Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Tài chính công bất ổn kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.88 KB, 54 trang )

BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự vận hành mang tính chất chu kì của nền kinh tế Thế giới nói chung và
nền kinh tế Việt Nam nói riêng đã khiến cho lạm phát và thất nghiệp trở thành
căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường và gây ra nhiều tổn thất cho xã
hội. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện này, bất ổn kinh tế vĩ mô đã,
đang và sẽ tiếp tục là vấn đề kinh tế vĩ mô mà tất cả các quốc gia đều phải quan
tâm và đối phó bởi những hậu quả khôn lường mà nó gây ra. Bất ổn kinh tế vĩ
mô ở nhiều cấp độ khác nhau có thể gây ra những hệ quả khác nhau, nhẹ có thể
chỉ là lạm phát, thất nghiệp hay sự đóng băng của thị trường bất động sản, và
nặng hơn có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế, với sự sụp đổ của thị trường tài
chính, thị trường chứng khoán, thâm hụt ngân sách quốc gia hay thậm chí là vỡ
nợ quốc gia và chịu sự chi phối của các nước khác.
Chính vì vậy, một vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách đặt ra cho Chính
phủ các nước đó là tiến hành nghiên cứu để hiểu được bản chất của bất ổn kinh
tế vĩ mô, hiểu được cơ chế tác động của nó đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
cũng như những hệ quả mà nó đem tới, để từ đó có các biện pháp để chủ động
đối phó với các bất ổn kinh tế vĩ mô luôn rình rập đối với nền kinh tế.
Trong chương trình nội dung môn học Tài chính công, nhóm 5 lớp Kh12Nhân sự 01 đã tiến hành nghiên cứu vấn đề bất ổn kinh tế vĩ mô như một thất
bại của thị trường trên các khía cạnh cơ bản nhất với hy vọng phần nào có thể
nêu lên những vần đề cốt lõi, bản chất nhất thuộc về bất ổn kinh tế vĩ mô, từ đó
nhóm cũng có những liên hệ với thực tiễn với thực trạng bất ổn kinh tế vĩ mô
Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất một số giải pháp căn bản để có thể khắc
phục phần nào thực trạng trên.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm có sự tham khảo các tài liệu, sách, báo
trong và ngoài nước với hy vọng mang lại cái nhìn toàn diện nhất cho vấn đề bất
ổn kinh tế vĩ mô, tuy vậy, nhóm cũng không thể tránh khỏi những thiếu xót, hạn
chế, chính vì vậy, nhóm rất mong nhận được sự đánh giá khách quan, thẳng thắn


của Giảng viên bộ môn, cũng như các bạn đọc quan tâm.

Page 1 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. KHÁI NIỆM – NGUYÊN NHÂN CỦA BẤT ỔN KINH TẾ.
1. Khái niệm.

Ổn định kinh tế vĩ mô đề cập đến các biến động ngắn hạn của các biến số
kinh tế vĩ mô như GDP, lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán, thâm hụt ngân
sách. Bất ổn kinh tế vĩ mô có thể ảnh hưởng đến tiềm năng tăng trường dài hạn
do tác động của nó đến sự mong muốn đầu tư. Trước đây, hai thước đo thường
được sử dụng để đo lường ổn định kinh tế vĩ mô là tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ
lạm phát (IFAD, 2010).
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trường
thường xuyên biến động, sản lượng thực tế luôn dao động lên xuống xung
quanh trục sản lượng tiềm năng. Thêm vào đó, nền kinh tế ngày càng mở cửa ra
bên ngoài thì càng chịu ảnh hưởng của các yếu tố biến động của thị trường thế
giới, của các định chế quốc tế, và khoản vay nước ngoài. Chính vì vậy, ổn định
kinh tế vĩ mô ngoài ổn định giá cả và duy trì tăng trưởng còn liên quan đến duy trì
và cải thiện các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối trong cán cân thanh toán
quốc tế (đặc biệt là xuất nhập khẩu), cân đối giữa thu - chi ngân sách nhà nước,
cân đối tiết kiệm - đầu tư, kiểm soát tỷ giá, lãi suất… để giảm bớt biên độ giao
động của chu kỳ kinh doanh.
Không có một khái niệm nào chung cho vấn đề bất ổn kinh tế vĩ mô, tuy
nhiên có thể thấy rằng: Bất ổn kinh tế là một trạng thái của nền kinh tế trong đó
có chứa đựng rất nhiều yếu tố như lạm phát và thất nghiệp tăng cao, thị trường

tài chính sụp đổ, bất động sản đóng băng,…. Và trong đó, các chính sách điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước mà đứng đầu là Chính phủ dường như không phát
huy tác dụng hoặc có nhưng rất hạn chế, chính điều này đã làm cho giá cả hàng
hóa tăng cao, sức mua trong nền kinh tế giảm sút, sản xuất đình đốn, trì trệ, các
vấn đề xã hội khác cũng từ đó mà phát sinh. Có thể thấy bất ổn kinh tế là một
vấn đề mang tính chất chu kì của nền kinh tế, mà đặc biệt là nền kinh tế TBCN.
Tuy vậy, nói như vậy không có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta không có bất ổn, mà có chăng nó chỉ ở dưới các hình thái và
mức độ khác nhau mà thôi.
Có thể thấy, khủng hoảng kinh tế chính là mức độ cao nhất của bất ổn
kinh tế. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị suy sụp
tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai tầng
trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá trình tích
tụ tư bản mới.
2. Nguyên nhân của bất ổn kinh tế.

Bất ổn kinh tế ở cấp độ thế giới và trong nước có thể do nhiều nguyên
nhân khác nhau, tuy nhiên có thể nêu ra một số nguyên nhân chính sau đây:

Page 2 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
2.1. Nguyên nhân khách quan.
- Sự vận hành mang tính chất chu kỳ của nền kinh tế của mỗi một quốc
gia.
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động
của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng
thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ
kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng).

Có thể thấy, bất ổn kinh tế có thể xuất hiện trong cả ba pha trên của nền
kinh tế, tuy nhiên nó sẽ biểu hiện rõ ràng nhất trong pha suy thoái, khi mà các
dấu hiệu như chỉ số lạm phát, thất nghiệp tăng cao, các chính sách tài khóa, tiền
tệ không phát huy tác dụng…..
- Xu hướng Quốc tế hóa, toàn cầu hóa.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho nền kinh tế các nước trong một khu
vực và trên thế giới trở nên phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Chính vì lẽ đó, sự suy
thoái, khủng hoảng kinh tế ở quốc gia, khu vực này cũng có thể gây ảnh hưởng
nghiêm trọng, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế hay nhẹ hơn là các dấu hiệu của
bất ổn kinh tế ở một quốc gia hay khu vực khác. Ví dụ tiêu biểu nhất là cuộc
khủng hoảng thị trường cho vay thế chấp nhà đất ở Mỹ năm 2008 đã nhanh
chóng lan ra các thị trường tài chính, bất động sản, chứng khoán của nước Mỹ,
gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất lịch sử nước Mỹ mấy chục năm
trở lại đây, tuy nhiên cuộc khủng hoảng này không dừng lại ở đó mà nó nhanh
chóng lan ra toàn bộ thế giới và gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như
hiện nay.
- Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khác ít nhiều gây ảnh hưởng đến bất
ổn kinh tế vĩ mô như gia tăng dân số quá nhanh, các vấn đề mang tính chất
quốc tế như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chống khủng bố, chiến tranh….
2.2. Nguyên nhân chủ quan.
Thứ nhất, các cải cách kinh tế trong mỗi nước đã không theo kịp với sự
hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thiếu một khu vực tư nhân mạnh, một thị trường
tài chính sâu và lành mạnh trong khi thị trường nội địa thiếu tự do hóa.
Thứ hai, sai lầm của các Chính phủ trong việc đưa ra các lựa chọn chiến lược
nhằm thích ứng với quá trình hội nhập đã dẫn đến nguồn lực quốc gia bị phân
bổ sai, chủ yếu cho khối doanh nghiệp nhà nước, làm giảm năng suất toàn bộ
nền kinh tế.
Thứ ba, những nỗ lực hội nhập và duy trì tăng trưởng kinh tế trong khi năng
suất nền kinh tế tăng chậm hoặc không tăng đã dẫn đến lạm dụng chính sách
Page 3 of 54



BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
tiền tệ, tài khóa và sau đó là hành chính; và do đó càng làm cho nguồn lực bị
phân bổ méo mó.
Thứ tư, các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính
sách tài khóa, chinh sách tiền tề vì nhiều nguyên nhân đã không đem lại hiệu
quả như mong muốn.

II. BIỂU HIỆN CỦA BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ.
Bất ổn kinh tế chính là một trạng thái của nền kinh tế mà trong đó các
chính sách tài khóa, tiền tệ của Chính phủ không đem lại tác dụng, dẫn đến các
chỉ số của nền kinh tế như lạm phát, thất nghiệp tăng cao, chính điều này làm
cho sản xuất trì trệ, đình đốn, sức mua của thị trường trong nước giảm, đời sống
của người dân gặp nhiều khó khăn….Chính vì vậy có thể thấy, bất ổn kinh tế có
thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và mức độ khác nhau như:
- Chỉ số lạm phát tăng cao, có thể lên đến hai hoặc ba con số, ví dụ như
chỉ số lạm phát năm 2011 của Việt Nam lên tới 18% theo thống kê của Bộ Tài
Chính.
- Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, cao hơn rất nhiều tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
của nền kinh tế ( vào khoảng 6% ).
- Lãi suất cho vay và lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh.
- Thị trường ngoại hối thiếu cạnh tranh, giảm sức hút.
- Thị trường bất động sản đóng băng.
- Thị trường tài chính sụp đổ.
- Thâm hụt ngân sách Quốc gia.
Sản xuất trì trệ đình đồn, sức mua trong nước giảm mạnh.
-…….
Rõ ràng rằng, các biểu hiện của bất ổn kinh tế vĩ mô là hết sức phong
phú, khó có thể liệt kê và nhận biết hết được, tuy vậy, khi nghiên cứu kinh tế

học vĩ mô, người ta thường hay chú ý vào hai biểu hiện chính của bất ổn kinh
tế, đó là lạm phát và thất nghiệp. Chính vì vậy, nhóm sẽ tập trung nghiên cứu
vào hai vấn đề nêu trên với mục tiêu đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về bất ổn
kinh tế vĩ mô.
1. Lạm phát.

1.1.Khái niệm:
1.1.1. Lạm phát là gì?
Lạm phát được định nghĩa là một quá trình giá tăng liên tục, tức là mức
giá chung tăng lên hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá.
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá
chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị
Page 4 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác
thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền
tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người
ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm
vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ thể gây tranh cãi giữa các
nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát
bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả.
Trong thời gian qua, ở các nước phát triển đã có hai trường phái nghiên
cứu về lạm phát phát triển theo những quan điểm khác nhau:
Thứ nhất, học thuyết cơ cấu về lạm phát nói rằng lạm phát xuất hiện do
xung đột về phân phối, được báo hiệu bởi những chuyển dịch tăng giá và một hệ
thống các quy luật hình thành giá làm gia tăng thêm xung đột nêu trên thành
một làn sóng tăng giá mạnh mẽ thông qua cơ chế lan truyền.

Thứ hai, học thuyết của các nhà tiền tệ cho rằng giá tăng nhiều hay ít một
phần do tăng mức cung tiền (L.Taylor).
1.1.2. Một số khái niệm liên quan:
-Thước đo lạm phát: là mối quan hệ giữa lạm phát và chỉ số giá. Hay nói
cách khác lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả
của một lượng lớn các hàng hóa dịch vụ trong một nền kinh tế.
-Chỉ số giá cả, bao gồm:
+Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): là sự tăng lên trên lí thuyết giá cả sinh hoạt
của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được
giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay
không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này
được xem như là “sự thiên lệch” trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh
bởi cự ngang giá sức mua để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai
hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá
cả thế giới nói chung).
+Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ số quan trọng mà một số nước thường
lấy để đo tỉ lệ lạm phát và được xem là để đo lường chi phí liên quan đến rổ
hàng hóa và dịch vụ cụ thể được người tiêu dùng mua.
+Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được
không tính đến giá bổ sung qua đại lí hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là
sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi
các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở
đây cũng có một sự chậm chế điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kì sự tăng
phát sinh nào bởi nó trong CPI.

Page 5 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
+Chỉ số giá hàng hóa bán buôn: Chỉ số giá bán buôn do sự thay đổi trong

giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách
có lựa chọn.
+Chỉ số giảm phát (GDP) được coi là chỉ số phản ánh bình quân giá của
tất cả các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước. Do vậy, chỉ số này có
thể nói là toàn diện hơn chỉ số giá tiêu dùng CPI vì bao quát hết tất cả các loại
hàng hóa và dịch vụ. Chỉ số này được dùng để tính giảm phát GDP danh nghĩa
và tính GDP thực.
Trên đây là một số phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát.
-Thiểu phát: trong kinh tế học là lạm phát ở tỉ lệ rất thấp. Không nên
nhầm lẫn giữa Giảm phát và Thiểu phát. Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền
kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm phát, do đó, trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát
với tỷ lệ mang giá trị âm.

1.2.Phân loại:
Lạm phát thường được chia làm ba loại:
-Lạm phát chấp nhận được: là lạm phát ở mức dưới một con số (không
quá 10%).
-Lạm phát cao: là lạm phát hai con số đến khoảng 50%. Đây là mức lạm
phát báo động gây hậu quả xấu không chỉ cho nền kinh tế mà cả xã hội và đời
sống của người dân.
-Lạm phát phi mã: là lạm phát cao trên 50%. Đây là mức lạm phát phá vỡ
hoàn toàn mọi cân đối và hệ thống tài chính – tiền tệ rối loạn, kinh tế - xã hội có
nhiều biến động xấu.
1.3. Nguyên nhân
1.3.1: Lạm phát do cơ cấu.
Theo học thuyết cơ cấu, nguyên nhân của lạm phát là do sự mất cân đối
về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân phối gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đã
tạo ra căng thẳng thêm các mâu thuẫn đó và dẫn đến lạm phát tăng. Các nhà
kinh tế theo trường phái cơ cấu cho rằng lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi
muốn tăng trưởng cao nhưng tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém.

Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có mối quan hệ không
bình thường trong các cân đối lớn của nền kinh tế như nông nghiệp – công
nghiệp, công nghiệp nặng – công nghiệp nhẹ, sản xuất – dịch vụ, xuất khẩu –
nhập khẩu, tích lũy – tiêu dùng. Thực tế lạm phát ở các nước Châu Mỹ La – tinh
thường gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong bối cảnh từ một nước kém
phát triển với nền kinh tế hướng nội chuyển sang nền kinh tế hướng ngoại, đẩy
Page 6 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
mạnh xuất khẩu. Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế - xã hội do tăng
trưởng kinh tế thường dẫn đến giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được
hoàn chỉnh, các nguồn vật lực có giới hạn, các quan hệ không được đặt trong
một sự cân đối hợp lí, năng lực sản xuất không được khai thác hết, trạng thái
vừa thừa vừa thiếu xuất hiện. Cụ thể, tình trạng mất cân đối thường xuất hiện là:
- Mất cân đối giữa cung và cầu lương thực thực phẩm (cung nhỏ hơn
cầu): là do quá trình đô thị hóa, những người sống ở đô thị có nguồn thu nhập
cao nên làm cho nhu cầu tiêu dùng lương thực thực phẩm tăng lên, nhưng sản
xuất nông nghiệp lại chưa được quan tâm phát triển đúng mức đã làm lượng
cung lương thực thực phẩm bị hạn chế, và kết quả làm cho cầu nhiều hơn cung
quá mức đã đẩy giá lương thực thực phẩm lên cao.
- Ngoại tệ có hạn do nhập nhiều hơn xuất: mất cân đối giữa cung và cầu
ngoại tệ xảy ra đối với những nước nhập khẩu nhiều hơn xuất (thường là nhập
siêu quá cao) và không có luồng ngoại tệ nào khác ngoài xuất khẩu để có ngoại
tệ nhập khẩu đã dẫn đến cán cân thanh toán quốc tế của những nước này lâm
vào tình trạng khó khăn và buộc họ phải phá giá đồng tiền làm cho lạm phát
tăng lên.
- Ngân sách thâm hụt và bị hạn chế do thu được ít nhưng nhu cầu chi cao:
Kinh tế đòi hỏi tăng trưởng nhanh nhưng nguồn vốn trong nước lại hạn chế,
trong đó thu ngân sách có hạn mà nhu cầu chi thì cao nên nhiều nước đã phát

hạnh tiền cho ngân sách vay để đảm bảo chi và đây là một nguyên nhân dẫn đến
lạm phát.
1.3.2: Lạm phát do tiền tệ.
Học thuyết của các nhà tiền tệ cho rằng, lạm phát là một hiện tượng thuần
túy tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế.
Với quan điểm này thì lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào
lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Điều
này biểu hiện ở chỗ đồng tiền nội địa mất giá. Người dân không muốn gửi tiền
vào hệ thống Ngân hàng vì nguyên tắc lãi suất dương thường bị vi phạm không
bảo đảm được giá trị đồng tiền, đồng thời người dân cũng không muốn giữ tiền
vì như vậy đồng tiền sẽ mất giá trị càng nhanh, họ chỉ còn cách là mua hàng hoa
tích trữ hoặc là mua ngoại tệ mạnh. Kết quả là hệ thống Ngân hàng đã thiếu tiền
càng thiếu hơn nên phải phát hành thêm tiền để chi tiêu hoặc đưa vàng cất giữ
ra thị trường mong bảo tồn giá trị đồng tiền họ có. Bên cạnh đó, một số quốc gia
bơm tiền ra để đáp ứng nhu cầu tăng chi tiêu dùng của Chính phủ và xã hội. Do
đó ngoài thị trường thì cung tiền tệ vượt quá mức cầu tiền tệ, và khan hiếm hàng
hóa tăng lên kết quả lạm phát ngày một tăng cao.

Page 7 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
1.3.3: Lạm phát do cầu kéo.
Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối giữa tổng cung và
tổng cầu hàng hóa và dịch vụ. Khi tổng cầu hàng hóa và dịch vụ có khả năng
thanh toán lớn hơn tổng cung hàng hóa và dịch vụ đã đẩy giá tăng lên để thiết
lập một sự cân bằng mới trên thị trường, trong đó tổng cung bằng tổng cầu. Lạm
phát phụ thuộc vào sự co giãn của giá cung hàng hóa và dịch vụ. Cung hàng hóa
và dịch vụ có thể tăng nhanh do tăng giá một chút nếu độ co giãn của giá lớn.
Một mặt, nếu các cơ sở sản xuất đang hoạt động thấp hơn công suất hiện có và

còn nhiều công suất sản xuất chưa được sử dụng thì cung hàng hóa sẽ tăng nhờ
tác động tăng cầu hàng hóa và có thể không gây lạm phát. Mặt khác, nếu có sẵn
ngoại tệ thì nhập khẩu hàng hóa sẽ tăng lên khi tổng cầu hàng hóa tăng, do vậy
cũng có thể không tạo ra tăng giá và cũng sẽ không gây ra lạm phát.
Như phân tích ở trên cho thấy, lạm phát do tổng cầu tăng lên chỉ trong
trường hợp nguồn ngoại tệ để nhập khẩu bị hạn chế, các năng lực sản xuất đã
huy động hết làm cho tổng cung không thể nào tăng lên để cân bằng được với
tổng cầu ở mức giá cố định, buộc giá cả phải tăng lên để tạo cân bằng mới cao
hơn, tức là lạm phát đã xuất hiện.
1.3.4: Lạm phát do chi phí đẩy.
Lạm phát do chi phí đẩy xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài
tác động vào không gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Như chúng ta đều biết, ở hầu hết các nước đang phát triển thường phải nhập một
lượng lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nếu giá của các loại
nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí sản xuất các
sản phẩm sẽ tăng lên, lạm phát xuất hiện khi giá nguyên vật liệu tăng, tiền công
tăng lên cao hơn năng suất lao động bình quân, chi phí khấu hao lớn, máy móc
thiết bị lạc hậu tiêu tốn nhiều nhiên, nguyên liệu. Và để bảo tồn sự tồn tại của
các cơ sở sản xuất trên cơ sở đảm bảo sản xuất có lãi và bù đắp được chi phí bắt
buộc các nhà sản xuất phải đưa giá bán trên thị trường trong nước tăng lên theo
(trường hợp này xảy ra ở các nước đang phát triển khi sản xuất đang ở dạng độc
quyền hoặc bán độc quyền, các quy luật thị trường chưa được phát huy hết).
Đây là tình trạng khi chi phí sản xuất tăng lên quá mức trung bình mà nền kinh
tế có thể chịu đựng được đã đẩy giá tăng lên. Đặc điểm của loại lạm phát này
thường diễn ra trong điều kiện nền sản xuất chưa đạt tới mức giá trị sản lượng
tiềm năng so với năng lực hiện tại, nghĩa là hiệu quả sản xuất thấp.
1.3.5: Lạm phát đẻ ra lạm phát.
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lí sẽ cho rằng tới đây
giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên
cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.


Page 8 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01

1.4. Hậu quả của lạm phát.
-Trên phương diện lí thuyết, nếu lạm phát ở mức độ có thể tiên đoán được
thì có thể tránh được mọi hậu quả xấu có thể xảy ra. Còn nếu lạm phát không
thể tiên đoán được thì hậu quả sẽ là ghê gớm và khó có thể lường trước được.
Điều này biểu hiện ở chỗ:
- Lạm phát cao sẽ kìm hãm tăng trưởng kinh tế: Khi lạm phát xảy ra nó sẽ
làm lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo theo là nguồn tài nguyên, vốn và nguồn nhân lực
không được phân bố một cách có hiệu quả, kết quả là làm cho tăng trưởng chậm
lại
- Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư
dài hạn: nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn hoặc không thể dự đoán được
mức giá cả trong tương lai, kéo theo là không thể biết được lãi suất thực thì
không ai trong số họ dám liều lĩnh đầu tư, nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn,
mặc dù có thể các điều kiện đầu tư khác là khá ưu đãi và hấp dẫn. Tính không
chắc chắn của mức độ lạm phát sẽ đẩy lãi suất thực lên cao bởi chủ nợ muốn có
sự bảo đảm cho mức rủi ro lớn. Mức lãi suất thực cao này sẽ kìm hãm đầu tư và
làm chậm tốc độ tăng trưởng.
- Lạm phát cao khuyến khích người dân quan tâm đến lợi ích trước mắt.
Khi có lạm phát cao xảy ra ở một nước, thay cho việc kí thác trong ngân hàng
để hưởng lãi suất hay đầu tư vào khu vực sản xuất kinh doanh hòng tìm kiếm lợi
nhuận, dân chúng có thể đổ xô đi mua hàng dự trữ vì kì vọng giá hàng hóa còn
tăng nữa. Điều này vô hình dung làm tăng cầu hàng hóa một cách giả tạo và do
vậy càng làm cho lạm phát có nguy cơ bùng nổ đến mức độ cao hơn.
-Lam phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội

của quốc gia. Chính phủ các nước đã từng trải qua lạm phát cao (Indonesia năm
1967, Anh năm 1979…) đều cho rằng không kiểm soát được lạm phát là điều
đáng sợ nhất. Toàn bộ hoạt động kinh tế bị méo mó, biến dạng nghiêm trọng,
gây tâm lí xã hội phức tạp và làm lãng phí ghê gớm trong sản xuất. Đặc biệt khi
lạm phát cao xảy ra, sức mua đối nội của đồng tiền giảm sút, lòng tin của dân
chúng cũng như các nhà đầu tư.
1.5. Ví dụ thực tế (tình hình lạm phát ở việt nam 2014).
Cục Quản lý giá nhận định, năm 2014 vẫn tiềm ẩn nhiều khả năng lạm
phát tăng cao do tác động theo độ trễ của những chính sách tháo gỡ khó khăn
sản xuất kinh doanh năm 2013, cùng với đó là tình hình thiên tai, bão lũ, dịch
bệnh trên cây trồng vật nuôi.
Nhận định này được đưa ra tại hội thảo “Diễn biến giá cả, thị trường ở
Việt Nam năm 2013 và dự báo 2014” do Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) phối
hợp với Viện Kinh tế Tài chính (Bộ Tài chính) tổ chức ngày 30/12.
Page 9 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
Theo Tiến sỹ Vũ Đình Ánh, sang năm 2014, diễn biến thị trường giá cả
một mặt vẫn chịu sự tác động bởi các chính sách quản lý thị trường giá cả
truyền thống cũng như xu thế tăng chậm của tổng cầu đầu tư và tiêu dùng.
Mặt khác, lại chịu sự ảnh hưởng của các chính sách nới lỏng tài khóa như
tăng thâm hụt ngân sách nhà nước lên 5,3% GDP, đồng thời phát hành thêm
170.000 tỷ đồng trái phiếu đầu tư giai đoạn 2011-2015.
Thêm vào đó, nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị
trường và cố gắng thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể buộc dòng tiền vận
động nhanh hơn với quy mô lớn hơn khiến áp lực lạm phát tăng lên.
Đồng quan điểm này, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cũng cho rằng
trong năm 2014, những khó khăn thách thức của nền kinh tế về cơ bản vẫn còn,
kinh tế thế giới dự báo vẫn còn nhiều khó khăn.

Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đang trong tầm kiểm soát, sức mua yếu
nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng giá.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số CPI tháng 12/2013 tăng
0,51% so với tháng 11/2013; tăng 6,04% so với tháng 12/2012 và chỉ số CPI
bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với năm 2012.
Đây là mức tăng thấp nhất ở Việt Nam trong 10 năm qua (2004-2013).
Diễn giả Phạm Minh Thụy, Viện kinh tế-Tài chính (Bộ Tài chính) nhận
định, diễn biến giá cả trong năm 2013 cho thấy CPI đã phá vỡ xu hướng biến
động giá có tính quy luật là “hai năm nhanh, một năm chậm” đã hình thành ở
nước ta trong chín năm trước đó (2004-2012).
Điều này thể hiện sự điều hành, can thiệp của Chính phủ vào thị trường,
giá cả ở Việt Nam đã chủ động, có liều lượng và bài bản hơn.
“Do vậy giá cả không còn bị ‘nhảy múa’ giữa hai thái cực (tăng nhanh rồi
lại chậm, rồi lại nhanh như chín năm trước đó)”, ông Phạm Minh Thụy khẳng
định.
Diễn giả Phạm Minh Thụy cũng nhấn mạnh, diễn biến giá cả khá ổn định
của năm 2013 cho thấy đây là “cơ hội tốt” để Chính phủ thực hiện điều chỉnh
giá các mặt hàng này theo cơ chế thị trường mà vẫn đạt được mục tiêu kiềm chế
lạm phát đã đề ra.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh giá của từng mặt hàng cụ thể cần được cân
nhắc liều, lượng và phân phối một cách hợp lý để tránh tạo ra những cú sốc trên
thị trường và tác động xấu tới đời sống người dân.
Ngoài ra, giá nhiều loại nguyên, nhiên vật liệu (xăng dầu, phân bón, phôi
thép…) trên thị trường thế giới biến động phức tạp, vì vậy, giá các mặt hàng này
ở Việt Nam sẽ biến động theo hướng đó.
Page 10 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01


1.6. Biện pháp.
- Để chống lạm phát không thể áp dụng đơn lẻ giải pháp nào mà phải có
một hệ thống các nhóm giải pháp thì mới mong thành công. Các nhóm giải pháp
này phải đi từ đẩy mạnh sản xuất đến các giải pháp phát triển lưu thông hàng
hóa, các giải pháp chống đầu cơ lũng loạn thị trường, các giải pháp đẩy mạnh
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, tiếp đó là các giải pháp về ngân sách nhà nước,
chi tiêu phải hiệu quả, đúng việc và tiết kiệm, không để bội chi ngân sách nhà
nước quá cao và bù đắp thâm hụt không thể từ phát hành tiền.
- Nhóm giải pháp về tiền tệ phải được chú ý đặc biệt ở mọi phương diện
từ tốc độ tăng tổng phương diện thanh toán, huy động vốn đến hạn mức tín
dụng, tốc độ tăng dư nợ tín dụng, xem xét mức độ tiền tệ hóa qua hệ số nở tiền,
xem xét sự ngưng trệ hay linh hoạt của đồng tiền qua vòng quay tiền tệ. Phải áp
dụng chính sách lãi suất thực dương nhưng không quá cao mà phải ở mức hợp lí
(tỷ lệ lãi suất dương chia cho lạm phát bằng khoảng 20%). Chính sách tỉ giá
phải linh hoạt nhưng không biến động lớn, bảo đảm đẩy mạnh xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu và không làm cho đồng tiền mất giá hoặc lên giá quá mức. Giải
pháp về đầu tư cũng rất quan trọng: đầu tư không được dàn trải, không được
quá mức có thể của nền kinh tế. Đồng thời phải cắt giảm các công trình quá lớn
đem lại hiệu quả thấp và thời gian thi công kéo dài làm thất thoát vốn lớn.
- Nhóm giải pháp điều hành và nhóm giải pháp khắc phục bất cập về cơ
cấu và yếu kém về hành chính cũng cần đặc biệt chú ý. Bằng các giải pháp này
sẽ làm cho các giải pháp khác trở nên có hiệu lực và hiệu quả.
- Chống lạm phát nhưng không quên nhiệm vụ đẩy nhanh phát triển kinh
tế, bảo đảm nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Chống lạm phát đến
một mức nào đó có thể làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại. Nhưng để nền
kinh tế không tụt hậu so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới đòi
hỏi phải đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và nguyên tắc bất di bất dịch.
Như vậy, cần xử lí hài hòa hai mục tiêu không cùng hướng này.
2. Thất nghiệp.


2.1.Khái niệm:
2.1.1: Thất nghiệp là gì?
Vấn đề thất nghiệp đã được nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều nhà khoa
học bàn luận song cũng còn nhiều ý kiến khác nhau nhất về thất nghiệp.
Luật bảo hiểm thất nghiệp Cộng hòa liên bang Đức định nghĩa: “Thất
nghiệp là người lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực
hiện công việc ngắn hạn”.

Page 11 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
Ở Pháp người ta cho rằng: Thất nghiệp là không có việc làm, có điều kiện
làm việc, đang đi tìm việc làm.
Thái Lan, định nghĩa về thất nghiệp khẳng định: “Thất nghiệp là không
có việc làm, muốn làm việc có năng lực làm việc”.
Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là người
trong độ tuổi lao động (dân thành thị) có khả năng lao động, chưa có việc làm,
đang đi tìm việc làm, đăng kí tại cơ quan giải quyết việc làm”.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại
một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm
được việc làm ở mức lương thịnh hành”.
Các định nghĩa tuy có khác nhau về mức độ, giới hạn( tuổi, thời gian mất
việc) nhưng đều thống nhất người thất nghiệp ít nhất phải có 3 đặc trưng:




Có khả năng lao động
Đang không có việc làm

Đang đi tìm việc làm

Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kì chuyển đổi
nền kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Vì vậy tuy
chưa có văn bản pháp quy về thất nghiệp cũng như các vấn đề có liên quan đến
thất nghiệp nhưng có nhiều công trình nghiên cứu nhất định. Những công trình
nghiên cứu bước đầu khẳng định thất nghiệp là những người không có việc làm,
đang đi tìm việc và sẵn sàng làm việc.
Định nghĩa thất nghiệp ở Việt Nam: “Thất nghiệp là những người trong
độ tuổi lao động , có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang không có
việc làm, đang đi tìm việc làm”.
2.1.2: Các khái niệm có liên quan:
- Số người thất nghiệp: là những người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần
tham chiếu đã hội đủ các yếu tố sau đây.
(1) Không làm việc nhưng sẵn sàng và mong muốn có việc làm; và
(2) Đang đi tìm việc làm có thu nhập, kể cả những người trước đó chưa bao giờ
làm việc.

-Tỉ lệ thất nghiệp: là chỉ tiêu biểu hiện tỷ lệ so sánh số người thất nghiệp
với lực lượng lao động (tổng dân số hoạt động kinh tế) trong kỳ.
Công thức tính:
Tỷ lệ thất nghiệp = 100%
Page 12 of 54

Số người không có việc


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
làm


x

Tổng số lao động xã hội
Tử số: Không tính những người không cố gắng tìm việc.

Mẫu số: Tổng số lao động xã hội = Số người có việc làm + số
người không có việc làm nhưng tích cực tìm việc.
Do đặc trưng của nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp của nước ta thường được
tính cho khu vực thành thị theo công thức sau:
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị (%) = {(Số người thất nghiệp khu vực
thành thị)/( Dân số hoạt động kinh tế (LLLĐ) khu vực thành thị)} x 100
2.2. Phân loại:
Thất nghiệp là một hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để hiểu
rõ về nó. Căn cứ vào từng chỉ tiêu đánh giá, ta có thể chia thất nghiệp thành các
loại sau:
2.2.1: Phân theo đặc trưng của người thất nghiệp:
Thất nghiệp là một gánh nặng, nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận
dân cư nào, ngành nghề nào… Cần biết được điều đó để hiểu được đặc điểm,
tính chất, mức độ tác hại… của thất nghiệp trong thực tế. Với mục đích đó có
thể dùng những tiêu thức phân loại dưới đây:
-

Thất nghiệp chia theo giới tính.
Thất nghiệp chia theo vùng, lãnh thổ.
Thất nghiệp chia theo lứa tuổi.
Thất nghiệp chia theo nghành nghề.
Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc.

2.2.2: Phân loại theo lí do thất nghiệp:
-Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở một mức tiền công nào

đó người lao động không muốn làm việc hoặc vì lý do cá nhân nào đó (di
chuyển, sinh con…). Thất nghiệp loại này thường là tạm thời.
-Thất nghiệp không tự nguyện: là thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó
người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái,
cung lớn hơn cầu về lao động…
-Thất nghiệp trá hình (còn gọi là hiện tượng khiếm dụng lao động) là
hiện tượng xuất hiện khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng mà
bình thường người lao động sẵn sàng làm việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng
suất lao động của một ngành nào đó thấp, thất nghiệp loại này thường gắn với
việc sử dụng không hết thời gian lao động.

Page 13 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
Kết cục của những người thất nghiệp không phải là vĩnh viễn. Có những
người (bỏ việc, mất việc…) sau một thời gian nào đó sẽ được trở lại làm việc.
Nhưng cũng có một số người không có khả năng đó và họ phải ra khỏi lực
lượng lao động do không có điều kiện bản thân phù hợp với yêu cầu của thị
trường lao động hoặc do mất khả năng hứng thú làm việc (hay còn có thể có
những nguyên nhân khác).
Như vậy, con số thất nghiệp là con số mang tính thời điểm. Nó luôn biến động
theo thời gian. Thất nghiệp xuất phát từ nhu cầu cần việc làm, có việc rồi lại
mất việc, từ không thất nghiệp trở lên thất nghiệp rồi ra khỏi trạng thái đó. Vì
thế việc nghiên cứu dòng lưu chuyển thất nghiệp là rất có ý nghĩa.
2.2.3: Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp:
-Thất nghiệp tạm thời : là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển
không ngừng của người lao động giữa các vùng, các loại công việc hoặc giữa
các giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Thậm chí trong một nền kinh tế có đủ
việc làm vẫn luôn có sự chuyển động nào đó như một số người tìm việc làm sau

khi tốt nghiệp hoặc di chuyển chỗ ở từ nơi này sang nơi khác; phụ nữ có thể
quay lại lực lượng lao động sau khi sinh con…
-Thất nghiệp có tính cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung- cầu
lao động (giữa các ngành nghề, khu vực…). Loại này gắn liền với sự biến động
cơ cấu kinh tế và gây ra do sự suy thoái của một ngành nào đó hoặc là sự thay
đổi công nghệ dẫn đến đòi hỏi lao động có chất lượng cao hơn, ai không đáp
ứng được sẽ bị sa thải. Chính vì vậy, thất nghiệp loại này còn gọi là thất nghiệp
công nghệ.
-Thất nghiệp do thiếu cầu: Loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu
chung về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là sự suy giảm tổng cầu. Loại
này còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn
liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất
hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi
ngành nghề.
-Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này còn được
gọi theo lý thuyết cổ điển. Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các
lực lượng thị trường và cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao
động. Vì tiền lương không chỉ quan hệ đến sự phân phối thu nhập gắn với kết
quả lao động mà còn quan hệ đến mức sống tối thiểu nên nhiều quốc gia (Chính
phủ hoặc công đoàn) có quy định cứng nhắc về mức lương tối thiểu, sự không
linh hoạt của tiền lương (ngược với sự năng động của thị trường lao động), dẫn
đến một bộ phận mất việc làm hoặc khó tìm việc làm.
Tóm lại, thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu xảy ra trong một bộ
phận riêng biệt của thị trường lao động (có thể diễn ra ngay cả khi thị trường lao
động đang cân bằng). Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi nền kinh tế đi xuống,
Page 14 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
toàn bộ thị trường lao động bị mất cân bằng. Còn thất nghiệp theo lý thuyết cổ

điển do các yếu tố xã hội, chính trị tác động. Sự phân biệt đó là then chốt để
nắm bắt tình hình chung của thị trường lao động.
2.3. Nguyên nhân của thất nghiệp:
2.3.1: Nguyên nhân chung:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp nhưng chủ yếu
do những nguyên nhân sau:
-Do chu kỳ sản xuất thay đổi: Theo chu kỳ phát triển kinh tế, sau hưng
thịnh đến suy thoái, khủng hoảng. Ở thời kỳ được mở rộng, nguồn nhân lực xã
hội được huy động vào sản xuất, nhu cầu về sức lao động tăng nhanh nên thu
hút nhiều lao động. Ngược lại thời kì suy thoái sản xuất đình trệ, cầu về lao
động giảm không những không tuyển thêm lao động mà còn một số lao động bị
dôi dư gây nên tình trạng thất nghiệp. Theo kinh nghiệm của các nhà kinh tế nếu
năng lực sản xuất xã hội giảm 1% so với khả năng, thất nghiệp sẽ tăng lên 2%.
-Do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật: Đặc biệt quá trình tự động hoá quá
trình sản xuất. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, tự động hoá quá trình sản xuất
sẽ tiết kiệm được chi phí, năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt
hơn, giá thành lại rẻ làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Chính vì thế,
các nhà sản xuất luôn tìm cách đổi mới công nghệ, sử dụng những dây chuyền
tự động vào sản xuất máy móc được sử dụng nhiều, lao động sẽ dôi dư. Số lao
động này sẽ bổ sung vào đội quân thất nghiệp. Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật
đồng nghĩa với việc thay thế sức người bằng máy móc thiết bị giúp giảm thiểu
số lượng người làm việc đồng thời tăng năng suất lao động, cũng chính vì vậy
mà lượng người sẽ bị cắt giảm đi, đồng thời tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi hỏi
người lao động cần có trình độ cao hơn, những người có trình độ thấp sẽ bị loại
khỏi nơi làm việc và số lượng người đó sẽ góp phần tăng tỉ lệ thất nghiệp.
2.3.2: Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam:
Giống như các quốc gia khác trên thế giới, VN cũng đang phải đương
đầu với vấn đề thiếu việc làm. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, các doanh
nghiệp buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất và cắt giảm nhân công khiến cho số
người thất nghiệp không ngừng gia tăng. Tỉ lệ thất nghiệp ở nước ta đã tăng từ

2,22% trong năm 2011 lên 2,29% trong 6 tháng đầu năm 2012. Chính vì vậy,
việc làm và thất nghiệp đã và đang là vần đề xã hội cấp thiết đối với nước ta.
Thực tế ở VN, thất nghiệp xuất hiện chủ yếu là do một số nguyên nhân sau:
-Mất cân đối giữa đào tạo và nhu cầu thực tế
Hiện nay, sinh viên tốt nghiệp đại học không dễ gì kiếm được một công
việc phù hợp. Tỉ lệ cử nhân thất nghiệp còn ở mức khá cao. Rất nhiều sinh viên
ra trường làm việc trái ngành nghề mình được đào tạo. Trong khi đó, việc các
doanh nghiệp phải đào tạo lại nhân lực là khá phổ biến. Theo kết quả của cuộc
khảo sát việc làm trên gần 3.000 sinh viên do trường Đại học KHXH-NV và dự
Page 15 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
án Nghiên cứu chính sách hợp tác với Quỹ Rosa - Luxembourg của Đức tiến
hành, có đến 42% sinh viên không đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng, 27 %
không kiếm được việc làm do ngành học không đáp ứng được yêu cầu của thị
trường và có đến18 % số sinh viên được hỏi cho biết họ bị từ chối là do nhà
tuyển dụng không biết ngành học của họ là gì. Có thể thấy, các cử nhân hiện nay
đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm cho mình một công việc phù hợp với
nhu cầu và ngành nghề đào tạo của mình.
Còn đối với những người đã kiếm được việc làm thì hiện tượng “nhảy
việc” cũng không hiếm. Ngoài lý do để có được cơ hội thăng tiến cao hơn và
môi trường làm việc phù hợp hơn thì rất nhiều nhân viên quyết định bỏ việc và
đi tìm một công việc khác là do thu nhập không đáp ứng được nhu cầu sống.
-Do chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, ngày càng có nhiều khu công
nghiệp, khu đô thị mọc lên và đi kèm với đó là diện tích đất dành cho nông
nghiệp ngày càng co lại. Thiếu kiến thức, thiếu chuyên môn trong khi ruộng đất
canh tác lại bị thu hẹp khiến cho đời sống người nông dân gặp nhiều khó khăn,
buộc họ phải rời làng quê để gia nhập đội quân thất nghiệp ở các thành phố lớn,

tìm kiếm việc làm mưu sinh. Chính vì vậy, giải quyết việc làm cho người dân bị
thu hồi đất đã và đang là một vấn đề cần được các cấp chính quyền lưu tâm xem
xét.
-Do tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh ở một số doanh nghiệp.
Sai lầm trong chiến lược kinh doanh sẽ đẩy các doanh nghiệp vào tình
trạng khó khăn, thua lỗ, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn như
hiện nay. Và tái cấu trúc có lẽ là phương án đầu tiên mà người ta nghĩ đến nhằm
đưa công ty thoát khỏi tình trạng nợ nần chồng chất. Tuy nhiên, tái cơ cấu
doanh nghiệp lại là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp. Trường
hợp của tập đoàn taxi Mai Linh là một ví dụ. Sai lầm trong chiến lược kinh
doanh và cấu trúc hoạt động đã đẩy tập đoàn này vào tình trạng thua lỗ, nợ các
cá nhân lên đến 500 triệu đồng. Và để có thể thanh toán khoản tiền này, tập
đoàn Mai Linh dự kiến phải bán 3.000 xe taxi. Điều này đồng nghĩa với việc
hơn 6.000 lao động sẽ thất nghiệp
Theo thống kê của Trung tâm giới thiệu việc làm (TTGTVL) Hà Nội cho
thấy, lượng người thất nghiệp ở Hà Nội đã tăng lên mạnh mẽ trong năm 2011 và
có nhiều dấu hiệu tăng nhanh trong tháng đầu của năm 2012. Năm 2010, số
người đăng ký thất nghiệp là 4.192, sang năm 2011, con số này đã là 16.100
người và tháng 1 năm 2012, đã có 1.467 người đăng ký BHTN.
Theo những số liệu từ BHTN của Trung tâm GTVL Hà Nội thì số lượng
lao động đăng ký BHTN trong tháng 1/2012 đã lên đến con số 1.467 người.
Trong đó, theo thống kê cụ thể, công ty TNHH có số lượng lao động thất nghiệp
đăng ký nhiều nhất lên tới 781 người; công ty cổ phần 529 người và các công ty
Page 16 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
khác là 151 người. Lượng người thất nghiệp tăng cao đã làm cho chi phí trợ cấp
thất nghiệp tăng lên chóng mặt đến mức 7,665 tỷ đồng.
2.4. Biểu hiện thực tế:

- Thiếu việc làm: Đây là vấn đề đáng quan tâm nhất ở Việt Nam.
+ Năm 2011 cả nước có 3,1 triệu lao động đang làm việc dưới 35
giờ/tuần, chiếm 6,1% tổng số lao động có việc làm. Trên 2/3 số lao động này
đang làm việc ở khu vực nông thôn nên tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn
là 7%, cao hơn rất nhiều so với khu vực thành thị (3,8%), cho thấy yêu cầu tạo
thêm việc làm và tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động tại nông thôn, nhất là
việc làm phi nông nghiệp là rất cấp bách.
+ Trong nhóm ngành nông nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm chiếm 69,8%,
nhóm lao động tự làm và lao động gia đình không hưởng lương, thuộc nhóm
việc làm không bền vững với thu nhập thấp không ổn định và điều kiện lao
động không đảm bảo chiếm 71,8%. Và đây cũng là nhóm ngành có tỷ lệ thiếu
việc làm cao nhất.
+ Theo đánh giá của báo cáo Tổng kết, trong 5 năm sau khi gia nhập
WTO, cơ cấu GDP chuyển dịch không rõ nét và không theo xu hướng từ nông –
lâm – thủy sản (NLTS) sang công nghiệp xây dựng (CNXD) và dịch vụ như đã
đặt ra trong Kế hoạch 2006-2010. Đến năm 2011, tỷ trọng khu vực NLTS tăng
1,7 điểm phần trăm so với năm 2007, trong khi đó hai khu vực CNXD và dịch
vụ đều giảm xuống tương ứng là 1,2 điểm phần trăm và 0,5 điểm phần trăm.
Chỉ tiêu kế hoạch NLTS chiếm 15-16% GDP, CNXD 43-44% và dịch vụ 4041% vào năm 2010 đã không đạt được. Nguyên nhân của việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế không như mong muốn chủ yếu là do hai ngành CNXD và dịch vụ
tăng trưởng thấp hơn kế hoạch.
-Thất nghiệp tiếp tục tăng: Trong khi đang có nhiều dấu hiệu cho thấy thị
trường lao động đang ấm dần lên tại các thành phố lớn thì về tổng thể, số lượng
người thất nghiệp chung và thiếu việc làm vẫn có xu hướng gia tăng.
+ Trong năm 2011, ước tính cả nước có 1,393 triệu người thất nghiệp,
tăng hơn 362 nghìn người so với cuối năm 2006. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị tuy
giảm đều, từ 5,1% xuống còn khoảng là 4,1% năm 2011, nhưng vẫn cao hơn ở
nông thôn. Xu hướng này có thể bị phá vỡ do tác động cộng hưởng của suy
giảm kinh tế và một phần biểu hiện lạm dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
+ Những vùng kinh tế phát triển hơn như Đông Nam bộ thường có tỷ lệ

thất nghiệp cao hơn. Thất nghiệp vẫn là vấn đề chủ yếu đối với thanh niên. Một
bộ phận đáng kể lao động có chuyên môn kỹ thuật bị thất nghiệp. Ở mức độ
nhất định, điều này phản ánh sự bất cập của hệ thống giáo dục trong việc đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Page 17 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
+ Trong quý 1, số lao động đăng ký thất nghiệp đang có xu hướng chững
lại ở nhiều tỉnh, thành phố. Hà Nội có 4.221 người đăng ký thất nghiệp,
TP.HCM có 16.200 người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp…
+ Ở một số lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, thực tế chưa có gì sáng sủa.
Tại hội nghị tổng kết công đoàn tổng công ty Vinaconex mới tổ chức, công đoàn
tổng công ty này thông báo, số lao động của tổng công ty đã giảm 10% trong
năm qua tương đương gần 1.700 người. Tình trạng nợ lương vẫn đang diễn ra ở
nhiều công ty con. Theo tổng cục thống kê, nhiều ngành có lượng hàng tồn kho
tăng cao như sản xuất xe và động cơ, giường tủ bàn ghế, hoá chất và sản phẩm
hoá chất, thuốc hoá dược và dược liệu… cho thấy nhu cầu sử dụng lao động sẽ
giảm ở những ngành này.
2.5. Giải pháp khắc phục đối với tình trạng thất nghiệp.
Thời gian qua, trước nguy cơ thất nghiệp gia tăng làm nảy sinh tình trạng
bất ổn xã hội, chính phủ các nước đã liên tiếp đưa ra các giải pháp khác nhau để
giải quyết việc làm và trợ cấp xã hội cho người lao động.
2.5.1: Trên thế giới:
-Tại Trung Quốc, chính phủ nước này hy vọng chương trình kích thích trị
giá gần 600 tỷ USD với mức đầu tư lớn vào hạ tầng cơ sở có thể giúp tạo hàng
triệu việc làm mới. Chính phủ Trung Quốc coi bình ổn thị trường việc làm là
mục tiêu ưu tiên trong thời gian tới vì thất nghiệp tăng đang đe dọa gây ra các
vấn đề xã hội. Chính phủ đã công bố một loạt biện pháp nhằm ngăn chặn thất
nghiệp và hỗ trợ những người mất việc làm, đặc biệt là đối với số lao động nông

thôn ra thành phố. Trong đó có việc cung cấp thông tin về việc làm cho số lao
động này và đào tạo bỏ sung cho những người về quê tìm việc. Hơn nữa, mỗi
năm ở Trung Quốc sẽ có thêm từ 6 đến 7 triệu sinh viên mới tốt nghiệp tham gia
lực lượng lao động. Trước tình hình này chính phủ đề nghị trả toàn bộ học phí
cho những sinh viên mới ra trường nếu họ chấp nhận làm việc vùng nông thôn.
-Tại Nhật Bản, Chính phủ cũng dành việc làm ở nông thôn cho giới trẻ
thất nghiệp, coi đó là cách tạo dựng một thế hệ nông gia mới.
-Tại Thái Lan, Chính phủ cam kết thưởng lớn hơn cho nông gia trong
khuôn khổ chương trình kích thích kinh tế đem lại niềm hy vọng cho hàng
nghìn người thất nghiệp.
-Tại Pháp, Chính phủ đã công bố kế hoạch phục hồi kinh tế trị giá 26 tỷ
Euro, trong đó có các gói giải pháp hỗ trợ đầu tư, tạo công ăn việc làm và hạn
chế những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đối với kinh tế
trong nước.
-Tại Mỹ, việc kiềm chế số người thất nghiệp tăng dần hàng tháng được
coi là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của chính quyền Tổng thống Obama. Ngày
17/2/2009, ông Obama đã ký ban hành luật tái đầu tư và khôi phục nước Mỹ,
Page 18 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
với trị giá 787 tỷ USD. Gói kích thích này sẽ tạo ra và bảo vệ 3,5 triệu việc làm
trong 2 năm tới, với 90% việc làm trong khu vực tư nhân.
2.5.2: Ở Việt Nam:
Việt Nam cũng đã đưa ra rất nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình trạng
thất nghiệp như sau:
-Trước hết, nên có sự đổi mới phương pháp đào tạo ở bậc đại học và cao
đẳng nhằm đáp ứng đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời cung cấp cho sinh
viên không chỉ kiến thức mà còn là các kỹ năng thiết yếu cho công việc tương
lai của mình. Thêm vào đó, nên xem xét lại chỉ tiêu tuyển sinh ở bậc cao đẳng đại học sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, nâng cao khả năng dự báo

về nhu cầu lao động trong ngắn hạn và dài hạn của nền kinh tế nói chung và mỗi
ngành nghề nói riêng để các học sinh, sinh viên có lựa chọn phù hợp. Ngược lại,
sinh viên cũng phải xác định một mục tiêu rõ ràng cho tương lai, hoạch định
cho bản thân một kế hoạch học tập cụ thể để có thể tích lũy được những kiến
thức, kỹ năng cần thiết. Đồng thời, giới trẻ nên có một cái nhìn nghiêm túc về
việc chọn ngành nghề học sao cho phù hợp với đam mê và khả năng của mình,
không nên chạy theo số đông, dễ gây ra tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm
sau khi tốt nghiệp. Trong thực tế hiện nay cũng có nhiều câu chuyện "dở khóc,
dở cười" khi nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp với tấm bằng loại giỏi nhưng
vẫn không xin được việc. Nguyên nhân do ngành học không đáp ứng nhu cầu
tuyển dụng của doanh nghiệp, hoặc thiếu nhiều kỹ năng trong nghề nghiệp. Vì
thế nhiều chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng hệ thống giáo dục Việt Nam
cần gắn kết các trường học với các doanh nghiệp. Nhằm đào tạo đúng với như
cầu doanh nghiệp, tránh tình trạng thất nghiệp diễn ra hiện nay.
-Đối với những dự án xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị… phải thu
hồi đất canh tác, chính quyền các địa phương nên tạo cơ hội tìm kiếm việc làm
cho họ thông qua các hoạt động dạy nghề, đào tạo nhân lực. Nhờ đó mà nông
dân có thể có được một công việc khác, tạo nguồn thu nhập cho bản thân và gia
đình, ví dụ như : may mặc, thủ công mỹ nghệ, công nhân cơ khí trong các khu
công nghiệp, …
-Thêm vào đó, Chính phủ cũng nên có các biện pháp hỗ trợ cho doanh
nghiệp trong việc đầu tư, mở rộng sản xuất để tạo nhiều cơ hội việc làm cho
người lao động. Ví dụ như: hạ lãi suất ngân hàng giúp cho doanh nghiệp tiếp
cận được nguồn vốn vay hay giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tạo động lực
cho doanh nghiệp đầu tư, thúc đẩy sản xuất.
- Thực hiện việc lồng ghép các chương trình mục tiêu về việc làm với các
chương trình, dự án khác nhằm nâng cao chất lượng cung, điều chỉnh cung lao
động phù hợp cầu lao động, đẩy mạnh kết nối cung - cầu và trực tiếp làm tăng
quy mô việc làm hay gián tiếp tạo ra việc làm mới.
- Tư vấn nghề nghiệp và giới thiệu việc làm, tổ chức sàn giao dịch việc

làm; phát triển thông tin thị trường lao động; đổi mới công tác dạy nghề theo
Page 19 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
hướng đáp ứng nhu cầu thực tế trước mắt và lâu dài; hỗ trợ doanh nghiệp trong
việc đào tạo lại và tạo điều kiện cho người lao động học tập suốt đời để không
lạc hậu trước công nghệ mới và đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
-Tổ chức các ngày hội việc làm cũng tạo cơ hội cho người lao động tiếp
cận với các nhà tuyển dụng và giúp họ tìm được một công việc phù hợp, góp
phần giảm tỉ lệ thất nghiệp của quốc gia.
Như vậy vấn đề thất nghiệp là vấn đề nan giải của bất kỳ một quốc gia
nào, vào bất cứ thời điểm nào, đều có tình trạng thất nghiệp, kể cả khi nền kinh
tế của quốc gia đó đang trong tình trạng khỏe mạnh. Và chính vì vậy đòi hỏi các
nước phải nhìn nhận vấn đề thật sáng suốt, và đưa ra những giải pháp tốt nhất
nhằm khắc phục được tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao
động.

III. ẢNH HƯỞNG CỦA BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ.
1. Ảnh hưởng tiêu cực.

- Đến tình hình chính trị - xã hội.
+ Thất nghiệp tăng cao làm gia tăng các vấn đề xã hội như chộm cắp, ma
túy, mại dâm …đặc biệt là trong các khu công nghiệp, các khu vực đô thị.
+ Ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người nghèo khi mà giá cả
các mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống đều tăng giá, làm sức mua của người lao
động giảm mạnh.
+ Lạm phát có tác động lớn hơn đối với người nghèo và các đối tượng dễ
bị tổn thương, do họ phải dành một phần lớn hơn trong chi tiêu của mình cho
thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu khác so với các gia đình khá giả. Theo số

liệu Khảo sát Mức sống Hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 2008, bộ phận
dân cư nghèo nhất dành 65% chi tiêu của gia đình họ cho thực phẩm, trong khi
bộ phận dân cư giàu nhất chỉ chi 45%.
+ Giá thực phẩm tăng cũng tác động đến an ninh lương thực. Ở Việt Nam
điều này thể hiện rõ trong giai đoạn 2007-2008 và các tháng đầu năm 2011.
Theo các số liệu được trình bày tại một hội thảo gần đây của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, ước tính có 838.600 người dân thuộc các hộ gia đình làm nông nghiệp
bị thiếu ăn trong 2 tháng đầu năm 2011, đây là con số lớn nhất kể từ năm 2007
và gần gấp đôi con số của cùng kỳ năm 2010.
+ Việc lạm phát quay trở lại mức cao hiện nay đã tác động đến các mối
quan hệ lao động và điều kiện lao động. Kể từ đầu năm, số lượng các cuộc đình
công đã tăng lên đáng kể, với trên 200 cuộc đình công được ghi nhận trong quý
I năm 2011.
+ Về lâu dài, lạm phát cũng có tiềm năng khiến cho nhiều hộ gia đình
phải quay trở lại tình trạng nghèo đói. Ví dụ, những dự báo dựa trên số liệu
Page 20 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
Khảo sát VHLSS vào các năm 2002, 2004, và 2006 gợi ý rằng tỉ lệ nghèo trên
thực tế có thể đã tăng 1,5% do hậu quả của lạm phát vào năm 2008. Điều này
được thể hiện qua tỉ lệ giảm nghèo chậm lại trong giai đoạn 2006-2008, trong
đó tỉ lệ nghèo chỉ giảm 1,5%, từ 16% năm 2006 xuống còn 14.5% năm 2008; so
với mức giảm 3,5% giữa các năm 2004 và 2006 và 19,5% giữa các năm 2002 và
2004.
- Đến tình hình kinh tế:
+ Lạm phát tăng cao làm cho sức mua giảm, đồng thời giá nguyên liệu
đầu vào cho sản xuất của các doanh nghiệp tăng mạnh, chính vì vậy đã dẫn đến
tình trạng sản xuất trì trệ, hoặc nghiêm trọng hơn là tình trạng các doanh nghiệp
phá sản, dừng sản xuất.

+ Thị trường tài chính, tiền tệ bị lũng loạn, các chính sách điều tiết nền
kinh tế của Chính phủ không phát huy tác dụng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới
toàn bộ các ngành kinh tế khác của đất nước.
+ Bất ổn kinh tế nếu không được ngăn chặn kịp thời có thể dẫn đến khủng
hoảng kinh tế và khi đó hậu quả mang lại cho nền kinh tế sẽ là hết sức nghiêm
trọng.
2. Ảnh hưởng tích cực.

Bất ổn kinh tế bên cạnh việc đưa đến những hệ quả hết sức tiêu cực như
trên, cũng mở ra cơ hội cho nền kinh tế trên một số khía cạnh chính sau đây:
- Thứ nhất, bất ổn kinh tế chính là liều thuốc thử quan trọng nhất đối với
các doanh nghiệp kinh tế, theo đó, các đơn vị, doanh nghiệp kinh tế làm ăn
không hiệu quả, quản lý không khoa học sẽ bị thị trường đào thải, trong khi đó
các doanh nghiệp vững mạnh, quản lý tốt sẽ tiếp tục hoạt động bền vững.
- Thứ hai, bất ổn kinh tế vĩ mô chính là cơ hội để Chính phủ các nước
nhận ra những hạn chế cố hữu trong nền kinh tế đất nước mình, cũng như là hạn
chế trong các chính sách quản lý của mình, để từ đó có các chính sách, công cụ
điều chỉnh sao cho hợp lý hơn.
- Thứ ba, bất ổn kinh tế buộc các Chính phủ các nước phải có các chính
sách ổn định kinh tế và xã hội, qua đó cũng là cơ hội để cải thiện đời sống
người dân, đặc biệt là người nghèo, tầng lớp chịu nhiều ảnh hưởng nhất của bất
ổn kinh tế vĩ mô.
- Thứ tư, trên phạm vi khu vực và quốc tế, bất ổn kinh tế vĩ mô chính là
cơ hội để các nước có lợi thế về khoa học, kỹ thuật, quản lý, tài nguyên vươn
lên mãnh mẽ, đồng thời cũng giúp dần phân công hóa thị trường lao động quốc
tế theo lợi thế của mội quốc gia, khu vực.

Page 21 of 54



BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01

IV. CÁC GIẢI PHÁP NGĂN CHẶN BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ.
Bất ổn kinh tế là một vấn đề hết sức khó khăn và nan giải đối với các
quốc gia trên thê giới nói chung và Việt Nam nói riêng, để giải quyết vấn đề
này, chúng ta không chỉ đơn giản sử dụng một vài chính sách kinh tế đơn thuần,
mà cần có sự phối kết hợp các chính sách kinh tế - chính trị - xã hội – giáo dục
một cách triệt để và đồng bộ, cũng như là cần có sự tham gia, vào cuộc của các
cấp, các ngành để đem lại hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, một số chính sách có
thể đưa ra như sau:
- Chính phủ tiếp tục sử dụng hợp lý chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
nhằm mục tiêu ổn định kinh tế.
- Quản lý nhà nước là không can thiệp trực tiếp vào việc điều hành thị trường tài
chính, tín dụng, thị trường chứng khoán, mà chú trọng việc kiểm tra, giảm sát
hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác kiểm soát quy trình, giảm sát việc cho vay bất động sản
của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng.
- Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, tránh đầu tư tràn lan,
chồng chéo vào các dự án không mang lại hiệu quả.
- Phát triển bền vững doanh nghiệp thông qua các biện pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp, tích cực thực hiện các biện pháp quản lý rủi
ro, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực và công tác dự báo thị trường.
- Tiếp tục tăng cường pháp chế, tuẩn thủ, đảm bảo việc thực thi pháp luật hiệu
quả, đóng góp vào việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh, cơ chế thị trường phát
triển lành mạnh.
- Áp dụng các chính sách hạn chế thất nghiệp, giảm lạm phát.
- Tăng cường công tác giáo dục – đào tạo, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
- Thực hiện các chính sách ổn định xã hội, đặc biệt là trong thời kì nền kinh tế
khủng hoảng.

Tuy nhiên, để cho công tác ổn định kinh tế vĩ mô đem lại hiệu quả cao
nhất, thực tế chứng minh rằng chúng ta không thể áp dụng một cách tràn lan tất
cả các giải pháp trên mà cần có sự chọn lựa, tập trung cao độ vào một số giải
pháp nhất định, mà trước hết đó là các giải pháp tác động vào nguyên nhân sâu
xa nhất của bất ổn kinh tế, đó chính là hai giải pháp về chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ.
1. Chính sách tài khóa.

Để ổn định nền kinh tế, Nhà nước phải đưa ra các chính sách kinh
tế vĩ mô hướng đến các sản lượng, việc làm, ổn định giá cả, kinh tế đối
ngoại và phân phối công bằng. Một trong những chính sách chủ yếu đang
Page 22 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
được Chính phủ các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nói chung
và Việt Nam nói riêng sử dụng là Chính sách tài khóa.

1.1. Khái niệm.
Chính sách tài khóa (fiscal policy - CSTK) trong kinh tế học vĩ mô là
chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư công cộng để tác động tới nền kinh
tế. Chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ
mô quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh tế.
Chính sách tài khóa: Hệ thống các chính sách của chính phủ về tài chính,
thường được hoạch định và thực hiện trọn vẹn trong một niên khóa tài chính,
nhằm tác động đến các định hướng phải triển của nền kinh tế, thông qua những
thay đổi trong kế hoạch chi tiêu chính phủ và chính sách thu ngân sách (chủ yếu
là các khoản thu về thuế).
1.2. Mục tiêu.
Mục tiêu của CSTK sẽ được thiết lập dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế

xã hội của đất nước nhằm ổn định nền kinh tế bằng những thay đổi về mức độ
và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ qua đó tác động đến các biến
số sau trong nền kinh tế: tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế, kiểu phân bố
nguồn lực, phân phối thu nhập.
1.3. Các công cụ của chính sách tài khóa.
1.3.1.Chi tiêu công
a/ Khái niệm
Page 23 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
Chi tiêu công là tổng hợp các khoản chi của chính quyền trung ương,
chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước và của toàn dân khi cùng
trang trải kinh phí cho các hoạt động do chính phủ quản lý.
b/ Đặc điểm
- Đặc điểm nổi bật là nhằm phục vụ cho lợi ích chung cho cộng đồng dân
cư ở các vùng hay phạm vi quốc gia.
- Chi tiêu công luôn gắn liền với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ
kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước thực hiện.
- Các khoản chi tiêu công do chính quyền nhà nước các cấp đảm nhận
theo nội dung đã được quy định trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và
các khoản chi tiêu công này nhằm đảm bảo cho các cấp chính quyền thực hiện
chức năng quản lý phát triển kinh tế- xã hội.
- Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính công cộng.
- Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không
trực tiếp và thể hiên ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng
của những địa chỉ cụ thế đều được hoàn lại dưới hình thức các khoản chi tiêu
công.
1.3.2. Hệ thống thuế
a/ Khái niệm

Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (như giao dịch,
tài sản) nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu
nhập, hay nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.
b/ Đặc điểm
- Thuế là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
- Thuế dựa vào thực trạng của nền kinh tế (GDP, chỉ số tiêu dùng, chỉ số
giá sản xuất, thu nhập, lãi suất..).
- Thuế được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ
yếu.
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước (NSNN), là công cụ
quan trọng để phân phối lại thu nhập, góp phần tích cực giảm bội chi NSNN,
giảm lam phát góp phần ổn định trật tự xã hội.
- Thuế là công cụ quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô: khuyến khích hoặc
kìm hãm hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế theo từng
mực tiêu chung của đất nước, thúc đẩy tăng cường đầu tư vốn và lành mạnh hóa
thị trường.
Page 24 of 54


BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ-NHÓM 5 KH12 NHÂN SỰ 01
- Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa cá thành phần kinh tế ( công
bằng - thuế suất).
1.4. Các kiểu chính sách tài khóa.
1.4.1.Tài khóa mở rộng.
1.4.2. Tài khóa thắt chặt.
Nội dung của hai chính sách tài khóa trên được thể hiện dưới bảng
sau:
Tiêu chí


Chính sách tài khóa
nới lỏng
Là chính sách tăng
cường chi tiêu của Chính
phủ (G>T) thông qua chi
tiêu chính phủ tăng cường
hoặc giảm bớt nguồn thu từ
thuế hoặc cả hai
- Tăng chi tiêu của
chính phủ.
+ Tăng chi chuyển
nhượng (chi không cần
hàng hóa đáp lại như cho
lương hưu, chi trợ cấp, chi
bảo hiểm).
- Giảm thuế.
- Vừa tăng chi tiêu
chính phủ vừa giảm thuế.
Giảm thất ngiệp và
mở rộng tổng cầu

Khái niệm

Công cụ

Mục tiêu

Trường
áp dụng


hợp

Chính sách tài
khóa thắt chặt
Là chính sách
trong đó chi tiêu của
chính phủ ít đi thông qua
việc tăng thu từ thuế hoặc
giảm chi tiêu hoặc kết
hợp cả hai
- Giảm chi tiêu
chính phủ.
+ Giảm chi chuyển
nhượng.
- Tăng thuế.
- Hoặc vừa giảm
chi tiêu chính phủ vừa
tăng thuế.
Giảm lạm phát

Khi sản lượng nền
Khi sản lượng nền
kinh tế ở mức độ thấp so kinh tế vượt quá sản
với sản lượng tiềm năng lượng tiềm năng (Y>Y*)
(Y
1.5. Tác động của chính sách tài khóa.
1.5.1.Tác động tích cực

Page 25 of 54



×