thành lãnh tụ cho nên việc mâu thuẫn, lật đổ nhau là một hệ
lụy tất yếu. Vì vậy, việc ra đời Cao Đài Ban Chỉnh đạo được xem như một bước ngoặc
tất yếu.
Nhìn chung, đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh lịch sử nhất định và phát triển
mạnh mẽ trong cộng đồng cư dân Nam bộ dưới chiêu bài hòa bình, tự do, dân chủ (tuy
không phải phe phái nào cũng thật sự theo đuổi mục đích này). Cơ sở của đạo Cao Đài
là người nông dân yêu nước, trong khi hạt nhân lãnh đạo lại là những trí thức công
chức, do Pháp đào tạo và làm việc cho Pháp, cho nên định hướng của từng chi phái chịu
sự ảnh hưởng khá mạnh tinh thần yêu nước hay mưu cầu danh lợi cá nhân của hạt nhân
lãnh đạo. Về mặt tín đồ mà nói, thì mong muốn đoàn kết, độc lập, tự do, hạnh phúc vẫn
là tư tưởng chủ đạo. Nhưng trong quá trình tồn tại do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân mâu thuẫn giữa các chức sắc trong đạo là cơ bản, cùng với nguyên nhân
chính trị đã gây chia rẽ nội bộ và xuất hiện nhiều phe phái.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
1.1.2.1. Vài nét về vùng đất Bến Tre và đặc điểm tín ngưỡng của người dân


Theo các tư liệu, tài liệu về sự hình thành cư dân Bến Tre, vào đầu thế kỷ XVII
Bến Tre còn là vùng đất hoang vu chưa được khai phá, khắp nơi là rừng rậm, đầm lầy và
thú dữ, đã có cư dân sinh sống nhưng còn rãi rác. Năm 1732, khi Chúa Ninh Vương
Nguyễn Phúc Trú ra lệnh lập thêm Châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, sở, lỵ đặt tại thôn
An Bình Đông, huyện Kiến Đăng, thì phần địa lý hành chánh Bến Tre chưa xuất hiện trên
bản đồ. Đến năm 1757, vùng đất Bến Tre ngày nay mới được sáp nhập vào dinh Long Hồ,
Phủ Gia Định. Ngày 01-01-1900 Bến Tre chính thức trở thành một tỉnh và Nghị định số
252/NB-51 của Uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam bộ đã chia Nam Bộ thành 2 phân liên
khu: Phân liên khu miền Đông gồm 5 tỉnh, phân liên khu miền Tây gồm 6 tỉnh. Bến Tre
thuộc về phân liên khu miền Tây [11, tr 25 - 30].
Từ khi vùng hoang vu trở thành nơi cư trú của con người cho đến nay, ở Bến Tre
có 3 dân tộc cùng sống gắn bó bên nhau, đó là người Việt, Khơme, Hoa (có một số ít

người Chăm). Những lưu dân người Việt đến Bến Tre hầu hết là những người từ các
tỉnh miền Trung (Thuận Quảng) họ gồm nhiều thành phần khác nhau, số người này có
thể đi bằng đường bộ và đường biển theo cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm
Luông đến định cư ở vùng đất cao, đất tốt dọc theo các con sông lớn. Người Hoa thuộc
nhóm Dương Ngạn Địch, Trần Thường Xuyên cũng đến đây, họ cùng người Việt đến
sống với người Khơme là những cư dân định cư tại chỗ đã làm cho vùng đất Bến Tre
ngày thêm đông người. Chính vì vậy, năm 1759 Chúa Nguyễn đã ban bố lệnh lập làng ở
đây.
Quá trình hình thành vùng đất Bến Tre ngày nay là một quá trình khai phá của
nhiều lớp cư dân, nhiều tộc người cộng cư. Chính điều ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong
quá trình tồn tại, phát triển của tín ngưỡng dân gian là một tín ngưỡng khá phồn tạp.
Trước hết, đó là những tín ngưỡng của cộng đồng làng xã, biểu hiện là sự thờ cúng ở
đình làng. Đình làng ở đây thờ Thành Hoàng bổn cảnh là những người có công khai phá
lập làng hoặc có công trạng với làng, có sắc phong của triều đình hoặc không có. Ngoài
việc thờ Thành Hoàng bổn cảnh còn thờ Thần Nông, Thổ Địa, Thổ Công và các thần
Nữ như Tứ vị Đại Càn thánh vương, bà Chúa Xứ, bà Ngũ Hành rồi các thần tự nhiên
như thần Hổ, thần Sông. Có thể nói, đình làng ở Bến Tre là nơi tập hợp thần linh từ


nhiều nguồn gốc khác nhau được tạo ra từ 2 nguồn: do nhà nước thế tục dội xuống và
do người dân đưa vào thờ phụng. Đối với nông dân làm nghề nông ở Bến Tre nói riêng
ở Nam bộ nói chung, lễ cúng đình hàng năm được phản ánh đầy đủ nhất là lễ Kỳ Yên.
Lễ Kỳ Yên là lễ hội lớn nhất của làng quê. Với ý nghĩa cầu mong sự bình yên cho cá thể
và cho cộng đồng. Đây là sinh hoạt cộng đồng, là nét độc đáo của người dân Nam bộ.
Đặc biệt ở Bến Tre, tín ngưỡng phổ biến nhất của cư dân làm nghề biển là tục thờ cá
Voi, thường được gọi là Cá Ông. Đây là một tín ngưỡng dân gian hình thành trong quá
trình tiếp biến văn hóa Việt Chăm diễn ra từ đèo Ngang trở vào. Việc thờ Cá Ông được
quan niệm như là một cách đền ơn đáp nghĩa theo luật nhân quả của đạo Phật, coi Cá
Ông như thần hộ mệnh giữa biển khơi đầy sóng gió. ở Bến Tre, sự vận hành và phát
triển của tín ngưỡng dân gian mang tính chất hòa trộn ấy lại diễn ra trong ảnh hưởng chi

phối không chỉ của tam giáo Nho, Phật, Lão, mà còn chịu ảnh hưởng của đạo Hồi, đạo
Thiên Chúa.
Như vậy, do những điều kiện lịch sử phát triển và cấu trúc dân cư đa chủng, tín
ngưỡng ở Nam bộ nói chung cũng như ở Bến Tre nói riêng khá hồn tạp, có cả tín
ngưỡng trong gia đình và tín ngưỡng trong cộng đồng. Đây là một trong những mảnh
đất phì nhiêu cho sự ra đời và tồn tại của một tôn giáo mới đó là Cao Đài Ban Chỉnh
đạo.
1.1.2.2. Vài nét về Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
Thông thường bất kỳ một tôn giáo nào ra đời cũng do một hay nhiều nhóm người
sáng lập trên cơ sở hiện thực xã hội và đức tin của quần chúng. Đạo Cao Đài Ban Chỉnh
cũng vậy, là một chi phái được tách ra từ Cao Đài Tây Ninh chi phái gốc, từ sự mâu
thuẫn nội bộ và đường hướng hành đạo của các chức sắc đứng đầu đạo Cao Đài. ông
Nguyễn Ngọc Tương là một trong 2 người đã rời Cao Đài Tây Ninh về Bến Tre hình
thành một chi phái mới - Cao Đài Ban Chỉnh đạo.
ông Nguyễn Ngọc Tương sinh ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ, nhằm ngày 22-61881 tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre nay là Thị xã Bến Tre. Năm 1902
ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài, sau 4 năm bà mất, để lại 2 con thơ. Để ổn định
gia đình ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu, sinh được 3 người con trai (Nguyễn Ngọc Kỷ,


Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt) và 2 người con gái (Nguyễn Thị Yến, Nguyễn
Thị Nguyệt). Những người con của ông hầu hết đều đỗ đạt cao và có cuộc đời gắn bó
với nền đạo. Hai người con đã từ bỏ giàu sang sung sướng, từ Pháp trở về, vào bưng
biền tham gia kháng chiến, Nguyễn Ngọc Bích tham gia kháng chiến, bị địch bắt và
trục xuất khỏi Việt Nam khi là Khu bộ phó Khu 9. Tiếp bước người anh, kỹ sư
Nguyễn Ngọc Nhựt, được giao trọng trách ủy viên Uỷ ban kháng chiến hành chánh
Nam bộ, đã bị địch bắt, dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, tra tấn dã man và mất năm
mới 32 tuổi. ở đây có thể khẳng định rằng, ngoài lòng yêu nước của bản thân họ
còn có sự chi phối chính từ Đức Giáo Tông, một tư tưởng lớn vì đạo, vì nước đã
truyền cho 2 người con của ông một tinh thần bất khuất, không đầu hàng, mang
quốc hồn của dân tộc để rửa nhục mất nước, dù 2 con của ông được đào tạo từ nước

Pháp. Riêng cô Nguyễn Thị Nguyệt đã xuất gia tu hành từ lúc thiếu thời nay là vị
chức sắc trọng yếu trong đạo.
ông sớm mồ côi cha, thuở nhỏ được nội nuôi, cho học chữ Nho và chữ quốc ngữ
tại quê nhà, sau đó ông thi đậu vào trường trung học Mỹ Tho; năm 19 tuổi ông lên Sài
Gòn học ở trường Chasseloup Laubat; 21 tuổi ông thi đậu bằng thành chung rồi thi đậu
vào ngành Thư ký Thượng Thơ, được bổ nhiệm vào làm việc ở Sài Gòn. Một năm sau
ông về làm việc ở Bến Tre suốt 17 năm, trong thời gian này ông sẵn sàng chấp nhận
những điều bất lợi chốn quan trường, ông chủ trương lập ra 2 hội đó là Hội buôn An
Nam và Hội khuyến học để bảo vệ quyền lợi kinh tế cho người Việt và mở mang dân
trí. Việc làm này đã được sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. ông
không ngần ngại đến thăm viếng, chăm sóc Nguyễn Quyền một chí sĩ yêu nước tham
gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp đày biệt xứ về Bến Tre. Năm 38 tuổi
ông thi đậu Tri huyện, được bổ nhiệm quận trưởng Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc,
Xuyên Mộc, làm việc ở đâu ông cũng dốc hết lòng vì dân, làm cho người dân sở tại vô
cùng mến mộ. Trong thời gian làm quận trưởng quận Cần Giuộc, ông đã gia nhập đạo
Cao Đài; đến năm 1931 ông đã từ bỏ danh vọng chốn quan trường, gác bỏ chuyện gia
đình, tình cảm riêng tư, dành cả phần đời còn lại cho đạo, dìu dắt nhân sanh đi theo con
đường chính đạo. Có thể nói Nguyễn Ngọc Tương là một công chức cao cấp của Pháp


nhưng ông thuộc số người tha thiết với tinh thần dân tộc. Tinh thần này đi suốt cùng
ông, sau này có ảnh hưởng rất lớn khi ông được giao chức Giáo Tông, đứng đầu Cao
Đài Ban Chỉnh đạo.
Vì niềm tin của hàng triệu tín đồ Cao Đài vào nền chính đạo, nhằm đưa con
người đến đại đồng tuyệt khổ, là người có chức sắc trong Đại đạo Tam Kỳ Phổ độ,
ông không thể làm ngơ trước những lỗi lầm của những môn đệ của Thầy. Cho dù
ngay từ buổi đầu gia nhập đạo, ông đã đặt trọn lòng tín ngưỡng và đóng góp rất
nhiều công quả cho đạo, cũng vì sự chia rẻ của những bậc chức sắc cao cấp của đạo
Cao Đài, Nguyễn Ngọc Tương đã quay về mảnh đất quê hương làng An Hội - Bến
Tre, nơi chôn nhau cắt rốn và cũng là nơi ông trải qua cuộc đời công chức 17 năm,

cùng Lê Bá Trang lập Ban Chỉnh đạo.
Có lẽ vì hoang mang, chán nản trước sự chia rẽ của nội bộ Toà Thánh Tây Ninh,
vì nền tảng giáo lý tiến bộ của Cao Đài Ban Chỉnh mà ông Nguyễn Ngọc Tương đã thu
phục nhân tâm của đông đảo quần chúng tín đồ, giữa lúc họ đang tìm một lối thoát về
tinh thần trong một xã hội nhiễu nhương.
Với sự nỗ lực của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, sự đoàn kết của các
chức sắc, tín đồ, chỉ trong một thời gian ngắn, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã tập hợp được
96 trên 135 thánh thất, thu phục hơn một nửa số tín đồ ở Nam kỳ và đường hướng hành
đạo theo sự ủy thác của Đức Chí Tôn.
ông Nguyễn Ngọc Tương giữ giềng mối đạo với chức Giáo Tông cho đến khi qua
đời năm 1951. Sau khi qua đời, để tôn vinh ông, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo chủ
trương để chức Giáo Tông vô vi (thiêng liêng) và thay quyền Giáo Tông là tập thể các
chức sắc.
1.1.2.3. Sự ra đời của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
Chấn chỉnh nền đạo đi theo con đường chính đạo do Đức Chí Tôn sáng lập. Hai
ông Quyền đầu sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) đã cùng Quyền Ngọc
đầu sư Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang) mở đại hội khai sinh Ban Chỉnh đạo vào ngày
14 tháng 10 An Nam năm Giáp Tuất (ngày 20 tháng 11 năm 1934) với tên gọi Đại đạo
Tam Kỳ Phổ độ - Hội thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc


Tương. Sau này hình thành tên gọi chính thức: Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo. Đến
mùa Xuân năm 1935, tại Hội Vạn Linh - một ngày Hội trọng đại của Cao Đài đã triệu
tập đầy đủ các chức sắc và tín đồ, thống nhất tín nhiệm ông Nguyễn Ngọc Tương giữ
chức Giáo Tông, là người giữ địa vị cầm giềng mối đạo Cao Đài Ban Chỉnh với số
phiếu gần như tuyệt đối.
Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động, ông Nguyễn Ngọc Kỷ - con trai Giáo
Tông Nguyễn Ngọc Tương, Nghị sỹ chế độ Sài Gòn thúc đẩy việc xin tư cách Pháp
nhân cho Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo. Ngày 28 tháng 5 năm 1970, Tổng trưởng
Bộ Nội vụ Việt Nam cộng hòa Trần Thiện Khiêm đã ký Nghị định số 378/BNV/KS/14

chấp thuận điều lệ và sự hoạt động của Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo theo qui chế
hiệp hội (Hội thánh Cao Đài Tây Ninh được chính quyền Sài Gòn công nhận hoạt động
theo qui chế giáo hội). Tuy nhiên, khi có tư cách pháp nhân thì Hội thánh này lại phân
rẽ, hình thành 2 khối, quen gọi là Ban Chỉnh đạo Bến Tre và Ban Chỉnh đạo Đô thành.
Đạo Cao Đài Ban Chỉnh, là hệ phái lớn thứ 2 sau Cao Đài Tây Ninh, khi mới
hình thành, đạo này đã có một lực lượng khá đông đảo, chiếm 2/3 tổng số tín đồ, chức
sắc, nơi thờ tự của đạo Cao Đài. Nhưng về sau, một mặt do Cao Đài Tây Ninh đã vận
động lại được lực lượng, mặt khác từ giữa những năm 1970 trở đi, Cao Đài Ban Chỉnh
rơi vào mâu thuẫn nội bộ nên đã hạn chế sự phát triển tín đồ.
Ngày 8-8-1997 Ban Tôn giáo Chính Phủ ban hành Quyết định số 26 công nhận
tư cách pháp nhân, tổ chức Giáo Hội, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo.
Hiện nay, Cao Đài Ban Chỉnh đạo có 930.000 tín đồ, 271 chức sắc. Một số tỉnh
tập trung đông tín đồ như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, thành phố Hồ Chí Minh, Tiền
Giang, Quảng Ngãi và 249 thánh thất, 8 điện thờ phật mẫu ở 26 tỉnh, thành phố chủ yếu
ở phía Nam.
1.1.3. Đặc điểm của đạo Cao Đài Ban chỉnh
1.1.3.1. Đường lối hành đạo của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
Là một tôn giáo và là tín đồ của một tôn giáo đó, đòi hỏi mọi tín đồ cũng như
các chức sắc trong đạo phải xác định đường lối hành đạo của mình, giữ vững đức tin và
hết lòng phấn đấu vì đức tin đó. Đối với Cao Đài Ban Chỉnh cũng vậy, đức tin đó chính


là đức tin nơi Thầy, nơi đạo, nơi Đức Lý Đại Tiên và các Đấng Phật-Tiên - Thánh Thần. Trong tâm tưởng của mỗi tín đồ, thầy là đấng tối cao, là một đấng cứu thế cứu
nhân loại thoát khỏi tai ương, đau khổ. Người Cao Đài phải giữ trọn đức tin nơi huyền
năng tạo hóa của Đức Chí Tôn. Như vậy, muốn được cứu rỗi đòi hỏi các tín đồ phải có
tinh thần vị nhân sinh, xả thân hành đạo, thực hành từ bi, bác ái tràn trề để nêu gương
cho sự xây dựng cảnh hòa bình và hạnh phúc chung cho nhân loại - Nguyễn Ngọc
Tương thật sự là một người như thế, ông đã vứt bỏ mọi danh vọng, quyền lợi chốn
quan trường, ly gia cắt ái, phế hết việc gia đình để trọn hiến thân hành đạo để cầu
phước cho nhân sinh, để tiếp ân điển mà ban pháp giải khổ, đại xá cho chúng sinh.

Những tín đồ của Cao Đài đã tìm thấy con đường chung nhất để nhân loại nương
theo đó mà tìm thấy hạnh phúc trong nhân sinh và cả tâm linh, đường lối hành đạo
của ông không đưa con người tìm đến thế giới huyển hoặc đầy thần quyền mê tín mà
phải thấy Đại đạo này là phương cách giúp con người nhận ra chân lý cuộc đời trên
nền tảng tình thương đại đồng, để cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, an lạc,
không chia rẽ, hận thù.
Chính vì vậy, tôn chỉ của Cao Đài Ban Chỉnh đạo được xác định là tam giáo quy
nguyên, ngũ chi hợp nhất, thực hành chủ nghĩa thương yêu tràn trề từ người đến vật cốt
để kêu gọi nhân sinh xóa bỏ mọi chia rẽ, xung đột về màu da sắc tộc, danh vọng lợi
quyền. Nhân sinh đều cùng một cội, vì vậy phải sống dung hòa, thương yêu tương trợ
lẫn nhau. Bởi lẽ sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới, bởi thương yêu
mà vạn loại hòa bình [44, tr 19]. Có như vậy mới đi đến mục đích xây dựng xã hội
thánh đức thượng nguyên đại đồng tuyệt khổ. Theo đạo Cao Đài Ban Chỉnh, để thực
hiện tôn chỉ, mục đích đó, thực hiện triệt để lệnh ngưng cơ bút truyền đạo của Thầy mà
thay vào đó trong hoạt động của đạo được căn cứ vào nghị quyết của 3 Hội đó là
Thượng hội, Hội thánh và Hội nhân sanh. Chức sắc được bầu thông qua hình thức công
cử ở Hội Vạn Linh.
Đường lối hành đạo của Đức Giáo Tông cũng như của Cao Đài Ban Chỉnh đạo từ
ban đầu đã xác định chỉ là đạo đức thuần túy không tham gia chính trị, đảng phái. Vì
vậy, Đức Giáo Tông đã giữ vững một lập trường đạo đức thuần túy, không để Cao Đài


Ban Chỉnh bị biến thành một tổ chức chính trị, nhưng thái độ đối với các đảng phái
chính trị, tuyệt nhiên phải giữ một thái độ trung lập, không xu hướng. Nhưng trước một
thực tế xã hội lúc bấy giờ diễn ra đầy rẫy những cảnh áp bức, bóc lột, chiến tranh chết
chóc. Đối với Nguyễn Ngọc Tương, ông không thể ngồi yên nơi đại tịnh hoặc dửng
dưng trước thời cuộc, ông quan niệm rằng tham gia chống chiến tranh, chống những
điều phi nghĩa ủng hộ việc làm chính nghĩa, góp phần cứu chúng sinh ra khỏi chết chóc,
đói khổ là điều có đạo đức. ông cũng không giấu giếm giáo lý của Cao Đài Ban Chỉnh
đạo đã ảnh hưởng ít nhiều những tư tưởng về Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa Mác-Lênin

từ Pháp gửi về, đó là những tư tưởng “đại đồng”, “Hòa bình thế giới”, “quyền dân tộc tự
quyết” cho dù ông cũng như Cao Đài Ban Chỉnh đạo tuyên bố không làm “quốc sự”.
Nhưng ông cũng hãnh diện, tự hào khi thấy những đứa con thân yêu của mình cũng như
những tín đồ của ông đã xả thân vì nước, vì đạo.
ông Trần Đông Phong, nguyên Uỷ viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đã nói: ngay từ khi thành lập đạo Cao Đài Ban Chỉnh, ông Nguyễn Ngọc Tương đã
minh định phương hướng hành đạo theo con đường yêu nước, phụng sự nhân sinh, đã
đồng hành gắn bó cùng dân tộc, đồng bào, có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc [21, tr 34].
Phương hướng hành đạo của Cao Đài Ban Chỉnh trong giai đoạn hiện nay vẫn
hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của đại đạo tam kỳ phổ độ.
Tôn chỉ của đại đạo đó là: Quy nguyên tam giáo, hiệp nhất ngũ chi để thống nhất
tinh thần tín ngưỡng nhân sinh, xóa bỏ mọi thành kiến chia rẽ tôn giáo và thực hành chủ
nghĩa từ bi bác ái từ người đến vật, xem tất cả chúng sinh đều là anh em ruột thịt, con
chung một đấng cha trời, để dung hòa mọi mối bất đồng về vật chất, quyền lợi, màu da,
sắc tộc.
Mục đích của đại đạo đó là chuyển hạ nguyên tự diệt sang thượng nguyên tái tạo,
xây dựng nên lạc cảnh thế giới hòa bình đại đồng tiệt khổ [12, tr 1].
1.1.3.2. Những nét tương đồng và khác biệt của đạo Cao Đài Ban Chỉnh với
Cao Đài nói chung


Xét về nguồn gốc: Tất cả các chi phái của đạo Cao Đài đều được hình thành từ
cơ sở phân phái của đạo Cao Đài Tây Ninh - là phái gốc. Đạo Cao Đài ra đời cũng
giống như các tôn giáo lớn khác, đều bắt nguồn từ hiện thực xã hội, từ những điều kiện
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, xã hội nhất định. Tuy nhiên, khi đạo Cao Đài có sự
phân phái, chia rẽ thì mỗi một chi phái dựa vào cơ sở của một số tôn giáo mà có cách
tiếp cận khác nhau, cũng như phái Chiếu Minh Tam Thanh bắt nguồn từ Ngô Văn
Chiêu chỉ nhận mình là tam giáo, không động đến ngũ chi; trong khi các chi phái khác
trong đó có Cao Đài Ban Chỉnh, Cao Đài Tây Ninh ngoài chủ trương quy nguyên tam

giáo còn có hiệp nhất ngũ chi. Còn thành phần khởi xướng đạo Cao Đài nói chung và
các chi phái khi tách ra cũng đều là những người thuộc giai cấp, tầng lớp tư sản, tiểu tư
sản, điền chủ, công chức trung cao cấp đương thời của chính quyền thực dân, nửa Tây
học, nửa chịu ảnh hưởng của các học vấn Đông Phương từ trước, họ cũng bị bế tắc
trong sự nghiệp, trong cuộc sống, họ cũng có một tinh thần yêu nước nhưng cũng chưa
thật rõ ràng. Vì vậy, ngay từ đầu đạo Cao Đài đã mang ít nhiều tính phản kháng xã hội
đương thời với một tư tưởng muốn phục hồi lại chế độ quân chủ, thông qua tam giáo và
những người khai sáng đạo, nhất là phái nghiêng về phổ độ (chỉ có phái Ngô Văn Chiêu
nghiêng về vô vi) không thể không chịu ảnh hưởng của các ý thức đương thời - nói
chung là yêu nước. Tuy vậy, cũng có sự khác nhau ngay ở thời gian ban đầu, có người
có tinh thần yêu nước thật sự nhưng cũng có người thân Pháp rồi lại thân Nhật [47, tr
24].
Nhìn chung, Cao Đài Tây Ninh - Cao Đài gốc và các chi phái đều mang tính chất
chính trị từ buổi đầu thành lập nhưng tính chất chính trị đó rơi vào xu hướng nào thì đó
chính là điều khác biệt lẫn nhau giữa các chi phái như phái Cao Đài Tiên Thiên, Cao
Đài Minh Chơn đạo, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã có những đóng góp đáng kể cho cách
mạng trong sự nghiệp kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ do Đảng ta
lãnh đạo. Ta cũng biết, biểu hiện trước hết của đạo Cao Đài là sản phẩm của giai cấp địa
chủ và tư sản. Mặc dù là một tôn giáo nhưng những người cầm đầu đã xây dựng Hội
thánh có tổ chức bộ máy từ trung ương tới địa phương giống như một kiểu nhà nước
quân chủ lập hiến hoàn chỉnh, họ đã lợi dụng sự bế tắt của nhân dân Nam bộ trong cuộc


đấu tranh yêu nước để qui tụ lực lượng, thực hiện ý đồ giành quyền lãnh đạo chính trị trong
những năm 20 của thế kỷ XX, còn tôn giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài. Đó là Cao Đài Tây
Ninh - Cao Đài gốc một thời gian đã như vậy.
Về giáo lý, luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của Cao Đài Ban Chỉnh đạo và các
chi phái Cao Đài khác giống như Cao Đài Tây Ninh- chi phái gốc được qui định trong
một số kinh sách cơ bản như Thánh ngôn hợp tuyển, tân luật, pháp chánh truyền. Tuy
nhiên, trong giáo lý, có phái nghiêng về vô vi (Cao Đài Minh Chơn Lý) chưa tán thành

phổ độ, có phái nghiêng về phổ độ. Và mỗi một chi phái có cách giải thích khác nhau
phần kinh sách đã được công nhận, cùng với những thêm bớt có tính địa phương về sau
và sự gia cố bởi các trí thức trong đạo của từng chi phái, mỗi một chi phái chỉ chấp nhận
những ấn phẩm của chi phái mình.
Đối với Cao Đài Ban Chỉnh đạo, khi rời tòa thánh Tây Ninh về Bến Tre,

ông

Nguyễn Ngọc Tương đã cho chấn chỉnh các kinh sách làm cơ sở cho việc hành đạo, từ
đó hình thành những ấn phẩm như: Thánh ngôn hợp tuyển, (quyển 1 không theo quyển
2, 3). Pháp chánh truyền, Tân luật (bản gốc) Châu tri chỉnh đạo (1934 - 1936), kinh
cúng tứ thời và kinh quan hôn tang tế, đường lối hành đạo của Đức Giáo tông Nguyễn
Ngọc Tương Trong việc tu hành, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã chia thành 3 bậc tu hành
gọi là Phương tu tam thừa. Ba bậc này bao gồm; hạ thừa, trung thừa và thượng thừa.
Trong đó bậc hạ thừa và trung thừa được xem là nền tảng căn bản để thực hiện chân
truyền đạo.
Bậc hạ thừa dành cho tín đồ Cao Đài, trong đó giới luật dành cho phẩm này như
ngũ giới cấm, tứ đại điều quy, đạo bát chánh, thập nhị nhân duyên và cụ thể hơn hết là 5
điều khuyên chủ yếu sau sớ nhập môn. Người tín đồ được xây dựng theo mẫu người
biết sống vì người hơn vì mình và tiến tới quên mình mà làm cho người. Phần hạ thừa
chủ yếu tập trung cho phần nhân đạo. Cụ thể như đạo trung hiếu đối với nước với dân.
Đạo làm người phải giữ sao cho trọn luật để trở thành người công dân tốt trong xã hội.
Từ hạ thừa chuyển lên trung thừa là bước phát triển liền mạch.
Phẩm trung thừa là phẩm trung gian giữa hạ thừa và thượng thừa, đây là cơ quan
thực hiện chân truyền đạo. Việc vận dụng đường lối thiên thế đạo song hành để làm


phương tu cho người đạo thông qua nhà tu trung thừa hầu tạo ra nếp sống mới, nếp sống
tập thể của con cái đức Cao Đài. Người dạy người đạo luôn lấy tình thương yêu mà dìu
dắt nhau hầu làm phương thức sống. Đối với người đạo trong việc tu học, người dạy

phải làm để có mà ăn và tu trong tinh thần pháp, tài, lữ, địa không chỉ chú tâm dựa vào
sự đóng góp của nhân sanh, việc lập nhà tu trung thừa là một sáng tạo của Cao Đài Ban
Chỉnh, đây là điểm khác biệt với các chi phái khác. Con đường đi vào nhà tu trung thừa
là con đường thể hiện sinh động đường lối đạo đức của người. Con đường này sẽ dẫn
con người đến phương thức sống văn minh, khoa học, biết lao động. Nhà tu trung thừa
còn là nơi phát huy cái thiên lương của người đạo để từ đó chuyển hóa lên bậc thượng
thừa, bậc giác ngộ viên mãn.
Nhà tu thượng thừa là mục đích cuối cùng của người học đạo, luyện đạo để đạt
đạo. Như vậy, từ thế đạo đến thiên đạo theo phương tu tam thừa đã đúng theo thánh ý
của Đức Chí Tôn và Kinh luật đạo.
Cao Đài Ban Chỉnh đạo khi thành lập và hoạt động đã lập phép đạo riêng gọi là
Tân Pháp gồm phép đại xá, phép giải khổ, phép tịnh luyện để hành đạo.
Về mô hình tổ chức: Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương là người duy nhất trong các
phái được suy tôn lên ngôi cực phẩm của Cửu Trùng Đài là Giáo tông. Điều ấy cho thấy
ông quay về, trung thành với mô hình khởi thủy, Hội thánh của ông có cấu tạo của một
mô hình hoàn chỉnh. Nhưng không giống với Cao Đài Tây Ninh về ngôi vị và tên gọi
các cơ quan trực thuộc Hiệp Thiên Đài. Mặt khác, Giáo hội Bến Tre đưa Hiệp Thiên
Đài về đúng vị trí như Pháp Chánh truyền chỉ định, không để cho cơ quan này lấn lướt.
Điều khác cơ bản là Giáo hội Bến Tre không thiên phong chức sắc mà dùng luật công
cử chức sắc [47, tr 220]. Vì lường trước hậu quả của việc lạm dụng cơ bút vì động cơ cá
nhân, ngay trong chương trình chỉnh đạo ông Nguyễn Ngọc Tương đã chủ trương không
thực hiện cơ bút, ông nói các chi phái hiện tại nảy sinh trong thời gian khảo thí do cơ
bút bình thường tạo thành và dẫn dắt tệ huynh đã nhiều lần nhắc nhở ngưng việc cơ bút
là tối trọng. Có hư hư thiệt thiệt khó mà phân biệt được. Vì vậy, Thầy cấm cơ bút từ
tháng 7 năm 1927 là khi Thầy đã lập xong đạo rồi giao lại cho Hội thánh Chưởng quản
sắp đặt phổ thông. Bởi không tuân lời Thầy cấm nên cơ bút là sự mới lan tràn, cám dỗ,


xúi giục, lập ra nhiều phái, nhiều chi, đưa ra nhiều tôn chỉ, xa tôn chỉ Đại đạo [44, tr
70].

Đến nay, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã tuyệt đối không sử dụng cơ bút truyền đạo, trong
khi đó một số chi phái giữ nền cơ bút (Cao Đài Tiên Thiên), họ luôn sử dụng cơ bút không
chỉ trong sinh hoạt tôn giáo mà cả trong việc giải quyết các vấn đề tổ chức cũng như các quan
hệ xã hội có liên quan. Chính điều này mà trong thời gian gần đây đã gây nên không ít vấn đề
phức tạp cho chính quyền sở tại.
Về phương diện tôn giáo, nhìn chung đạo Cao Đài mang tính thực hành, họ đã
trộn cái đời thường với cái siêu linh, muốn tìm cho quần chúng tín đồ con đường giải
thoát ức chế của cuộc sống thường ngày bởi mục đích của đạo Cao Đài giải thoát con
người khỏi thế giới đau khổ và con người ấy sẽ được tái tạo nơi Bồng lai tiên cảnh. Tuy
nhiên, mỗi chi phái cũng có cách hành đạo khác nhau, phái Tiên Thiên, phái Chiếu
minh lấy việc tu tịnh, thoát ly đời sống trần tục với những qui định rất chặt chẽ. Trong
khi đó, phái Minh Lý, Minh Chơn đạo và đặc biệt là phái Cao Đài Ban Chỉnh không
thiên về tu tịnh mà hành đạo theo hướng lấy đạo độ đời, vừa hoạt động tôn giáo vừa
hoạt động xã hội tiến bộ.
Tất cả những yếu tố nói trên tạo thành nét cơ bản khác biệt giữa Cao Đài Ban
Chỉnh đạo với các chi phái Cao Đài khác.
1.2. Một số quan niệm của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
1.2.1. Thế giới quan và nhân sinh quan của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
Đạo Cao Đài Ban Chỉnh là một chi phái của Cao Đài Tây Ninh, từ khi thành lập
trải qua bao thăng trầm của lịch sử, từng chịu biết bao thử thách, trong sự va chạm với
các tôn giáo khác, với Cao Đài gốc và cả với đời sống chính trị - xã hội, nhưng nó vẫn
tồn tại được cho đến ngày nay.
Đạo Cao Đài Ban Chỉnh tồn tại được vì nó đã trở về với Cao Đài nguyên thủy,
Cao Đài gốc do Đấng Chí Tôn phán bảo. Với mục đích tối thượng là cứu khổ, giải khổ
đem lại sự hy vọng cuộc sống, an lạc cho con người trong kiếp sống mai sau ở nơi Bồng
lai tiên cảnh, điều đó hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của đông đảo quần chúng khi trình
độ nhận thức còn nhiều hạn chế. Hơn thế nữa, nó đã khơi dậy được những giá trị văn



×