LUẬN VĂN:
Phát huy vai trò thông tin chính trị - xã
hội trong hoạt động tuyên truyền miệng
của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở tỉnh
Cà Mau hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử tồn tại và phát triển của nhân loại đã khẳng định vai trò rất quan trọng của
thông tin. Ngày nay, thông tin là một trong những nhu cầu sống còn của con người, để
tồn tại và phát triển, con người phải thường xuyên tiếp nhận và xử lý thông tin nhanh
chóng, kịp thời, chính xác, đề ra phương án hành động phù hợp. Trong bối cảnh toàn cầu
hoá, các phương tiện thông tin hiện đại đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu thông tin cho
cán bộ và nhân dân. Tuy nhiên, thông tin chính trị - xã hội đến với cán bộ, đảng viên và
nhân dân - nhất là ở cơ sở chưa thường xuyên, không đầy đủ, thiếu hệ thống đã ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Đảng ta đã nhận thức đúng và sớm ban hành Chỉ thị số 14-CT/TW “Về việc tổ
chức đội ngũ Báo cáo viên và tuyên truyền viên của Đảng” từ năm 1977; năm 1997,
Trung ương Đảng ra tiếp Thông báo số 71-TB/TW “Về việc tăng cường lãnh đạo và đổi
mới công tác tuyên truyền miệng”; và ngày 15/10/2007, Đảng ta tiếp tục ban hành Chỉ thị
số 17-CT/TW “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên
truyền miệng trong tình hình mới” nhằm sớm đưa đường lối, chủ trương, nghị quyết của
Đảng, pháp luật của Nhả nước vào cuộc sống. Thực tiễn 30 năm qua đã chứng minh rằng:
Báo cáo viên (BCV) vẫn là lực lượng nòng cốt, chủ yếu trực tiếp tuyên truyền, phổ biến
thông tin chính trị - xã hội đến nhân dân mà không một phương tiện thông tin nào có thể
thay thế được. Bởi vì tuyên truyền miệng vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật
chuyển tải được rất nhiều thông tin, từ thông tin chính thống có tính chất hệ thống, phân
tích tỉ mỉ về kinh tế-xã hội đến những thông tin về khoa học, kỹ thuật,v.v.., đồng thời
chuyển tải những thông điệp mang yếu tố tâm lý và tình cảm của người nói đến người
nghe mà các phương tiện khác không thể nào chuyển tải hết được.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, Đảng ta xác định:
Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội. Để ba trụ cột trên phát triển bền vững thì thông tin chính trị - xã hội phải cung
cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác cho đội ngũ BCV và thông qua hoạt động tuyên truyền
miệng của báo cáo viên những thông tin ấy sẽ đến cơ sở, thâm nhập vào cơ sở tạo nên sự
thống nhất ý chí và hành động trong nội bộ cũng như trong toàn xã hội. Đó là yêu cầu hết
sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với chiến lược “Đi tắt, đón đầu” của Đảng và
Nhà nước ta nhằm sớm đưa Việt Nam thoát khỏi nước nghèo, kém phát triển và phấn đấu
đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp, từng bước hiện đại.
Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, việc cung cấp thông
tin chính trị - xã hội cho đội ngũ BCV và hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ này
ở nước ta nói chung, ở Cà Mau nói riêng nhìn chung chưa ngang tầm với nhiệm vụ chính
trị. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy được vai trò của thông tin chính trị - xã hội
trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV trước yêu cầu hội nhập quốc tế là
vấn đề bức xúc. Với nhận thức đó, tác giả đã chọn đề tài: “Phỏt huy vai trũ thụng tin
chớnh trị - xó hội trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ
sở tỉnh Cà Mau hiện nay” để viết luận văn thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thông tin là một hiện tượng khách quan đã và đang có ảnh hưởng đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Mỗi ngành, mỗi địa phương và mỗi người đều có cách tiếp cận,
nghiên cứu, khai thác, xử lý thông tin phục vụ mục đích đề ra.
Nghiên cứu vấn đề này, tác giả luận văn đã có điều kiện tiếp cận với một số công
trình nghiên cứu sau:
- Công trình nghiên cứu khoa học của tác giả Lê Thị Duy Hoa, Thông tin và vấn
đề tiếp nhận xử lý thông tin của tư duy người Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà
Nội, 2001. Tác giả đã tập trung phân tích làm rõ bản chất của thông tin dưới góc độ triết
học, vấn đề tiếp nhận và xử lý thông tin trong tư duy người Việt.
- Công trình nghiên cứu của tác giả Phan Thị Thanh Hải, Thông tin với hoạt động
giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường đại học, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội,
2003. Tác giả đã phân tích rõ bản chất thông tin, phân loại thông tin và phát huy vai trò
của thông tin trong hoạt động giảng dạy lý luận Mác - Lênin.
- Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Huệ, Thông tin với hoạt động
lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội
2007. Tác giả đã phân tích sâu vai trò của thông tin đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý
của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và đề ra giải pháp phát huy vai trò của của thông tin đối
với hoạt động lãnh đạo, quản lý.
- Công trình nghiên cứu của tác giả Huỳnh Minh Khởi, Nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ báo cáo viên của Đảng bộ cấp huyện ở đồng bằng sông Cửu Long,
Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2006. Tác giả đã tập trung nghiên cứu lý luận chính
trị và vai trò của nó đối với hoạt động của người báo cáo viên.
Và một số bài báo khoa học đăng ở các tạp chí. Các công trình nghiên cứu và bài
viết của các tác giả đã đề cập đến các vấn đề thông tin và vai trò của thông tin dưới nhiều
góc độ khác nhau. Cụ thể là các tác giả đã tiếp cận nhiều khái niệm thông tin, về tác động
của thông tin đối với hoạt động giảng dạy lý luận chính trị Mác- Lênin, với hoạt động
lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt...song vấn đề vai trò của thông tin chính trị - xã hội
đối với hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở mà một mảng đề tài
còn trống và chưa được nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này sẽ có ý nghĩa lý
luận là thực tiễn cấp bách.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở làm rõ bản chất, vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động
tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở ở Cà Mau, đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm phát huy có hiệu quả vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động tuyên
truyền của đội ngũ BCV cơ sở Cà Mau hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của thông tin chính trị - xã hội, vai trò của nó
đối với hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở.
- Phân tích thực trạng môi trường thông tin chính trị - xã hội và vấn đề phát huy
vai trò của nó trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cơ sở ở Cà Mau.
- Trình bày một số giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả vai trò của thông tin
chính trị - xã hội trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV viên cấp cơ sở ở
Cà Mau trước yêu cầu mới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Dựa vào lý luận phản ánh thông tin chính trị - xã hội được xem xét với tư cách là
thuộc tính khách quan của vật chất, là cái đa dạng được phản ánh, được thể hiện rõ hơn, sinh
động hơn theo tiến trình phát triển của thông tin trong thế giới khách quan sẽ tác động đến
hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở. Do vậy, phạm vi nghiên cứu của
luận văn giới hạn chỉ tìm hiểu trực trạng môi trường thông tin chính trị - xã hội và vai trò của
nó đối với hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở ở Cà Mau năm năm trở
lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là lý luận nhận thức duy
vật biện chứng.
+ Luận văn vận dụng các quan điểm, đường lối của Đảng ta về công tác tuyên
truyền miệng của đội ngũ BCV.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
+ Kết hợp các phương pháp khác: Phân tích và tổng hợp, phương pháp điều tra xã
hội học.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hoá khái niệm thông tin chính trị - xã hội và chỉ rõ
vai trò của nó đối với hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở.
Luận văn sẽ chỉ rõ thực trạng phát huy vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối
với hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở Cà Mau, đề xuất một số
giải pháp phát huy vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với công tác tuyên truyền
miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở ở Cà Mau trước yêu cầu mới.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể góp phần cùng cấp uỷ và Ban Tuyên giáo các cấp tham khảo và
vận dụng trong viện xây dựng môi trường thông tin chính trị - xã hội và cung cấp thông
tin chính trị - xã hội cho đội ngũ BCV. Đồng thời xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ
Tuyên giáo, BCV trong tình hình mới.
- Dùng làm tài liệu tham khảo và bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên truyền
miệng cho đội ngũ BCV.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Thông tin chính trị-xã hội và vai trò của nó
trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở
1.1. Thông tin chính trị - xã hội - bản chất và đặc trưng
1.1.1. Bản chất thông tin chính trị - xã hội
Thông tin là một hiện tượng khách quan, đóng vai trò quan trọng trong đời sống
của thế giới sinh vật nói chung, của con người nói riêng. Không có thông tin, mọi sự vật
và loài người sẽ không tồn tại và phát triển được. Thông tin đã trở thành nhu cầu sống
còn của muôn loài, kể cả loài người. Để tồn tại và phát triển, con người luôn luôn phải
tiếp nhận và xử lý thông tin.
Dựa trên cơ sở xem xét trình độ phản ánh, cấu trúc của thông tin, người ta có thể
phân thông tin thành ba loại: Thông tin trong thế giới vô sinh, thông tin trong thế giới
hữu cơ và thông tin trong xã hội con người. Thông tin trong thế giới vô sinh là quá trình
thông tin thụ động, sơ đẳng, chưa đầy đủ, là sự “tự điều chỉnh” sự tồn tại của mình cho
thích hợp với môi trường xung quanh của sự vật hiện tượng khi bị tác động. Thông tin
trong thế giới hữu sinh là loại thông tin có tính điều khiển, có chọn lọc đối với những tác
động từ môi trường xung quanh, có ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống của chúng.
Thông tin trong xã hội con người là dạng thông tin cao nhất, phức tạp nhất, có tính mục
đích, có sự tham gia của phản ánh có ý thức của con người.
Thông tin trong xã hội giúp con người không chỉ thích nghi với môi trường sống
mà còn tác động, sáng tạo theo mục đích, nhu cầu của con người. Quá trình thích nghi là
cải tạo môi trường cũng đồng thời là quá trình con người tự hoàn thiện mình.
ở góc độ chính trị, thông tin phản ánh các quan hệ chính trị. ở đây, chủ thể thông
tin được xem xét là một chủ thể chính trị trực tiếp. Mỗi giai cấp, mỗi dân tộc, mỗi tổ chức
chính trị -xã hội khác nhau phản ánh các hiện tượng xã hội khác nhau theo nhu cầu, mục
đích, lợi ích và truyền thống của riêng mình.
Thông tin chính trị - xã hội là một bộ phận quan trọng đặc biệt của thông tin xã
hội. “Thông tin chính trị - xã hội là những thông tin về đời sống xã hội mang dấu ấn
những quan điểm chính trị tư tưởng, quan điểm đường lối của một chủ thể xã hội nhất
định” [32, tr.62]. “Thông tin chính trị - xã hội là những thông tin phản ánh mặt chính trị
của các thông tin xã hội [32, tr.8]. Như vậy, thông tin chính trị - xã hội phản ánh mặt
chính trị của toàn bộ đời sống xã hội của con người. Khi xem xét mặt chính trị của một
hiện tượng xã hội, thông tin chính trị - xã hội không tách rời mà dựa vào các thông tin
khác, khai thác mặt chính trị của các thông tin này. Hay nói cách khác thông tin chính trị
- xã hội là những thông tin về hoạt động chính trị-xã hội của con người, mang ý nghĩa
chính trị-xã hội nhất định.
Như vậy, thông tin chính trị - xã hội là những thông tin về những quan hệ chính trị
- xã hội phong phú trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, những mối quan hệ có
tính quy luật đặc thù trên từng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Tiếp nhận những
thông tin đó, các chủ thể xã hội có căn cứ để định hướng trong hoạt động xã hội và hành
vi cụ thể trong sinh hoạt hàng ngày thích hợp với truyền thống dân tộc, đặc điểm đất
nước và thời đại. Đồng thời thông tin chính trị - xã hội giúp con người tự điều chỉnh tiến
độ, biện pháp và mục tiêu hoạt động phù hợp với nhận thức về quy luật khách quan của
xã hội hay sự biến đổi thực tế của quốc gia - dân tộc trong những điều kiện và hoàn cảnh
lịch sử cụ thể.
Thông tin chính trị - xã hội phục vụ trực tiếp cho hoạt động chính trị, công tác
chính trị, tư tưởng; là công cụ và phương tiện không thể thiếu của hoạt động chính trị-xã
hội. Trên cơ sở thông tin chính trị - xã hội, chủ thể quản lý có thể đề ra chủ trương, chính
sách, mục tiêu, biện pháp của các lĩnh vực hoạt động chính trị- xã hội hợp lý.
Thông tin chính trị - xã hội liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề quyền
lực. Nó có thể góp phần bảo vệ, củng cố, phát triển hoặc nhằm thay đổi một chế độ xã
hội. Chính vì vậy mà bất cứ cơ quan thông tin nào dù mang hình thức gì đều phục vụ cho
một lý tưởng, một tôn chỉ mục đích có nội dung chính trị. Thông tin chính trị - xã hội
không chỉ đơn thuần là thông tin được truyền bá vào tư tưởng xã hội mà còn là thông tin
có vai trò làm thay đổi quan điểm, lập trường tư tưởng của đối tượng chịu sự tác động
của thông tin đó.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội, thông tin chính trị - xã hội luôn luôn có
vai trò và ngày càng có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng và lý
luận. Thông tin chính trị - xã hội được xem là vũ khí tinh thần của các đảng phái chính trị
và các nhà hoạt động chính trị vì mục tiêu chính trị nhất định.
Thông tin chính trị - xã hội có khả năng thâm nhập vào lực lượng quần chúng và
trở thành sức mạnh trong quần chúng, giác ngộ quần chúng, nâng cao nhận thức, tri thức
khoa học...làm tăng thêm niềm tin về lý tưởng mà chủ thể của thông tin chính trị - xã hội
đề ra. Thông qua đó, chủ thể thông tin có thể thực hiện được mục đích của mình: truyền
bá cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền vào nhân dân
nhằm tập hợp, giáo dục và tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện mục đích đề ra. Một
khi thông tin chính trị - xã hội của đảng cầm quyền được thâm nhập vào quần chúng nhân
dân sẽ tạo ra sức mạnh vật chất to lớn.
Thông tin chính trị - xã hội phản ánh toàn diện các quan hệ xã hội trong một quốc
gia cũng như quan hệ giữa các quốc gia theo quan điểm chính trị của một giai cấp nhất
định. Thông tin chính trị - xã hội có bình diện phản ánh rất rộng rãi, bao trùm toàn bộ các
quan hệ trong một quốc gia cũng như giữa các quốc gia. Thông tin chính trị - xã hội được
biểu hiện trên nhiều phương diện của đời sống xã hội với các hình thức hoạt động phong
phú.
- Thông tin chính trị - xã hội phản ánh những hoạt động phong phú, đa dạng của
các giai cấp, các tầng lớp khác nhau về mục tiêu phát triển của con người, giai cấp, của
các dân tộc.
- Thông tin chính trị - xã hội phản ánh hoạt động của các đảng phái chính trị, các
tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, các cá nhân có vai trò trong xã hội vì mục tiêu giành
và giữ chính quyền theo xu thế phát triển của quốc gia, dân tộc.
- Thông tin chính trị - xã hội phản ánh hoạt động đối nội, đối ngoại của các quốc
gia nhằm bảo vệ hoà bình, ổn định, tiến bộ của mỗi nước và trên phạm vi toàn thế giới.
- Thông tin chính trị - xã hội phản ánh quan hệ giữa các nước, các tổ chức khu
vực, quốc tế và sự tác động lẫn nhau giữa các nước,v.v..
Trong xã hội có giai cấp, thông tin chính trị - xã hội bao giờ cũng mang nội dung
tư tưởng, quan điểm của giai cấp thống trị và phản ánh lợi ích và mục đích của giai cấp
thống trị trong xã hội. Tuy vậy, thông tin chính trị - xã hội vẫn mang tính khách quan của
nó. Tính khách quan của thông tin chính trị - xã hội thể hiện ở chỗ, nó bắt nguồn từ cuộc
sống, phản ánh cuộc sống, gắn với cuộc sống của xã hội loài người. Nói khác đi, cơ sở,
nguồn gốc, nội dung của thông tin chính trị-xã hội là khách quan, còn hình thức thể hiện
của nó là chủ quan. Đồng thời, thông tin chính trị - xã hội còn mang tính khái quát hoá,
trừu tượng hoá, tính thời sự, tính định hướng, tính dự báo, tính khoa học.
ở một chế độ xã hội cụ thể bao giờ cũng có các quan hệ xã hội vận động, phát triển
theo những khuynh hướng khác nhau, theo đó, thông tin chính trị - xã hội cũng phong
phú, đa dạng. Trên cơ sở định hướng chính trị chung, đòi hỏi thông tin chính trị - xã hội
phải khái quát hoá, trừu tượng hoá và bao quát đầy đủ nhiều thông tin ở các lĩnh vực khác
nhau và gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Thông tin chính trị - xã hội giúp chủ thể chủ động xử lý và đề ra chủ trương chính
sách phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đời sống xã hội và mục địch của chủ thể. Để thông
tin chính trị - xã hội có ích và phục vụ đắc lực cho đảng cầm quyền hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách sát thực tế thì đòi hỏi thông tin chính trị - xã hội phải đáp ứng các
tiêu chuẩn sau:
- Thông tin chính trị - xã hội phải đúng. Đòi hỏi thông tin phải khách quan và
chính xác về sự kiện của chủ thể.
- Thông tin chính trị - xã hội phải đầy đủ, tức là thông tin phải phản ánh được tất
cả khía cạnh cần thiết hoàn chỉnh, trung thực về sự việc, hiện tượng.
- Thông tin chính trị - xã hội phải kịp thời, tức phải phản ánh đúng thực trạng sự kiện,
thu thập đúng thời gian để chủ thể kịp phân tích, đánh giá và xử lý.
- Thông tin chính trị - xã hội phải luôn gắn với quá trình diễn biến, vận động của
sự vật, hiện tượng giúp tư duy của chủ thể theo một chuỗi sự việc rõ ràng, khoa học,
mạch lạc.
Ngoài ra, thông tin chính trị - xã hội đó phải "dùng" được, tức là thông tin phải có
nội dung, có giá trị thực tiễn.
1.1.2. Đặc trưng của thông tin chính trị - xã hội
Với phạm vi phản ánh rộng và phong phú như vậy, thông tin chính trị -xã hội bên
cạnh những đặc điểm chung, đặc điểm vốn có của thông tin xã hội còn có những đặc
trưng riêng.
Thông tin chính trị - xã hội thể hiện lợi ích của chủ thể thông tin. Trong xã hội
có giai cấp, thông tin chính trị -xã hội bao giờ cũng chứa đựng quan điểm giai cấp, gắn
chặt với hệ tư tưởng của một giai cấp nhất định, phản ánh một hệ tư tưởng nhất định. Mỗi
giai cấp có thái độ khác nhau, cách sử dụng thông tin khác nhau. Mỗi thông tin dù trực
tiếp hay gián tiếp bao giờ cũng mang dấu ấn của một hệ tư tưởng nhất định. Không thể và
không thể có thông tin chính trị - xã hội nằm ngoài những lợi ích và mục tiêu của các giai
cấp, các đảng chính trị sử dụng nó.
Khi khẳng định điều này chúng ta không phủ định tính khách quan, trung thực
của thông tin chính trị -xã hội. Tính khách quan đòi hỏi thông tin phải được đảm bảo
bằng mối liên hệ mật thiết của nó với cuộc sống. Tính khách quan của thông tin chính trịxã hội không “trùng hợp” với chủ nghĩa chủ quan duy ý chí. Tính chân thực của thông tin
chính trị - xã hội đòi hỏi nó phải phù hợp với tình hình thực tế của sự vật, hiện tượng, của
đời sống chính trị-xã hội. Thông tin chính trị - xã hội là cái đa dạng của các quan hệ xã
hội được phản ánh. Do đó sự phản ánh của thông tin chính trị - xã hội không chỉ bao gồm
những mặt tích cực mà còn phản ánh cả những mặt tiêu cực, sai lầm, bao gồm cả những
mâu thuẫn, những mặt đối lập. Nếu thông tin không đầy đủ, thông tin phiến diện, hoặc
người dùng tin sẽ không nhận thức đúng sự vật, hiện tượng, hoặc họ tìm lời giải đáp ở
các nguồn thông tin chính trị-xã hội không chính thống khác.
Thông tin chính trị- xã hội có tính khái quát hoá, trừu tượng hoá cao. Trong mỗi
xã hội cụ thể bao giờ cũng tồn tại nhiều mối quan hệ phức tạp, các quan hệ này lại vận
động theo nhiều chiều và nhiều khuynh hướng khác nhau. Chính từ tính chất phức tạp
của quan hệ xã hội mà thông tin chính trị- xã hội cũng rất phong phú và đa dạng. Trên cơ
sở một định hướng chính trị chung, thông tin chính trị - xã hội phải bao quát được đầy đủ,
bao trùm nhiều thông tin ở các lĩnh vực khác. Sự khái quát càng cao thì ý nghĩa chính trịxã hội của thông tin chính trị-xã hội càng thể hiện rõ. Song tính khái quát hoá, trừu tượng
hoá của thông tin chính trị xã hội không xa rời tính cụ thể. Thông tin chính trị - xã hội
không phải thông tin chung chung, mà bao giờ cũng gắn với một điều kiện, địa điểm và
thời gian cụ thể, với một thời kỳ lịch sử cụ thể của sự phát triển xã hội. Nói khác đi,
thông tin chính trị - xã hội bao giờ cũng là thông tin thể hiện được vấn đề khi nào, cho ai
và như thế nào.
Tính thời sự là một đặc điểm quan trọng của thông tin chính trị- xã hội. Tính
thời sự của thông tin chính trị - xã hội có thể đưa đến cho con người những thông báo về
những sự kiện mới nhất, cho phép nhận thức đúng đắn, kịp thời và giúp cho việc giải
quyết các nhiệm vụ chính trị -xã hội một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Tính thời sự
của thông tin chính trị - xã hội phải được xem xét ở hai góc độ: Tính thời sự ở hệ phát
hay ở hệ thu. Trên thực tế, tính thời sự của thông tin ở hai hệ này không phải lúc nào
cũng song trùng. Có những thông tin được phát đi kịp thời nhưng khi đến được đối tượng
sử dụng thì không còn ý nghĩa thời sự nữa. Xét về mặt thời gian, chỉ những thông tin nào
đem lại cho chủ thể tiếp nhận thông tin những nhận thức mới một cách nhanh nhất mới
đảm bảo tính thời sự. Tính thời sự của thông tin chính trị - xã hội không có nghĩa là sự
hấp tấp, thiếu chọn lọc. Thông tin có tính thời sự đối lập với thông tin lặp đi lặp lại về
một sự vật hiện tượng, những kết luận, luận điểm lặp đi lặp lại, đối lập với những thông
tin “nhặt được" ở bất kỳ một sự kiện nào.
Thông tin chính trị- xã hội bao giờ cũng mang tính định hướng và dự báo cho
đối tượng được thông tin. Khuynh hướng tư tưởng của thông tin chính trị - xã hội tự nó
đã nói lên tính định hướng của loại thông tin này. Vấn đề là khả năng giải thích, hướng
dẫn dư luận xã hội theo một định hướng thống nhất của thông tin chính trị -xã hội. Sự
thống nhất trong nhận thức và hành động của quần chúng phụ thuộc rất nhiều vào việc
quán triệt đặc điểm này. Để có thể định hướng cho dư luận xã hội, thông tin chính trị - xã
hội phải có khả năng dự đoán, dự báo. Trên cơ sở đó định hướng cho hành động của các
giai cấp, tập đoàn và của cả xã hội.
Thông tin chính trị - xã hội tác động trực tiếp đến đời sống tư tưởng tình cảm
tâm lý hành động của từng người. Nó có thể làm cho đông đảo quần chúng suy tư hành
động theo hướng tích cực, đồng thời có thể làm cho nhiều người hoang mang dao động
mất phương hướng trong hành động. Vì vậy khi sử dụng thông tin chính trị - xã hội tính
mục đích luôn phải là một nguyên tắc tối cao. Lênin từng căn dặn, tuyên truyền tổ chức cổ
động tập thể là chức năng quan trọng nhất của các phương tiện thông tin đại chúng. Trong
điều kiện của chúng ta, thông tin chính trị - xã hội phải làm sao tác động trực tiếp đến tình
cảm của quần chúng để hướng dẫn họ cùng hành động theo một mục đích chung.
Thông tin chính trị- xã hội thường đưa đến cho đối tượng những phản ứng khác
nhau tuỳ thuộc vào ý thức, năng lực và trình độ của đối tượng tiếp nhận thông tin. Người
tiếp nhận thông tin có thể hiểu đúng theo ý đồ của chủ thể phát tin, có thể hiểu đúng
nhưng hành động sai với ý đồ chủ thể phát tin, hoặc có trường hợp hiểu sai dẫn đến hành
động sai theo ý đồ chủ thể phát tin. Điều này phụ thuộc vào năng lực, trình độ xử lý
thông tin của đối tượng nhận tin. Có trường hợp hiểu khác nhưng vẫn hành động theo ý
đồ của chủ thể thông tin. Đây là trường hợp có quan hệ đến quan điểm giai cấp và dân tộc
của từng đối tượng cụ thể. Trên thực, tế nhiều hiện tượng thông tin sai lệch. thông tin giả có
nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm này của thông tin chính trị - xã hội.
1.2. Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động tuyên truyền
miệng của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở
1.2.1. Thực chất của hoạt động tuyên truyền miệng
Đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở
Thuật ngữ BCV trong một thời gian dài được sử dụng ở nước ta với rất nhiều
nghĩa khác nhau, qua các giai đoạn và trong từng lĩnh vực cụ thể. Theo từ điển tiếng Việt,
BCV là người trình bày báo cáo trước một hội nghị đông người [49, tr.54]. Theo cách
hiểu này, BCV là khái niệm chỉ tất cả những người trình bày báo cáo trước hội nghị đông
người do cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị -xã hội, các tổ chức kinh tế và tổ chức
xã hội- nghề nghiệp...tổ chức. Do vậy, BCV không chỉ có trong các tổ chức Đảng, Nhà
nước, Đoàn thể mà còn trong các tổ chức quần chúng tự nguyện khác.
BCV là chức danh được Đảng ta qui định trong nhiều văn bản và được Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo) hướng dẫn thực hiện, trừ một số BCV ở các cơ
quan chức năng và một số cán bộ, đảng viên đã nghỉ hưu được các cấp uỷ Đảng lựa chọn làm
BCV chuyên trách. Phần lớn BCV hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm và hưởng chế độ theo
qui định của Bộ Tài chính.
Chỉ thị số 14 ngày 03/08/1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu rõ: "BCV,
tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền miệng có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục,
hướng dẫn tư tưởng và hành động cho cán bộ đảng viên và nhân dân.theo đường lối, quan
điểm của Đảng" [19]. Theo chỉ thị này, BCV là một chức danh để chỉ đội ngũ những
người tuyên truyền trực tiếp bằng lời nói đến các đối tượng là cán bộ, đảng viên và nhân
dân dưới sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ Đảng, cơ quan Nhà nước. Kế thừa
những quan niệm và những quy định của Đảng, có thể đưa ra khái niệm BCCV như sau:
BCV là lực lượng quan trọng nòng cốt, chủ lực của công tác tuyên truyền miệng,
được cấp uỷ lựa chọn, công nhận theo những tiêu chuẩn nhất định do Ban Tuyên giáo
của cấp uỷ quản lý và chỉ đạo.BCV là chức danh để chỉ những người làm công tác tuyên
truyền miệng, BCV được coi là người phát ngôn, thông tin chính của các cấp uỷ Đảng và
cơ quan Nhà nước.
Đội ngũ BCV được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, các ngành, các tổ
chức đoàn thể, lực lượng vũ trang, được tổ chức theo hệ thống dọc, dưới sự lãnh đạo của
cấp uỷ và sự quản lý của Ban Tuyên giáo các cấp. BCV của Trung ương: do Ban Bí thư
uỷ nhiệm cho Ban Tuyên giáo Trung ương chọn một số cán bộ cao cấp, uỷ viên Trung
ương, lãnh đạo cán bộ, ban, ngành, chuyên gia giỏi có phẩm chất và năng lực tuyên
truyền làm BCV.
ở địa phương, BCV được lựa chọn theo những tiêu chuẩn nhất định do cấp uỷ xây
dựng. BCV ở cấp nào do cấp uỷ cấp đó trực tiếp ra quyết định công nhận, Ban Tuyên
giáo quản lý điều hành, số lượng BCV phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ của từng cấp.
Thông thường, BCV ở cấp tỉnh có từ 35-100 người, cấp huyện có từ 10-40 người, cấp xã
có từ 10-30 người. Phương thức hoạt động chủ yếu của BCV là giảng bài, báo cáo
chuyên đề, giới thiệu nghị quyết, nói chuyện thời sự, chính sách, các vấn đề xã hội khác
trong các hội nghị, các buổi sinh hoạt đảng, sinh hoạt đoàn thể, sinh hoạt của tổ tự quản,
nơi tập trung đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả chỉ tập trung bàn đến đội ngũ BCV
cấp cơ sở xã, phường, thị trấn còn gọi BCV cấp cơ sở là những người do Ban chấp hành
Đảng bộ cấp cơ sở chọn, Ban Thường vụ Đảng uỷ công nhận và ra quyết định, đặt dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của Ban Tuyên giáo Đảng uỷ. BCV cấp uỷ gồm đồng chí trưởng, phó Ban
Tuyên giáo Đảng uỷ và một số đồng chí là cán bộ chủ chốt các ban, ngành, đoàn thể của xã,
phường, thị trấn, một số giáo viên và một số đồng chí cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị
trấn. BCV Đảng uỷ với nhiệm vụ tiếp thu quán triệt những chủ trương đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của địa phương, những vấn đề về
thời sự chính trị xã hội, trong nước và quốc tế truyền đạt đến cán bộ, đảng viên, quần chúng
nhân dân trên địa bàn cấp cấp xã, phường, thị trấn.
Trong điều kiện hiện nay, để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình, hoạt
động BCV không chỉ đa dạng về phương thức mà người BCV còn phải có phẩm chất và
năng lực nhất định, có trình độ lý luận chính trị cao cấp, có vậy công tác tuyên truyền của
Đảng mới đi vào chiều sâu, có hiệu quả.
Tiêu chuẩn cơ bản của báo cáo viên:
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, BCV phải được lựa chọn và bồi dưỡng rèn luyện
theo những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, đó là hai yếu tố hợp thành mô hình
nhân cách của một BCV.
Những tiêu chuẩn về phẩm chất:
- Có lập trường quan điểm đúng đắn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành
với mục tiêu lý tưởng và sự nghiệp đổi mới của Đảng.
- Có tính đảng, tính chiến đấu và ý thức tổ chức kỷ luật cao, đặc biệt là kỷ luật
phát ngôn.
- Có phẩm chất đạo đức và tinh thần trách nhiệm cao; nhiệt tình, tâm huyết với
nghề nghiệp, khiêm tốn học hỏi, gương mẫu và có mối quan hệ tốt với mọi người.
Những tiêu chuẩn chủ yếu về năng lực:
- Có trình độ chính trị cao. Nắm vững lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
- Có trình độ hiểu biết nhất định về các lĩnh vực: Chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn
hoá, xã hội, khoa học. Biết vận dụng tâm lý học, phương pháp sư phạm và nghiệp vụ
tuyên truyền, nhất là tuyên truyền miệng.
- Có khả năng tiếp thu, phân tích, lập luận, diễn đạt bài nói, có phương pháp vận
động thuyết phục quần chúng, đồng thời có năng lực tự chủ và đối ngoại trong một xã hội
dân chủ và bùng nổ về thông tin hiện nay.
Ngoài những tiêu chuẩn chủ yếu trên, BCV cần được lựa chọn và bồi dưỡng từ
những người có năng khiếu, sở trường về tiêu chuẩn tuyên truyền miệng, có ngoại hình
tốt, nhất là các cơ quan chức năng có liên quan đến hiệu quả tuyên truyền miệng: tai, mắt,
giọng nói, không nói ngọng, có thể lực và phong cách tốt.
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo viên
Một là, cung cấp thông tin, đặc biệt là những thông tin mới có giá trị, những thông
tin có tính nội bộ về tình hình trong nước và quốc tế; phổ biến, giải thích các quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách lớn, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Thông qua cung cấp
thông tin, BCV giúp cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu được nhiệm vụ chính
trị của Đảng, Nhà nước, địa phương, cơ quan và đơn vị.
Hai là, BCV không chỉ dừng lại cung cấp thông tin cho đối tượng mà quan trọng
hơn phân tích, bình luận, làm rõ ý nghĩa nội dung chính trị của các sự kiện, các nhiệm vụ.
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn khoa học, xác đáng, có tính thuyết phục. BCV phân tích,
bình luận, làm rõ bản chất các sự kiện chính trị, từ đó chỉ ra các nguyên nhân, dự báo
chiều hướng, khả năng và triển vọng của tình hình, định hướng thông tin, nhất là thông
tin có tính chính trị cao; góp phần hình thành dư luận xã hội tích cực, đúng đắn nâng cao
trình độ giác ngộ chính trị của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân.
Ba là, động viên cổ vũ mọi người, mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia vào
các hoạt động,xã hội, nâng cao chất lượng hiệu quả sản xuất. Chức năng hiệu triệu, cổ vũ
sẽ tăng lên nếu như lời nói của BCV có sức truyền cảm mạnh mẽ, có khả năng làm xúc
động lòng người, tác động sâu sắc đến tình cảm của quần chúng nhân dân.
Bốn là, hoạt động BCV là hoạt động thông tin hai chiều, một mặt thông tin tác
động đến đối tượng, mặt khác nhận thông tin phản hồi từ phía đối tượng. Qua đó BCV
nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, cũng như tâm trạng, thái độ nhận thức, tư tưởng
của họ đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để
phản ánh lên cấp trên. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh, bổ sung,
hoàn thiện chủ trương, đường lối của mình cho phù hợp quy luật phát triển, với thực tiễn
cách mạng, hợp lòng dân, trong đó BCV đóng vai trò là kênh thông tin huyết mạch, là
cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân. BCV không chỉ thực hiện nhiệm vụ bằng trí
tuệ, năng lực, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm mà còn bằng cả lòng nhiệt tình, tâm huyết,
phong cách gần gũi gắn bó với quần chúng, gương mẫu để thuyết phục người nghe. Trên
cơ sở phân tích các mối quan hệ lợi ích giữa các nhóm xã hội, tình trạng phát triển dân trí
và tình trạng thông tin, BCV có thể nắm được tình hình tư tưởng và dư luận xã hội trong
những giai đoạn nhất định để báo cáo lên cấp trên.
Tâm trạng của con người rất dễ thay đổi trước những biến động của đời sống xã
hội. Trong công tác tuyên truyền miệng, BCV cần phải nắm bắt diễn biến tư tưởng của
đối tượng khi tâm trạng chưa bộc lộ thành quan điểm chủ kiến, nhất là phải nắm được
tâm trạng khởi đầu. xu hướng phát triển của nó để định hướng nội dung tuyên truyền, có
những phương pháp, hình thức tuyên truyền phù hợp và hiệu quả nhất.
Tóm lại, chức năng thông tin, bình luận và định hướng thông tin, cổ vũ và thực
hiện, nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội luôn gắn chặt nhau, bổ sung, tác động cho nhau.
BCV khi tuyên truyền với những nội dung phong phú, phân tích thấu đáo, có cơ sở lý
luận- thực tiễn khoa học xác đáng, bình luận sâu sắc, tính định hướng cao, nắm bắt diễn
biến tư tưởng tâm trạng của đối tượng chắc chắn sẽ có tác dụng tuyên truyền giáo dục rất
lớn, sức cổ vũ hoạt động mạnh mẽ, hiệu quả tuyên truyền sẽ cao.
Biểu hiện đặc thù của hoạt động tuyên truyền miệng ở đội ngũ báo cáo viên cấp
cơ sở:
Một là, về đối tượng hoạt động. BCV và giảng viên đều làm nhiệm vụ truyền đạt,
thuyết trình trước một tập thể có đông người nghe, nhưng giảng viên là người được đào
tạo chuyên ngành về nội dung và phương pháp sư phạm; nội dung chương trình đã được
đào tạo theo quy chuẩn như: giáo khoa, giáo trình; giảng dạy nhiều lần về nội dung
chương trình cho đối tượng nhất định, tương đối đồng đều về trình độ. Đối tượng thuyết
trình của BCV là những cộng đồng người vừa không ổn định vừa không đồng đều về đặc
điểm xã hội-giai cấp, nghề nghiệp, tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, trình độ, kinh
nghiệm, cách suy nghĩ.. cũng như tâm lý: nhu cầu, tâm trạng, lợi ích. Vì vậy, sự đa dạng
về đối tượng đòi hỏi người BCV phải có trình độ tri thức về các lĩnh vực chính trị - xã
hội, kinh tế, văn hoá, con người, cũng như phương pháp truyền đạt, sự hiểu biết con
người sâu sắc.
Hai là, công cụ chủ yếu của BCV là ngôn ngữ. Quá trình diễn giảng, thuyết phục,
sự cảm hoá mà BCV thực hiện với đối tượng đều qua ngôn ngữ; bằng ngôn ngữ BCV
thực hiện quá trình chuyển thông tin đến đối tượng như mục đích đã đặt ra. Vì vậy, người
BCV phải tích luỹ vốn từ, nắm vững quy luật của ngôn ngữ và đặc điểm văn phong trình
bày.
Ba là, tính chất hoạt động tuyên truyền miệng của BCV vừa là một khoa học vừa
là một nghệ thuật. Trong quá trình tuyên truyền, một mặt, BCV dựa trên những luận cứ
khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự việc, hiện tượng, từ đó thuyết phục cảm
hoá đối tượng; mặt khác, công tác tuyên truyền phải gắn với thực tiễn, trên cơ sở tổng kết
thực tiễn, tổng kết công tác tuyên truyền trong từng thời kỳ cách mạng để giải đáp những
vấn đề cuộc sống đặt ra. Muốn đạt hiệu quả thì phương pháp và hình thức tuyên truyền
phải phù hợp với từng đối tượng và tình hình thực tiễn. Điều đó cho thấy, hoạt động BCV
là hoạt động nghệ thuật- nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật giao tiếp, nghệ thuật
diễn thuyết. Hoạt động BCV còn có đặc trưng sáng tạo - sáng tạo ra bài giảng của mình
(với những nội dung khác nhau chưa sẵn có, biên soạn đề cương nội dung chương trình
theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị hoặc yêu cầu của người tổ chức). Nhiều khi những nội
dung trong trình bày bài giảng là những vấn đề mới, chưa diễn ra nhưng người BCV cần
sáng tạo, cần phân tích, dự báo những khả năng sắp xảy ra, đây là một yếu tố khách quan
quy định đặc trưng hoạt động BCV - thực hiện hai lần sáng tạo trọng một hoạt động.
Là hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, hoạt động BCV
không chỉ đòi hỏi tính sáng tạo, sự rèn luyện nghiêm túc, mà còn phải có năng khiếu nghề
nghiệp (giao tiếp, sự nhạy cảm chính trị,v.v..).
Bốn là, hoạt động BCV khác với hoạt động của các "binh chủng" hợp thành công
tác tư tưởng khác, như: hệ thống trường chính trị, báo chí, xuất bản, đài phát thanh,
truyền hình, cổ động trực quan... Mỗi "Binh chủng" có đặc điểm riêng, chức năng riêng,
có phương thức tác động riêng, và do đó hiệu quả tác động là không giống nhau. So với
các "Binh chủng" khác, tác động tuyên truyền miệng của BCV có ưu thế: tiếp xúc trực
tiếp với người nghe, biết được phản ứng của người nghe, có khả năng điều chỉnh ngay bài
nói của mình cho thích hợp. Người BCV có thể gợi ý, trao đổi với người nghe, lấy được ý
kiến quần chúng, thực hiện được thông tin hai chiều, do đó có thể giải đáp một cách sinh
động, kịp thời vấn đề quần chúng nêu ra mà về lý do nào đó mà các phương tiện khác
không công khai rộng rãi. Điều quan trọng là do nói với từng tập thể nhỏ, từng người nên
BCV phải vận dụng những nội dung chung nhưng phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Năm là, BCV cấp uỷ các cấp cũng có những nét đặc thù nhất định. BCV Tỉnh uỷ
báo cáo chuyên đề theo từng lĩnh vực BCV phụ trách. Do đó hoạt động BCV Tỉnh uỷ thể
hiện tính chuyên môn và chuyên sâu rõ rệt. ở cơ sở, do tính đặc thù của đối tượng người
nghe: trình độ tương đối thấp, đa phần nông dân, đa dạng về nhu cầu nhận thức... địa bàn
rộng nên lựa chọn BCV cấp uỷ ở cơ sở thường là những người cao tuổi, có uy tín, kinh
nghiệm; đa phần những cán bộ đã về hưu tham gia BCV, không nhất thiết là đảng viên
trong cấp uỷ. Đối với BCV Đảng bộ cấp cơ sở hầu hết là những người đang tham gia cấp
uỷ, trưởng các ngành đoàn thể và một số giáo viên tham gia báo cáo chuyên đề trên tất cả
các lĩnh vực do cấp uỷ phân công.
Khác với BCV Huyện uỷ, BCV Đảng bộ cấp xã, phường, thị trấn phải không
ngừng luân chuyển công tác, thay đổi nội dung báo cáo và lựa chọn phương pháp thuyết
trình phù hợp với từng đối tượng. Có thể nói, đội ngũ BCV này phải rất năng động, sáng
tạo, linh hoạt và nhạy bén... Nhưng do đặc thù vậy, nên ở họ có sự hạn chế về tính chuyên
môn và chuyên sâu khi báo cáo các chuyên đề, nhất là những chuyên đề không thuộc lĩnh
vực mình công tác.
Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả tuyên truyền miệng của đội ngũ báo
cáo viên cấp cơ sở:
Một là, trình độ nhận thức lý luận chính trị của BCV ảnh hưởng tới hiệu quả tuyên
truyền miệng của họ.
Hình thức hoạt động chủ yếu, cơ bản của BCV là tuyên truyền miệng. Thông qua
đó cung cấp thông tin, đặc biệt là những thông tin mới, giá trị mới, những thông tin có
nội bộ về tình hình quốc tế, trong nước; phổ biến, giải thích các quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách lớn, mới, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại...
BCV muốn chuyển tải những thông tin trên đến từng nhóm đối tượng hiểu và nâng
cao nhận thức ở họ trước hết phụ thuộc vào trình độ nhận thức lý luận chính trị của BCV.
Bởi những thông tin mà BCV tuyên truyền là thông tin chính trị - xã hội bao gồm hệ
thống phạm trù, khái niệm, quy luật, nguyên tắc, thuật ngữ khoa học của nhiều ngành
khoa học, đòi hỏi người BCV phải có trình độ nhận thức lý luận chính trị tương ứng mới
có thể hiểu, nắm được nội dung cơ bản của thông tin chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó
tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên và nhân dân.
BCV muốn tuyên truyền, muốn nói cho người nghe hiểu được, nắm được nội dung
chủ đề mà mình nói thì trước hết BCV phải hiểu sâu sắc nội dung thông tin chính trị - xã
hội mà BCV chuẩn bị tuyên truyền. BCV chẳng những hiểu thông tin chính trị - xã hội
mà còn có thể biến thông tin đó thành tri thức của mình, thành niềm tin, thành sức mạnh
để khi nói, khi tuyên truyền sẽ có hồn, có sức thuyết phục hơn.
BCV khi nói, tuyên truyền nội không chỉ đơn thuần truyền thông tin mà còn truyền
đến người nghe tình cảm, niềm tin, quan điểm, lập trường và định hướng hành động đúng
đắn. Từ đó, người nghe không chỉ tiếp nhận thông tin một cách giản đơn mà còn nâng lên
nhận thức, củng cố niềm tin, nung nấu quyết tâm hành động.
Hai là, phương pháp của BCV ảnh hưởng tới hiệu quả tuyên truyền của họ.
Phương pháp tuyên truyền miệng của BCV không chỉ đơn thuần là cung cấp thông
tin chính trị - xã hội đến đối tượng bằng phương pháp độc thoại mà là tổng hợp nhiều
phương pháp để phân tích, bình luận, làm rõ ý nghĩa nội dung chính trị của các sự kiện,
các nhiệm vụ, các quan điểm, mục tiêu, giải pháp. Trên cơ sở lý luận của thông tin chính
trị - xã hội, BCV sử dụng những tri thức lý luận khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tri thức các khoa học khác kết hợp với vốn sống thực tiễn của bản
thân mà BCV sẽ phân tích, bình luận làm rõ bản chất của sự vật, hiện tượng, của các khái
niệm, phạm trù, luận điểm, quan điểm của chủ đề. Từ đó BCV chỉ rõ nguyên nhân, dự
báo chiều hướng, khả năng, triển vọng của tình hình, định hướng thông tin, nhất là những
thông tin có tính chính trị cao.
Bản chất của thông tin chính trị - xã hội mang tính khoa học, khái quát hoá, trừu
tượng hoá cao, đòi hỏi BCV khi phân tích, bình luận phải vận dụng các phương pháp
khao học như: Phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, lịch sử và lôgíc, so sánh, chứng
minh để người nghe hiểu đúng bản chất sự vật, hiện tượng, nội dung tư tưởng của thông
tin nhằm thống nhất nhận thức đúng.
Thực tiễn đã chứng minh, trình độ nhận thức lý luận chính trị ngang nhau, cùng môi
trường thông tin và tiếp nhận lượng thông tin như nhau nhưng có BCV tuyên truyền người
nghe dễ tiếp thu, dễ hiểu, hiểu sâu, nắm chắt bản chất vấn đề và có BCV tuyên truyền mà
người nghe khó hiểu, không nắm được bản chất vấn đề. Điều đó phụ thuộc nhiều vào
phương pháp truyền đạt của BCV.
Báo cáo viên sử dụng phương pháp nào trong lúc tuyên truyền là phụ thuộc vào đối
tượng người nghe về độ tuổi, về giới tính, về trình độ nhận thức, về nhu cầu tiếp nhận thông
tin, về không gian và thời gian buổi nói chuyện, ngoài ra còn phụ thuộc vào vai trò, vị trí, tác
dụng của thông tin đối với đời sống xã hội.
Ba là, phẩm chất, đạo đức, lối sống của BCV cũng ảnh hưởng tới hiệu quả tuyên
truyền miệng của họ.
BCV là người phát ngôn thông tin chính thức của Đảng và cơ quan Nhà nước do
Ban Tuyên giáo của cấp uỷ quản lý và chỉ đạo. BCV là kênh thông tin huyết mạch, là một
khâu quan trọng, trực tiếp, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Vì vậy, BCV
thực hiện nhiệm vụ không chỉ bằng trí tuệ, năng lực, bản lĩnh, kinh nghiệm mà còn bằng
lòng nhiệt tình, tâm huyết, đạo đức, phẩm chất, lối sống gương mẫu, gần gũi, gắn bó với
quần chúng mới có thể thuyết phục, động viên, cổ vũ người nghe, nhằm làm chuyển biến
tư tưởng, từ nhận thức đến hành động theo mục tiêu chính trị đề ra.
BCV ngoài trình độ, năng lực, phương pháp trình bày ra còn phải có phẩm chất,
đạo đức, lối sống gương mẫu. Điều đó sẽ làm tăng thêm uy tín và hiệu lực của lời nói của
BCV trước quần chúng. BCV phải kết hợp được cả lời nói đi đôi với việc làm. Tức là,
BCV không chỉ tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đến người nghe mà còn phải gương mẫu chấp hành và tự giác thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nếu người BCV mà phẩm chất, đạo
đức, lối sống chưa gương mẫu thì tuyên truyền đúng đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước....quần chúng sẽ không nghe, thậm chí dẫn tới phản
tuyên truyền.
Đảng ta đã và đang thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” trong đó có Đảng bộ Cà Mau. Qua sơ kết một năm, Ban chỉ đạo Cuộc
vận động của tỉnh bước đầu rút ra kết luận là, chất lượng Cuộc vận động tuỳ thuộc rất
nhiều vào chất lượng đội ngũ BCV. Bởi BCV có hiểu và thấm nhuần tư tưởng, tấm
gương, đạo đức của Bác thì khi trình bày mới xúc cảm, mới lay động lòng người, làm
chuyển biến từ nhận thức đến hành động của quần chúng. Đồng thời, Ban chỉ đạo chọn
những BCV mà ngoài chất lượng nhận thức đáp ứng yêu cầu tuyên truyền còn phải có
phẩm chất, đạo đức, lối sống gương mẫu trước quần chúng mới phân công tuyên truyền
các chuyên đề tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
BCV cũng là một nghề nhưng không phải ai có trình độ, năng lực, phương pháp
tốt là làm được nghề này mà còn phải là người gương mẫu. Bởi tuyên truyền không chỉ
tuyên truyền bằng lời nói, bằng ngôn ngữ của thông tin chính trị - xã hội mà còn tuyên
truyền bằng tấm gương người tốt việc tốt - trước hết là tấm gương của chính BCV.
Bốn là, việc chuẩn bị đề cương tuyên truyền (bài nói) của BCV sẽ ảnh hưởng đến
hiệu quả tuyên truyền.
Đây là công việc cực kỳ quan trọng của BCV. Chuẩn bị đề cương chu đáo, đầy đủ
nội dung, thông tin là yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả của buổi tuyên truyền. Đối với
BCV có kiến thức uyên bác thì chỉ cần chuẩn bị bố cục khái quát còn nội dung thông tin
cụ thể thì đã được tích luỹ trong tư duy của BCV. Tất nhiên là những người đạt trình độ
như thế thì họ đã nghiên cứu nhiều, đọc nhiều, hiểu rộng và có nhiều kinh nghiệm trong
hoạt động tuyên truyền miệng nhưng những BCV có được như thế không nhiều.
Do vậy, chất lượng của buổi tuyên truyền phụ thuộc vào việc chuẩn bị đề cương
của BCV. BCV chuẩn bị đề cương chi tiết thành bài, kể cả những ví dụ minh hoạ cũng
như dẫn chứng tư liệu cụ thể, rõ ràng là rất cần thiết. Trong quá trình chuẩn bị đề cương,
BCV lưu ý trước hết là phải đúng. Tức là nội dung thông tin phải đúng quan điểm, đường
lối, chính sách và cụ thể. Thông tin phải trúng, nghĩa là nói những điều mà người nghe cần
quan tâm, cần hiểu sâu vấn đề gì. Ngày nay, trình độ hiểu biết của người nghe rất cao. Do đó,
thông tin của BCV phải chắc lọc, cô đọng, phong phú, nhiều vấn đề, có khi phải đi sâu vào
nguồn gốc, diễn biến, xu hướng phát triển. Đồng thời khi chuẩn bị đề cương bài nói, BCV
phải dự kiến cả những vấn đề mà sau khi trình bày nội dung, người nghe có thể hỏi, có thể
chất vấn và dự kiến nội dung trả lời sẽ giúp BCV không bị động và lúng túng. BCV nên
chuẩn bị đề cương đa dạng phong phú, dài hơn thời gian dự kiến trình bày. BCV còn phải
chuẩn bị đề cương chi tiết cả phần mở đầu và kết thúc bài nói. Phần mở đầu bài nói cực kỳ
quan trọng, là phần dọn đường cho những phần tiếp theo sẽ được trình bày. Mở bài buổi nói
chuyện làm cho người nghe phải chú ý, hứng thú để lắng nghe những nội dung tiếp theo.
Cho nên phần mở đầu phải được chuẩn bị công phu và kỹ trước với những từ cô đọng, ngắn
gọn và đi thẳng vào bài. Phần kết thúc buổi nói chuyện của BCV thật sự là phần rất quan
trọng. Nếu buổi nói chuyện đã tốt rồi thì phần kết thúc gây ấn tượng sẽ tăng thêm giá trị nội
dung của buổi thuyết trình.
Như vậy, BCV chuẩn bị đề cương chi tiết, đầy đủ nội dung và nội dung được chọn
lọc kỹ, đồng thời BCV cũng phải tích hợp kiến thức rộng ở nhiều lĩnh vực để khi trình
bày nội dung có thể mở rộng, phân tích sâu, so sánh, đối chiếu làm cho người nghe dễ
hiểu và nắm được nội dung cốt lõi của buổi nói chuyện. Ngược lại, BCV chuẩn bị đề
cương sơ sài, thông tin thiếu sự chọn lọc và khi trình bày không mở rộng vấn đề sẽ làm
hoạt động tuyên truyền miệng của BCV đạt hiệu quả rất thấp.
1.2.2. Thông tin chính trị - xã hội với hoạt động tuyên truyền miệng của đội
ngũ báo cáo viên cấp cơ sở
Thông tin chính trị - xã hội là chất liệu để BCV tuyên truyền tới cán bộ, đảng viên
và quần chúng nhân dân.
Thời đại ngày nay là thời đại thông tin phát triển và chi phối mọi mặt của đời sống
xã hội. Không một lĩnh vực nào của cuộc sống lại không cần đến thông tin, đặc biệt là
thông tin chính trị - xã hội. Sự sai lệnh hay thiếu thông tin nói chung, thông tin chính trị xã hội nói riêng sẽ không mang lại thành công cho bất kỳ hoạt động nào. Đối với hoạt
động tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV thì thông tin chính trị - xã hội càng trở nên
một yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt. Có thể nói một cách khái quát rằng, quá trình
tuyên truyền miệng của BCV nói chung, tuyên truyền đường lối, chủ trương nghị quyết
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như tuyên truyền về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng thực chất là một quá trình mà người BCV tiếp
nhận, xử lý thông tin và truyền bá thông tin.
Thông tin chính trị - xã hội được xem là nội dung bên trong quan trọng, là phần
bắt buộc người BCV dù ý thức hay không cũng phải tự đặt ra và giải quyết. Hoạt động
tuyên truyền miệng của BCV bao giờ cũng đi từ một số thông tin, những sự kiện nhằm
chứng minh vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động của con người.
Chúng ta biết rằng các thông tin chính trị - xã hội được xây dựng lên từ thông tin bằng
con đường quy nạp, khái quát hoá, tổng hợp những phản ảnh phong phú của các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Thông tin chính trị - xã hội và thực tiễn cuộc sống có quan hệ biện
chứng. Thực tiễn cuộc sống là cứ liệu hình thành nội dung thông tin chính trị - xã hội.
Thông tin chính trị - xã hội tác động tới thực tiễn cuộc sống của xã hội, thúc đẩy xã hội
phát triển tích cực.
Thông tin chính trị - xã hội là nguồn chất liệu mà thiếu nó quá trình hoạt động
tuyên truyền miệng của BCV không thể thực hiện được. Chất lượng hiệu quả của bài nói,
của buổi tuyên truyền được bảo đảm bằng những thông tin chính trị - xã hội làm nên nó.
Thông tin chính trị - xã hội là một bộ phận không thể tách rời của hành động tuyên truyền
miệng. Thông tin chính trị - xã hội là nội dung mà hoạt động tuyên truyền của BCV phải
đảm nhận trong quá trình thực hiện chức năng truyền đạt. Thông tin chính trị - xã hội là
nội dung cốt lỗi của một bài nói, buổi tuyên truyền đồng thời là linh hồn của chính quá
trình tuyên truyền miệng.
Thông tin chính trị - xã hội là kết quả của sự phản ánh hiện thực, do vậy thông tin
là yếu tố động. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của thông tin giúp con người tiếp
nhận thông nhanh, nhiều chiều, trình độ nhận thức của con người nói chung của cán bộ,
đảng viên, đoàn viên, hội viên, đoàn thể và nhân dân khá cao, BCV phải dày công nghiên
cứu, đi sâu vào quá trình phát triển cơ sở của chính trị xã hội, sự thay đổi chuyển biến của
đời sống xã hội để khai thác xử lý thông tin nhiều mặt. Từ đó BCV mới có thể hiểu thông
tin chính trị - xã hội trên nhiều khía cạnh, có cơ sở khoa học. Trên cơ sở đó, BCV mới
truyền đạt cho người nghe hiểu.
Thông tin chính trị - xã hội là một trong những thành tố và là nội dung chính trong
hoạt động tuyên truyền của BCV. Đồng thời thông tin chính trị - xã hội đặt ra yêu cầu
BCV phải hoàn thiện phương pháp hình thức và phương tiện tuyên truyền của
mình.Tuyên truyền đường lối Nghị quyết, chính sách của Đảng có hiệu quả hay không
biểu hiện ở năng lực nhận thức, xử lý thông tin và phương pháp truyền đạt thông tin của
BCV. Trong đó, phương pháp có thể làm tăng hoặc giảm giá trị của nội dung thông tin
chứ không thể biến có thành không, không thành có được. Trong quá trình tuyên truyền
miệng của mình, BCV căn cứ vào lượng thông tin chính trị - xã hội cần truyền đạt mà
quyết định phương pháp truyền đạt của mình cho đạt hiệu quả.
Chính thông tin chính trị - xã hội mà người nghe lĩnh hội được là tiêu chí để đánh
giá buổi tuyên truyền của BCV. Không thể có một buổi tuyên truyền thuyết phục nếu
thông tin mà BCV truyền đạt nghèo nàn, đơn điệu. Không thể có BCV giỏi nếu như BCV
chỉ nói lại những thông tin chính trị - xã hội trong nghị quyết, chỉ thị đã có, trong tài liệu
không có sự mở rộng, so sánh, phân tích sâu và chứng minh bằng những thông tin, sự
kiện sinh động của thực tiễn. Tất nhiên cũng không có một đề cương tuyên truyền miệng
tốt khi BCV đưa vào nội dung đề cương tuyên truyền lượng thông tin không hợp lý,
thông tin không bảo đảm tính khách quan, không tuân thủ một trật tự lôgíc của vấn đề.
Đối với đề cương tuyên truyền thông tin chính trị - xã hội, nếu BCV không kịp thời nắm
bắt thông tin, không đặt vấn đề và lý giải cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn những quan