sở giáo dục & đào tạo hưng yên
Phòng Giáo dục - Đào tạo Phù Cừ
Kinh nghiệm
Một số biện pháp áp dụng
Dạy dạng bài thực hành thí nghiệm môn Khoa học lớp 5
ở trường tiểu học Minh Hoàng.
- Kết quả xếp loại Cấp trường
Cấp huyện
Cấp tỉnh
2
Mục lục
Phần I: đặt vấn đề
5
A- Lí do chọn đề tài
5
1 - Cơ sở lí luận
2.- Cơ sở thực tiễn
3- Kết luận
B- Mục đích của đề tài
8
C- Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
8
1 - Đối tượng nghiên cứu
2. Khách thể nghiên cứu
2.- Phạm vi nghiên cứu
D- Phương pháp nghiên cứu
9
Phần II: Nội dung thực hiện đề tài
9
A- Hệ thống chương trình Khoa học lớp 5.
10
B- Những điểm cần khắc phục của học sinh khi học những bài
Khoa học thực hành thí nghiệm.
Phần III: Biện pháp thực hiện
12
13
1. Biện pháp dùng phương pháp "Bàn tay nặn bột" làm phương pháp
chủ đạo trong quá trình giảng dạy.
13
2- Biện pháp áp dụng một số kĩ thuật dạy học mới vào dạy Khoa học 5.
21
3- Biện pháp áp dụng một số trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh
24
trong các giờ dạy Khoa học.
4- ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy.
26
5- Tiếp tục xây dựng hình mẫu " Những đôi bạn cùng tiến" và phối hợp
với gia đình học sinh giúp đỡ các em trong học tập.
31
6- Một số điều cần lưu ý khi dạy các bài học Khoa học đã được điều chỉnh. 31
Phần IV: Kết quả thực hiện
32
Phần V: Những kinh nghiệm được rút ra
36
3
Phần VI: Những vấn đề bỏ ngỏ, hướng tiếp tục nghiên
cứu và điều kiện thực hiện đề tài
37
Phần VII: Kiến nghị - Đề xuất
38
Phần VIII: Kết luận chung
38
Tài liệu tham khảo
40
4
Kinh nghiệm:
Một số biện pháp áp dụng
Dạy dạng bài thực hành thí nghiệm môn Khoa học lớp 5
ở trường tiểu học Minh Hoàng.
********************
Phần I: Đặt vấn đề
A. Lí do chọn đề tài:
1. Cơ sở lí luận:
Chúng ta đều biết mục tiêu của nhà trường tiểu học là giáo dục toàn diện
cho trẻ từ 6-11 tuổi. Tất cả các em học sinh khi bước vào ngôi trường tiểu học,
ngoài việc học Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, các em còn được các thầy cô trang bị
kiến thức về kĩ năng sống, vốn hiểu biết về tự nhiên- xã hội thông qua các môn
học khác. Và ngay từ buổi đầu ấy, các em đã c tỡm hiu v c th con
ngi, v gia ỡnh, v cuc sng xung quanh, v th gii ng- thc vt, v
thi tit, khớ hu thụng qua nhng hỡnh nh thõn thin v p mt. Lên đến lớp
4, môn Tự nhiên- Xã hội được tách thành 3 môn: Khoa học, Lịch sử và Địa lí.
Chương trình Khoa học lớp 4 cung cấp cho học sinh một số kiến thức về con
người và sức khoẻ, vật chất - năng lượng và một số hiểu biết về sự sống của
động, thực vật. Lên đến lớp 5, môn Khoa học tiếp tục cung cấp cho học sinh
một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực như sự trao đổi chất, nhu cầu
dinh dưỡng và sự sinh sản lớn lên của cơ thể người, cách phòng tránh một số
bệnh thông thường, bệnh truyền nhiễm ở cơ thể người; sự trao đổi chất, sự sinh
sản của thực vật, động vật; đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật
liệu và nguồn năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. Nh vy mụn
Khoa học là mụn va cha cỏc yu t xó hi va cha cỏc yu t t nhiờn. Qua
môn học này, người giáo viên không chỉ giáo dục cho các em lòng say mê
Khoa học mà còn giáo dục cho các em lòng yêu quê hương, đất nước, yêu con
người, biết tự bảo vệ bản thân mình và biết chia sẻ cùng cộng đồng; biết sống
tiết kiệm và biết làm những việc làm hữu ích cho quê hương, đất nước Trong
toàn bộ lượng kiến thức cần cung cấp cho học sinh có nhiều bài thuộc chủ đề
Vật chất và năng lượng, Thực vật và động vật, học sinh cần được làm thực hành
5
thí nghiệm để tìm ra kiến thức mới. Trong trường hợp làm thí nghiệm, việc tạo
cơ hội cho học sinh tham gia luyện tập và phát triển kĩ năng lập kế hoạch và
thiết kế thí nghiệm rất quan trọng. Thí nghiệm thành công đồng nghĩa với việc
học sinh có thể chiếm lĩnh kiến thức mới một cách thuận lợi. Chính vì vậy, từ
khâu lựa chọn, chuẩn bị dụng cụ cho đến việc tiến hành thí nghiệm cần được
người giáo viên chuẩn bị chu đáo. Việc phối hợp tốt các phương pháp dạy học
trong một giờ dạy Khoa học cũng là yếu tố quyết định mang đến sự thành công
cho một giờ dạy.
2. Cơ sở thực tiễn:
Những năm gần đây, tôi được phân công giảng dạy lớp 5, ban đầu tôi
cho rằng môn Khoa học là môn dễ học, dễ nhớ so với các môn Lịch sử, Địa Lí.
Học sinh của tôi thường thích học Khoa học nhưng qua nghiên cứu thực tế, tôi
thấy các em thường không hiểu sâu kiến thức. Bí quyết để các em có thể làm
được các bài kiểm tra là học thuộc phần ghi nhớ của sách giáo khoa. Bởi vậy,
điểm bài thi môn Khoa học của các em vào cuối năm học không cao, vốn hiểu
biết của các em về thế giới Khoa học còn rất hạn chế. Những em học sinh khá
giỏi đa số học bài với mục đích là để có được điểm khá, điểm giỏi để đạt học
sinh tiên tiến, học sinh giỏi. Một số em học sinh yếu thường nhút nhát và không
muốn tham gia các hoạt động nhóm như làm thực hành thí nghiệm hoặc thảo
luận cùng bạn để tìm ra kiến thức mới của bài. Dụng cụ thí nghiệm dành cho
các giờ dạy Khoa học thiếu nhiều; học sinh tiếp thu bài một cách thụ động; tất
cả các thí nghiệm mà các em được làm đều do giáo viên chuẩn bị, học sinh làm
theo. Và từ những thí nghiệm do giáo viên thiết kế, học sinh thực hành rút ra
kiến thức mới. Tôi đã nghiên cứu và tìm ra những nguyên nhân sau:
* Về phía thầy:
- Khi giảng dạy, người giáo viên đã khai thác hết những kiến thức cơ bản
ở SGK , có sự chuẩn bị cho các thí nghiệm cần thiết của bài song do điều kiện
cơ sở vật chất của nhà trường còn chưa đáp ứng được đầy đủ, đồ dùng dạy học
cho giáo viên còn thiếu nên việc thực hành thí nghiệm đôi lúc không thực hiện
được. Giáo viên phải mô tả thí nghiệm cho học sinh dự đoán kết quả và giải
thích, kết luận kiến thức. Chính vì vậy, các em sẽ hiểu bài không sâu, những
6
khái niệm đơn giản về khoa học cũng trở thành trừu tượng đối với các em.
Ví dụ: Khi dạy bài Lắp mạch điện đơn giản, trong phòng đồ dùng của
nhà trường thiếu dụng cụ thực hành thí nghiệm cho giáo viên và học sinh. Vậy
người giáo viên phải làm thế nào để tất cả học sinh đều có đủ những dụng cụ thí
nghiệm cần thiết?
- Để có thể dễ dàng đạt được mục tiêu của bài dạy, giáo viên thường chuẩn
bị sẵn các thí nghiệm theo tiến trình của SGK, sau đó yêu cầu học sinh thực
hành theo sự chỉ dẫn của mình, học sinh chỉ việc thực hành tìm ra kiến thức mới
thông qua thí nghiệm. Chính vì vậy, học sinh không có cơ hội tham gia lựa
chọn thí nghiệm, đề xuất thí nghiệm.
Ví dụ: Khi học bài Sự sinh sản của thực vật có hoa, phần hoạt động 2,
học sinh tìm hiểu về đặc điểm của hoa thụ phấn nhờ côn trùng và hoa thụ phấn
nhờ gió; thông thường giáo viên cho học sinh đọc nội dung SGK, quan sát tranh
ảnh hoặc các loài hoa thật do giáo viên và một số học sinh sưu tầm được để rút
ra nội dung kiến thức. Như vậy từ việc lựa chọn thí nghiệm, chuẩn bị dụng cụ
thí nghiệm đến tiến trình thí nghiệm đều được thực hiện theo sự sắp xếp của
giáo viên, học sinh dù được trực tiếp thực hành nhưng các em chưa được phát
huy cao độ khả năng xây dựng bài của mình.
- Thời gian giảng dạy môn Khoa học theo quy định chỉ có 2 tiết/tuần;
trong khi đó môn Khoa học lại có lượng kiến thức rất lớn, thời gian dành cho
mỗi tiết dạy chỉ có 35 phút nhưng việc thực hành làm thí nghiệm lại đòi hỏi
phải có thời gian. Chính vì vậy, thực tế cho thấy, cho dù người giáo viên đã cố
gắng rất nhiều trong giảng dạy song để có thể đưa ra được một giải pháp hữu
hiệu nhất cho giờ dạy Khoa học của mình thì cần phải có thời gian nghiên cứu,
được trải nghiệm qua thực tế giảng dạy.
*Về phía học sinh:
- Thứ nhất: Học sinh tiểu học dù có khả năng phát huy tính tích cực của
mình trong việc tham gia lựa chọn, đề xuất thí nghiệm trong mỗi giờ dạy Khoa
học nhưng vì chưa có cơ hội thực tế nên các em vẫn tiếp thu bài theo những
phương pháp truyền thống mà giáo viên áp dụng từ trước đến nay.
- Thứ hai: Nhận thức của các em học sinh không đồng đều nên dẫn đến
7
tình trạng một số học sinh yếu cho dù cùng được tham gia hoạt động lĩnh hội
kiến thức giống như các bạn nhưng vẫn không đủ tự tin để có thể tham gia các
hoạt động thực hành thí nghiệm trong các giờ học; thậm chí có em còn nản lòng
làm việc riêng, không tham gia thảo luận cùng các bạn.
- Thứ ba: Do vốn hiểu biết về cuộc sống của các em còn hạn chế, sự giao
lưu không nhiều, gần như không một gia đình học sinh nào có máy tính nối
mạng Internet hay sách tham khảo về Khoa học; bởi vậy ngoài việc tiếp thu
bài trong SGK, vốn hiểu biết của các em rất hạn hẹp, bản thân cha mẹ học sinh
cũng không quan tâm nhiều đến điều này bởi theo quan điểm của các bậc phụ
huynh, học sinh tiểu học chỉ cần viết chữ đẹp và học tốt hai môn Toán, Tiếng
Việt là được.
3.Kết luận:
Như vậy, môn Khoa học lớp 5 có vai trò rất quan trọng; đây cũng là một
trong 5 môn học đánh giá bằng điểm số. Một học sinh muốn trở thành học sinh
giỏi toàn diện nhất thiết phải học giỏi môn học này. Dạng bài thực hành thí
nghiệm lại rất phổ biến trong môn Khoa học. Muốn học sinh học sâu, nắm
vững được bản chất của các thí nghiệm, tự mình tìm ra được kiến thức mới
thông qua các hoạt động thực hành, người giáo viên phải tạo cho các em cơ hội
phát huy tính tích cực của mình. Hãy cho phép các em được tham gia lựa chọn,
đề xuất thí nghiệm và trực tiếp thực hành những thí nghiệm do chính các em
thiết kế; hãy phối hợp tốt các phương pháp dạy học trong mỗi giờ dạy để có thể
đạt được hiệu quả cao nhất cho giờ dạy Khoa học của mình.
B.Mục đích của đề tài:
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 5, năm cuối cùng của bậc Tiểu
học, tôi đã cố gắng nghiên cứu kĩ sách giáo khoa Khoa học, các tài liệu tham
khảo, vào mạng tra cứu các tư liệu của đồng nghiệp đồng thời lắng nghe tâm sự
của học sinh lớp mình chủ nhiệm để có thể đề ra các biện pháp mới mang lại
hiệu quả cao cho giờ dạy Khoa học. Đề tài: "Một số biện pháp áp dụng dạy
dạng bài thực hành thí nghiệm môn Khoa học lớp 5" đã được tôi lựa chọn và
đăng kí thực nghiệm. Với đề tài này, tôi không chỉ hi vọng các em học sinh của
mình sẽ phát huy được khả năng trí tuệ khi cùng giáo viên tham gia thiết kế và
8
thực hành các thí nghiệm Khoa học mà tôi còn tin rằng chất lượng môn học này
cũng sẽ được nâng cao. Số học sinh khá giỏi toàn diện của lớp tôi sẽ tăng hơn so
với năm học trước.
C. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu:
1.Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài: "Một số biện pháp áp dụng dạy dạng bài thực hành thí nghiệm
môn Khoa học lớp 5"
2. Khách thể nghiên cứu:
- Học sinh lớp 5B trường Tiểu học Minh Hoàng.
- Lớp đối chứng: lớp 5A cùng trường
3.Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung môn Khoa học với phạm vi rất rộng, mỗi một mảng kiến thức
đều có thể thực hiện được những đề tài khác nhau. Trong phần bài viết này của
mình, tôi chỉ đề cập đến "Một số biện pháp áp dụng dạy dạng bài thực hành
thí nghiệm môn Khoa học lớp 5"
D. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra, thống kê.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp thảo luận.
- Phương pháp thực hành thí nghiệm.
Phần II: Nội dung thực hiện đề tài
Năm học 2012-2013 là năm Bộ giáo dục và Đào tạo tiếp tục phát động
các phong trào thi đua đã có từ năm học trước như Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và
sáng tạo, Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Chất lượng giáo dục toàn diện các bộ
môn cũng rất được chú trọng. Việc kiểm tra và đánh giá học sinh theo chuẩn
kiến thức kĩ năng ở mỗi môn học tiếp tục được đưa vào áp dụng; một số bài dạy
9
được điều chỉnh đòi hỏi người giáo viên phải luôn bám sát nhiệm vụ năm học
để có thể có được kết quả cao nhất khi thực nghiệm đề tài.
A. Hệ thống chương trình Khoa học lớp 5:
Môn Khoa học lớp 5 gồm 70 tiết được chia làm bốn phần:
1. Chủ đề: Con người và sức khoẻ: 21 tiết.
2. Chủ đề Vật chất và năng lượng: 28 tiết.
3. Chủ đề: Thực vật và động vật: 11tiết.
4. Chủ đề: Môi trường và tài nguyên thiên nhiên: 8tiết.
( 2 tiết còn lại dành cho kiểm tra cuối kì I và cuối kì II.)
Các tiết dạy thực hành thí nghiệm nằm trong hai chủ đề: Vật chất và
năng lượng, Thực vật và động vật. Theo thống kê từ SGK có 10 bài, học sinh
được thực hành thí nghiệm để phát hiện ra kiến thức mới. Đó là các bài:
STT Tên bài dạy
Kiến thức mới cần phát hiện
sau khi làm thí nghiệm
1
Đávôi
- Tính chất của đá vôi.
2
Cao su
- Tính chất của cao su.
3
Tơ sợi
- Đặc điểm của tơ sợi tự nhiên và tơ sợi nhân tạo.
4
Hỗn hợp
- Đặc điểm của hỗn hợp và từng chất tạo ra hỗn hợp
5
Dung dịch
- Đặc điểm của dung dịch và từng chất tạo ra dung
dịch
6
Sự biến đổi - Nhận biết về sự biến đổi hoá học.
hoá học
7
Năng lượng
8
Lắp mạch
- Nhận biết về năng lượng.
điện đơn giản - Cách lắp mạch điện đơn giản.
9
Sự sinh sản - Đặc điểm của hoa thụ phấn nhờ côn trùng và hoa
của thực vật thụ phấn nhờ gió.
có hoa
10
Cây con mọc - Nhận biết các bộ phận của hạt.
lên từ hạt
10
Năm học này, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 5B. Ngay từ
đầu năm học, để có được số liệu về chất lượng của môn Khoa học, tôi đã tiến
hành cho học sinh làm bài kiểm tra dựa trên kiến thức các em đã học từ tuần
1đến tuần 4 đồng thời để có thể nắm được khả năng thực hành và mô tả thí
nghiệm của các em, tôi yêu cầu các em ôn tập một số thí nghiệm đã được học
từ lớp 4, đó là những thí nghiệm rất gần gũi với cuộc sống của các em để đưa
vào bài kiểm tra kiến thức với hai lớp 5A và 5B.
Đề bài:
Câu1: Khoanh vào chữ cái đặt trước câu trả lời đúng:
Khi một em bé mới sinh, dựa vào cơ quan nào của cơ thể để biết đó là bé
trai hay bé gái?
a. Cơ quan tuần hoàn.
b. Cơ quan tiêu hoá.
c. Cơ quan sinh dục.
d. Cơ quan hô hấp.
Câu 2: Điền vào chỗ trống:
Tuổi dậy thì của con gái thường bắt đầu từ....đếntuổi. Tuổi dậy thì của
con trai thường bắt đầu từđến tuổi.Tuổi vị thành niên từ đến tuổi. Từ
20 đến 60 hoặc 65 tuổi là tuổi .Tuổi già bắt đầu từtrở lên.
Câu 3: Một bạn làm thí nghiệm sau:
- Dùng một chiếc cốc thuỷ tinh úp vào trong thau nước theo chiều thẳng
đứng, nước có vào được vào trong cốc không?
- Thí nghiệm trên chứng minh điều gì?
Câu 4: Em hãy vẽ hoặc viết để mô tả thí nghiệm chứng minh nước ở thể
lỏng không có hình dạng nhất định.
Kết quả khảo sát như sau:
Lớp
Sĩ số
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5A
31
5
16,1
10
32,3
12
38,7
4
12,9
5B
30
5
16,7
10
33.3
11
36,7
4
13.3
11
Qua kết quả khảo sát, tôi thấy điểm khá giỏi không cao. Với hai bài tập
liên quan đến thí nghiệm, đa số học sinh không biết mô tả thí nghiệm thực hành
mà chỉ nhận biết được hiện tượng xảy ra từ thí nghiệm do giáo viên mô tả. Các
em học sinh do tôi trực tiếp giảng dạy cũng mắc phải những sai sót giống như
các em học sinh của năm học trước: có tới 46,6% số em chỉ làm được bài tập 1
và bài tập 2; thậm chí một số em làm bài tập 2 còn chưa hoàn thiện.
B. Những điểm cần khắc phục của học sinh khi học những bài Khoa học
thực hành thí nghiệm:
Qua kết quả làm bài kiểm tra của các em, tôi tiến hành điều tra tâm lí
của học sinh 2 lớp thì thấy các em học sinh của năm học này cũng gặp phải
những khó khăn sau:
- Các em thường không nắm vững các tiến trình thí nghiệm, không đủ tự tin
để có thể tự mình thiết kế và thực hành thí nghiệm. Tất cả các thí nghiệm mà
các em được thực hành đều do giáo viên lựa chọn và hướng dẫn cách thực hành.
Chính vì vậy mà sau một thời gian ngắn, nhiều em đã quên tiến trình thí nghiệm
mặc dù đó là những thí nghiệm rất gần gũi với đời sống thực tế.
+ Ví dụ: Khi cần chứng minh nước ở thể lỏng không có hình dạng nhất định
(bài tập 4) thì chỉ có rất ít em thiết kế được thí nghiệm này.
- Một số em đưa ra lí do là năm học trước do dụng cụ thí nghiệm của nhà
trường thiếu nên một số thí nghiệm, các em chỉ được lắng nghe cô giáo mô tả
mà không được trực tiếp thực hành. Bởi vậy, các em rất khó hình dung được
cách làm thí nghiệm và khi cần mô tả lại, các em thường lúng túng không biết
mô tả như thế nào.
- Những học sinh trung bình, yếu thường nhầm lẫn các thông tin thu được từ
thí nghiệm này sang thí nghiệm khác. Có em đã rất cố gắng nhưng không biết
nên làm thế nào để có thể nhớ lâu tất cả các thông tin đó.
- Do đặc thù của môn Khoa học nên có những thí nghiệm giáo viên phải giao
về nhà cho học sinh thực hành và theo dõi trong một khoảng thời gian nhất
định. Một số em không có sự hỗ trợ của gia đình đã bỏ qua những thí nghiệm
này và chính vì vậy mà việc tiếp thu bài của các em không đạt được chất lượng
như giáo viên mong muốn.
12
Phần III: Biện pháp thực hiện
Sau khi đã tìm ra nguyên nhân vướng mắc từ thực tế giảng dạy của tôi
trong những năm học trước và khó khăn mà các em học sinh trong năm học này
mắc phải khi học dạng bài thực hành thí nghiệm của môn Khoa học, tôi đã
quyết tâm tạo cho các em cơ hội được tích cực tham gia các hoạt động học tập
như tự mình đề xuất, thiết kế thí nghiệm; trực tiếp cùng các bạn trong nhóm
thực hiện thành công thí nghiệm do chính các em thiết kế. Ngoài ra, để góp
phần nâng cao chất lượng của các giờ dạy Khoa học, tôi còn đưa vào giờ dạy
của mình các biện pháp đã được tôi áp dụng thành công trong những lần thực
hiện đề tài từ các môn học khác. Sau đây là một số biện pháp đã được tôi áp
dụng thành công trong giảng dạy:
1. Biện pháp dùng phương pháp "Bàn tay nặn bột" làm phương pháp chủ
đạo trong quá trình giảng dạy:
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp mới được khởi
xướng bởi giáo sư Georges Charpak, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp
(Giải Nobel Vật lí năm 1992). Phương pháp này được coi là ra đời ở Pháp và
được chính thức đưa vào thử nghiệm tại Việt Nam từ năm 1999. Cho đến nay,
phương pháp Bàn tay nặn bột đã được thử nghiệm ở rất nhiều các tỉnh, thành
của nước ta nhưng ở Hưng Yên, mới chỉ có hai trường tiểu học được thử nghiệm
phương pháp này ngay từ đầu năm học 2012-2013; đó là Trường Tiểu học Minh
Tiến và Trường Tiểu học Minh Hoàng huyện Phù Cừ. Tôi là một trong bốn giáo
viên được Sở Giáo dục và Đào tạo Hưng Yên cử đến Huế tập huấn về phương
pháp Bàn tay nặn bột. Có thể nói, sau những vướng mắc mà tôi gặp phải trong
những năm học trước khi dạy các dạng bài thực hành thí nghiệm thì phương
pháp mới này đã giúp tôi gỡ bỏ được các vướng mắc trên. Đây là một phương
pháp khiến tôi cảm thấy thực sự tâm đắc. Sau khi được Sở Giáo dục và Đào tạo
Hưng Yên, Phòng giáo dục và Đào tạo Phù Cừ, Ban giám hiệu Trường Tiểu học
Minh Hoàng quyết định cho phép tôi được áp dụng thử nghiệm phương pháp
Bàn tay nặn bột vào giảng dạy môn Khoa học lớp 5, tôi đã bắt tay ngay vào việc
tổ chức thực hiện đề tài và đã thu được những thành công nhất định, các em học
sinh của tôi cũng cảm thấy thực sự hứng thú khi được tiếp thu bài theo phương
13
pháp mới. Sau đây tôi xin được giới thiệu sơ qua đôi nét về phương pháp đặc
biệt này:
1.1 Khái niệm về phương pháp Bàn tay nặn bột:
- Bn tay nn bt l mt phng phỏp dy hc tớch cc da trờn thớ nghim
nghiờn cu, ỏp dng cho vic ging dy cỏc mụn Khoa hc -T nhiờn.
- Phương pháp Bn tay nn bt chỳ trng n vic hỡnh thnh kin thc cho
hc sinh bng cỏc thớ nghim tỡm tũi nghiờn cu chớnh cỏc em tỡm ra cõu tr
li. Nghĩa là cỏc thớ nghim, quan sỏt, nghiờn cu ti liu, iu tra thc t u
do chớnh hc sinh xut v trc tip thc hnh.
1.2 . 10 nguyên tắc cơ bản của phương pháp Bàn tay nặn bột:
a. 6 nguyên tắc về tiến trình sư phạm:
- Những sự vật, hiện tượng được học sinh quan sát khi làm thực hành thí
nghiệm phải là những sự vật hiện tượng gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và
các em sẽ được thực hành trên những cái đó.
- Trong quá trình tìm hiểu, học sinh được quyền lập luận, đưa ra ý kiến của
cá nhân mình và cùng bạn thảo luận những ý nghĩ và kết luận kiến thức, từ đó
có chững hiểu biết mà nếu chỉ có những hoạt động thao tác riêng lẻ không đủ
tạo nên.
- Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến
trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập phải gắn với chương trình và
dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn.
- Thời gian dành cho một đề tài tối thiểu là 2 giờ/tuần, thực hiện trong nhiều
tuần liên tục, phương pháp giáo dục phải được đảm bảo trong suốt thời gian
học tập.
- Mỗi học sinh phải có một quyển vở thực hành (vở thí nghiệm) do chính các
em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em.
- Giáo viên phải đảm bảo các em học sinh nắm được mục tiêu chính của tiết
học; đó là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực
hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ nói và viết của học sinh.
b. 4 nguyên tắc dành cho các đối tượng tham gia:
- Gia đình và khu dân cư nơi các em sống được khuyến khích thực hiện các
14
công việc của lớp học.
- Các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu địa phương giúp các hoạt
động của lớp học theo khả năng của mình.
- Trường cao đẳng sư phạm, đại học sư phạm ở địa phương giúp các giáo
viên về kinh nghiệm và phương pháp dạy học.
- Giáo viên có thể tìm thấy trên Internet, các website có nội dung về những
kiến thức bài học đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những
giải đáp thắc mắc. Giáo viên cũng có thể tham gia các hoạt động tập thể trao
đổi với các đồng nghiệp, với các giáo sư, các nhà khoa học để nâng cao năng
lực chuyên môn của mình.
1.3. Tiến trình dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột:
Trong thực tế giảng dạy, tuỳ theo nội dung bài mà tôi áp dụng phương
pháp Bàn tay nặn bột vào vào tiến trình dạy học. Có những bài, người giáo viên
chỉ áp dụng phương pháp này vào một hoặc hai hoạt động nhưng cũng có những
bài dạy, giáo viên áp dụng tất cả các hoạt động của bài. Tiến trình sư phạm của
mỗi hoạt động trong bài dạy theo phương pháp Bàn tay nặn bột gồm 5 bước:
* Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề:
- Tình huống xuất phát hay câu hỏi nêu vấn đề là do giáo viên chủ động đưa
ra.
- Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi và dễ hiểu đối với học sinh.
Câu hỏi nêu vấn đề phải là một câu hỏi mở, không làm lộ kiến thức của bài.
Ví dụ: Khi dạy bài Sự sinh sản của thực vật có hoa, phần hoạt động 2,
mặc dù chưa cho học sinh quan sát tranh ảnh và các loài hoa thật, tôi vẫn đưa ra
một câu hỏi nêu vấn đề: Em có nhận xét gì về đặc điểm của hoa thụ phấn nhờ
côn trùng và hoa thụ phấn nhờ gió?
* Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu:
Sau tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề của giáo viên, học sinh sẽ
bộc lộ biểu tượng ban đầu bằng cách chia sẻ những hiểu biết cá nhân của mình,
cùng các bạn thảo luận; sau đó đại diện nhóm báo cáo về những hiểu biết của
nhóm mình trước lớp.
Ví dụ: Học sinh sẽ bộc lộ biểu tượng ban đầu của nhóm mình về đặc
15
điểm của hoa thụ phấn nhờ côn trùng và hoa thụ phấn nhờ gió thông qua phiếu
học tập:
- Phiếu học tập số 1Hoa thụ phấn nhờ
Hoa thụ phấn
côn trùng
nhờ gió
.......
Đặc điểm
...
...
..
...
...
Phần chia sẻ này của học sinh rất đa dạng: có nhóm học sinh cho rằng hoa
thụ phấn nhờ côn trùng có màu sắc đẹp hấp dẫn côn trùng còn hoa thụ phấn nhờ
gió thường không có màu sắc đẹp; có nhóm học sinh lại cho rằng hoa thụ phấn
nhờ côn trùng có hương thơm còn hoa thụ phấn nhờ gió không có hương thơm;
đặc biệt có nhóm còn cho rằng hoa thụ phấn nhờ gió có đài hoa nhỏ nên không
hấp dẫn côn trùng đến lấy mật Mỗi nhóm là một sự chia sẻ khác nhau. Tôi
chỉ cảm ơn sự chia sẻ của các nhóm mà không nhận xét đúng, sai.
* Bước 3: Đề xuất câu hỏi và thiết kế thí nghiệm:
- Học sinh sẽ đặt ra các câu hỏi thắc mắc cho sự chia sẻ của các nhóm và đề
xuất thí nghiệm.
Ví dụ: Giáo viên đưa ra câu hỏi: Em có thắc mắc gì về những chia sẻ của
các bạn trong các nhóm không? Học sinh đưa ra câu hỏi, giáo viên có thể ghi
nhanh các câu hỏi đó lên bảng. Trong bài này, các em thường đưa ra các câu hỏi
thắc mắc sau:
+ Có phải hoa thụ phấn nhờ côn trùng thường có màu sắc đẹp không?
+ Có phải hoa thụ phấn nhờ gió thường không có màu sắc đẹp không?
+ Có phải hoa thụ phấn nhờ côn trùng thường có mùi thơm không?
+ Có phải hoa thụ phấn nhờ gió thường không có mùi thơm không?
+ Có phải hoa thụ phấn nhờ gió thường có đài nhỏ không? ...
16
- Từ những câu hỏi đề xuất của học sinh, giáo viên yêu cầu học sinh đề
xuất thí nghiệm: Em sẽ đề ra giải pháp gì để giải đáp cho những thắc mắc của
các bạn?
Với hoạt động 2 của bài Sự sinh sản của thực vật có hoa, có nhóm học sinh
đề xuất đọc tài liệu, quan sát SGK, các nhóm còn lại đề xuất thực hành quan sát
các loài hoa thật.
- Sau khi học sinh đề xuất thí nghiệm, giáo viên khéo léo nhận xét các ý
kiến của các em đều có lí và hướng các em đến một phương án khả thi nhất, cụ
thể trong trường hợp này, học sinh nên chọn phương án quan sát các loài hoa
thật.
* Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi, nghiên cứu:
- HS thực hành làm thí nghiệm và vẽ hoặc viết lại những suy nghĩ của nhóm
mình và chia sẻ trước lớp.
Ví dụ: Trong hoạt động 2 của bài Sự sinh sản của thực vật có hoa, học
sinh làm thí nghiệm quan sát: nhìn, ngửi, tách các đài hoa và viết lại kết quả thí
nghiệm của nhóm mình vào phiếu học tập:
- Phiếu học tập số 2Hoa thụ phấn nhờ
Hoa thụ phấn
côn trùng
nhờ gió
.......
Đặc điểm
...
...
..
.
.
Nội dung yêu cầu của phiếu học tập số 2 cũng giống nội dung yêu cầu
của phiếu học tập số 1. Như vậy trong hoạt động của bài dạy khi sử dụng
phương pháp Bàn tay nặn bột, học sinh có hai phiếu học tập: một phiếu chia sẻ
những hiểu biết của các em khi chưa được làm thí nghiệm còn phiếu 2 chia sẻ
những hiểu biết của các em sau khi các em đã được làm thực hành thí nghiệm.
17
Chính vì vậy, sự chia sẻ của học sinh trong phiếu học tập số 1 thường rất đa
dạng, mỗi nhóm hiểu kiến thức theo một ý nhưng sau khi đã được làm thí
nghiệm, dù có dùng từ ngữ khác nhau nhưng các em đều hiểu kiến thức theo
hướng đồng nhất, rất hiếm khi có nhóm vẫn còn chưa rút ra được kiến thức
trọng tâm của bài. Nếu xảy ra trường hợp học sinh vẫn kết luận sai về nội dung
kiến thức, giáo viên không nhận xét đúng, sai ngay mà cho nhóm đó thực hành
thí nghiệm lại để các em tiếp tục thảo luận và rút ra kiến thức trọng tâm.
* Bước 5: Kết luận và hợp thức hoá kiến thức:
Sau khi thực hành thí nghiệm, học sinh đã rút ra được nội dung kiến thức
trọng tâm của bài nhưng đôi khi còn có chỗ các em dùng từ chưa đúng khoa
học, nội dung kiến thức còn chưa mang tính hệ thống, giáo viên có nhiệm vụ
tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là đó là chuẩn
kiến thức của bài học. Sau đó, giáo viên cho học sinh đối chiếu lại với biểu
tượng ban đầu, tự các em phát hiện ra cái sai để học sinh một lần nữa hiểu sâu
về kiến thức của bài.
Phiếu học tập theo chuẩn kiến thức của hoạt động 2, bài Sự sinh sản của
thực vật có hoa phải được trình bày như sau:
- Phiếu học tập số 2Hoa thụ phấn nhờ
Hoa thụ phấn
côn trùng
nhờ gió
- Cỏc loi hoa th phn nh - Cỏc loi hoa th phn nh
Đặc điểm
cụn trựng thng cú mu giú khụng cú mu sc p,
sc sc s hoc hng thm cỏnh hoa, i hoa thng nh
hp dn cụn trựng.
hoc khụng cú.
1.4. Một số điều lưu ý khi áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào giảng
dạy môn Khoa học lớp 5:
- Đây là phương pháp áp dụng rất phù hợp với dạng bài thực hành thí
nghiệm; bởi vậy, người giáo viên cần lựa chọn bài dạy phù hợp, thiết kế các
hoạt động phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao cho giờ dạy Khoa học của
mình.
18
- Theo nguyên tắc của phương pháp Bàn tay nặn bột, mỗi học sinh buộc
phải có một quyển vở thí nghiệm do chính các em ghi chép theo cách thức và
ngôn ngữ của các em. Chính vì vậy, người giáo viên cần tôn trọng ý kiến của
các em trong quyển vở đó. Một tháng, giáo viên thu vở và góp ý cho học sinh
một lần nhưng không nên dùng bút đỏ chỉnh sửa các lỗi sai của các em mà góp
ý trực tiếp cho học sinh và để các em tự mình chỉnh sửa những lỗi sai đó.
- Cũng theo nguyên tắc thứ 4 của phương pháp Bàn tay nặn bột, thời gian
dành cho một đề tài tối thiểu là 2 giờ/tuần, thực hiện trong nhiều tuần liên tục,
phương pháp giáo dục phải được đảm bảo trong suốt thời gian học tập. Vì vậy,
người giáo viên cần phải sắp xếp thời gian hợp lí, tránh để ảnh hưởng nhiều đến
thời gian của các môn học khác. Các trường đã triển khai dạy 10buổi/tuần là
những trường có điều kiện để thử nghiệm phương pháp mới này.
- Do điều kiện cơ sở vật chất chưa đầy đủ nên một số dụng cụ thí nghiệm
dành cho môn Khoa học còn thiếu, người giáo viên có thể vận động phụ huynh
học sinh hỗ trợ đồ dùng thí nghiệm.
Ví dụ: Để chuẩn bị cho bài dạy Lắp ghép mạch điện đơn giản, tôi đã
khuyến khích các em học sinh chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm từ trước 1 tuần.
Dụng cụ thí nghiệm dành cho các em không tốn nhiều tiền; đó chỉ là một bảng
mạch, hai đoạn dây điện, 1 quả pin và một bóng đèn nên đến ngày học bài Lắp
ghép mạch điện đơn giản, tất cả học sinh lớp tôi đều có đủ dụng cụ thí nghiệm.
- Khi giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm và thực hành
làm thí nghiệm, giáo viên phải đặc biệt chú ý đến yếu tố đảm bảo an toàn bởi có
những thí nghiệm đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải thật cẩn thận như thí
nghiệm chưng đường trên ngọn lửa để nhận biết sự biến đối hoá học của các
chất, dùng dao nhỏ tách các hạt đậu để quan sát hạt có mấy bộ phận hoặc nhỏ
a-xít vào đá vôi để tìm hiểu tính chất của đá vôi...
- Đây là phương pháp áp dụng nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
trong giờ học; bởi vậy, tất cả các câu hỏi của giáo viên đưa ra trong giờ học phải
là câu hỏi tự luận (giáo viên không lựa chọn những câu hỏi trắc nghiệm) để đảm
bảo học sinh buộc phải tư duy tối đa mới có thể tìm ra kiến thức trọng tâm của
bài.
19
- Mặc dù phương pháp Bàn tay nặn bột mới chỉ là phương pháp được dạy
thử nghiệm tại Hưng Yên nhưng nếu như người giáo viên áp dụng phù hợp, linh
hoạt trong từng giờ dạy thì sẽ góp phần không nhỏ cho việc nâng cao chất
lượng giảng dạy môn Khoa học ở Tiểu học. Sau đây là một số hình ảnh minh
hoạ về giờ dạy có sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột:
Bài 52: Sự sinh sản của thực vật có hoa
Em Mai Linh đại diện nhóm 2 báo cáo nội dung thảo luận hoạt động 2.
( Khi học sinh chưa được làm thí nghiệm.)
Em Chí Thanh đại diện nhóm 2 báo cáo nội dung thảo luận hoạt động 2
( Khi học sinh đã được làm thí nghiệm.)
20
Bài 53: Cây con mọc lên từ hạt
Em Bạch Dương đại diện nhóm 1 báo cáo nội dung thảo luận hoạt động 1
(Khi các em chưa được làm thí nghiệm)
Em Phạm Xuyến đại diện nhóm 3 báo cáo nội dung thảo luận hoạt động1.
((Khi các em đã được làm thí nghiệm.)
2. Biện pháp áp dụng một số kĩ thuật dạy học mới vào dạy Khoa học lớp 5:
Ngoài việc sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột làm phương pháp chủ
đạo trong giảng dạy các hoạt động thực hành thí nghiệm của môn Khoa học,
21
các hoạt động còn lại của bài được tôi sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực khác. Trong những năm gần đây, Sở Giáo dục đã tổ chức chuyên đề áp
dụng một số kĩ thuật dạy học mới trong giảng dạy nhằm giúp học sinh học sâu,
hiểu sâu kiến thức của bài. Tôi đã áp dụng và thấy học sinh rất thích ba kĩ thuật
dạy học: Kĩ thuật Học theo góc, Kĩ thuật Các mảnh ghép và Kĩ thuật Sơ đồ tư
duy.
2.1. Kĩ thuật Học theo góc:
- ưu điểm: Kĩ thuật dạy học này giúp học sinh học sâu, nắm vững kiến thức
nội dung bài học.
- Nhược điểm: Mất nhiều thời gian so với các kĩ thuật khác.
* Cách thực hiện: Giáo viên có thể chia lớp thành 2 góc học tập. Cả hai
góc cùng thực hiện một nội dung và mục tiêu học tập. Góc học tập số 1 có thể
quan sát tranh ảnh, đọc sách giáo khoa trả lời câu hỏi nội dung của bài. Góc số
2 có thể xem tư liệu tranh ảnh, băng hình sưu tầm từ thực tế và trả lời câu hỏi
tương tự như nội dung câu hỏi của Góc học tập số 1. Sau khi thảo luận rút ra nội
dung trả lời, học sinh các góc đổi chỗ, tiếp tục quan sát đọc tài liệu và trả lời
câu hỏi.
Ví dụ: Khi dạy bài Sự sinh sản của thực vật có hoa; trong hoạt động 1,
góc học tập số 1, học sinh đọc tài liệu SGK còn ở góc học tập số 2, học sinh
quan sát băng hình để thực hiện theo yêu cầu: Em hãy mô tả quá trình sinh sản
của thực vật có hoa. Sau đó, học sinh chuyển góc học tập và lại tiếp tục thảo
luận với nội dung câu hỏi trên.
Như vậy, với kĩ thuật dạy học này, học sinh được tiếp thu bài cùng một
nội dung nhưng với 2 hình thức dạy học khác nhau. Khi thiết kế bài dạy, người
giáo viên phải vận dụng kĩ thuật Học theo góc với bài dạy phù hợp bởi kĩ thuật
này đòi hỏi phải có thời gian thực hiện.
2.2 Kĩ thuật Các mảnh ghép:
- ưu điểm: Đây cũng là kĩ thuật giúp học sinh được học sâu, phát huy tính
tích cực của mình trong học tập.
- Nhược điểm: Mất nhiều thời gian so với các kĩ thuật khác.
* Cách thực hiện: Giáo viên chia nhóm thành nhiều nhóm( mỗi nhóm từ
22
4-6 em). Nhóm 1 mang các số 1a,1b,1c; nhóm 2 mang các số 2a, 2b, 2c
Vòng 1, các em thảo luận trả lời câu hỏi theo yêu cầu của cô giáo. Sau đó các
em chuyển nhóm: nhóm 1 gồm các em mang số 1a, 2a, 3a; nhóm 2 gồm các
em mang số 1b, 2b, 3b Sau đó các em trong nhóm mới tiếp tục thảo luận
vòng 2 để chốt lại nội dung một lần nữa.
Ví dụ: Khi dạy bài Cây con mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ; trong
hoạt động 1, học sinh các nhóm thảo luận để trả lời câu hỏi: Hãy nói xem chồi
có thể mọc ra từ vị trí nào trên củ khoai tây, gừng, hành, tỏi và lá bỏng? Học
sinh thảo luận theo nhóm ban đầu, sau đó chuyển nhóm và tiếp tục bày tỏ ý
kiến của mình với nhóm mới cũng theo nội dung câu hỏi trên.
Kĩ thuật này cũng đòi hỏi giáo viên khi áp dụng phải lựa chọn bài dạy phù
hợp để giúp học sinh hiểu sâu, nắm vững kiến thức của bài nhưng cũng không
ảnh hưởng đến thời gian của các môn học khác.
2.3 Kĩ thuật Sơ đồ tư duy:
- ưu điểm: Giúp học sinh học sâu, có thể tự mình hệ thống các kiến thức đã
học.
* Cách thực hiện: Kĩ thuật dạy học này có thể áp dụng trực tiếp trong các giờ
học, đặc biệt là giờ ôn tập Khoa học. Các em có thể thảo luận nhóm, nhớ lại nội
dung các bài học và cùng nhau vẽ Sơ đồ tư duy. Sau đó dựa vào sơ đồ để trả lời
các câu hỏi của cô giáo và nhóm bạn. Ngoài ra, các em học sinh còn vận dụng
sơ đồ Tư suy để ôn bài tại nhà. Kĩ thuật dạy học này là kĩ thuật được nhiều học
sinh yêu thích nhất. Ví dụ:
- Sơ đồ Tư duy bài Hỗn hợp -
Khái niệm
Do hai hay
nhiều chất tạo
thành.
Đặc điểm
Mỗi chất giữ
nguyên tính
chất của nó.
Hỗn hợp
23
3. Biện pháp áp dụng một số trò chơi học tập nhằm gây hứng thú cho học
sinh trong các giờ dạy Khoa học:
Muốn cho giờ học Khoa học trở nên hấp dẫn với các em học sinh, người
giáo viên cần đặc biệt lưu ý đến biện pháp áp dụng trò chơi trong các giờ học.
Đây là một biện pháp không còn mới mẻ nhưng trong phương pháp Bàn tay nặn
bột lại không đề cập đến. Vì vậy việc phối hợp tốt các phương pháp dạy học tích
cực với nhau là điều cần thiết nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của mỗi giáo
viên. Sau đây là một số trò chơi được các em học sinh rất tích cực tham gia:
3.1 Trò chơi Ai nhanh, ai đúng:
Trò chơi này được tôi áp dụng nhiều nhất trong các giờ học. Đây cũng là
trò chơi mà SGK đã yêu cầu giáo viên áp dụng. Mặc dù theo nội dung SGK, trò
chơi này không phổ biến nhiều trong các bài dạy nhưng vì hiệu quả của trò chơi
này rất cao, hấp dẫn các em học sinh nên sau các bài học, tôi thường kiểm tra
kiến thức của học sinh bằng những câu hỏi trắc nghiệm, tự luận nhưng được tổ
chức dưới hình thức trò chơi.
* Cách chơi như sau: Mỗi học sinh một bảng con. GV ra câu hỏi liên quan
đến nội dung bài đặc biệt là những câu hỏi liên quan đến các kiến thức mà các
em được rút ra khi làm thực hành thí nghiệm. trong vòng 10 giây, học sinh phải
đưa ra đáp án đúng và ghi vào bảng của mình. Mỗi câu trả lời đúng được thưởng
một lá cờ. Học sinh trả lời sai hoặc không kịp đưa ra đáp án không bị loại, tiếp
tục được tham gia chơi ở câu hỏi tiếp theo. Kết thúc trò chơi, học sinh đồng loạt
đếm cờ, những em nào có nhiều cờ nhất sẽ được bình chọn là cá nhân xuất sắc
và được tuyên dương.
3.2 Trò chơi Ô chữ kì diệu:
Đây là trò chơi cũng thu hút các em học sinh. Trò chơi được thiết kế dựa
theo trò chơi truyền hình thuộc chương trình Đường lên đỉnh Olympia.
* Cách chơi: Học sinh chọn dòng các ô chữ hàng ngang, mỗi dòng ô chữ
chứa một từ liên quan đến kiến thức của bài. Học sinh trả lời đúng một câu hỏi,
một dòng ô chữ được mở ra. Khi chỉ còn hai câu hỏi, học sinh có thể đoán từ
khoá của bài; đó là ô chữ hàng dọc. Nếu học sinh nào đoán được từ khoá sẽ
được tuyên dương.
24
Ví dụ: Khi dạy bài ôn tập cuối kì II, học sinh có thể tham gia trò chơi ô
chữ kì diệu để tìm ra từ khoá: Bọ rùa, tên một loài côn trùng có ích cho các
loài thực vật.
3.3 Trò chơi Ghép chữ vào hình:
Trò chơi này thường được tôi áp dụng khi dạy chủ đề Thực vật và động
vật.
* Cách chơi: Học sinh tham gia theo nhóm từ 4-6 em. Mỗi em cầm từ 1
hoặc 2 thẻ từ có chữ và thi theo hình thức tiếp sức, các em sẽ ghép chữ vào hình
sao cho chính xác. Nhóm nào nhanh, đúng, nhóm đó sẽ thắng cuộc.
Ví dụ minh hoạ trò chơi Ghép chữ vào hình:
(Bài Sự sinh sản của thực vật có hoa)
Hạt phấn
Vòi nhuỵ
ống phấn
Đầu nhuỵ
Bao phấn
Noãn
Bầu nhuỵ
3.4 Trò chơi Tài trí học trò:
Trò chơi này được áp dụng trong các tiết ôn tập. Các câu hỏi đa phần là
các câu hỏi trắc nghiệm, nếu là câu hỏi tự luận thì là câu hỏi có câu trả lời ngắn
gọn.
* Cách chơi: Học sinh cả lớp được tham gia.Với mỗi câu hỏi, trong vòng
25
10 giây, các em viết vào bảng con đáp án của mình. Mỗi học sinh được phát
một thẻ cứu trợ, nếu em học sinh nào trả lời sai đến câu hỏi thứ hai, em đó sẽ bị
loại. Trò chơi Tài trí học trò dành cho môn Khoa học còn gọi là Hội thi "Nhà
Khoa học nhỏ tuổi". Những học sinh đạt giải sẽ được tặng những quà tặng nhỏ
do giáo viên trao tặng hoặc những món quà do chính học sinh chuẩn bị; đó là
những bông hoa được sưu tầm từ vườn nhà các em và được trang trí vào những
chiếc rổ xinh xắn, nhìn rất đẹp mắt. Sau đây là hình ảnh em Nguyễn Chí Thanh
và những học sinh đạt giải tại Hội thi Nhà Khoa học nhỏ tuổi của lớp 5B được
tổ chức vào tuần 31:
Từ trái sang phải: Bồ Thị Mai Linh(giải nhì),
Nguyễn Chí Thanh (giải nhất) và Nguyễn Quang Vinh (giải ba)
4. Biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy:
4.1 Xây dựng các tiết giáo án điện tử cho môn Khoa học:
Năm học 2012-2013, Bộ Giáo dục và Sở Giáo dục tiếp tục khuyến khích
giáo viên các bậc học ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Là một
giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi luôn nhận thức được ưu điểm của của hình thức
dạy học hiện đại này. Đây là hình thức dạy học mới mang lại hiệu quả rất cao
trong giảng dạy. Sự kết hợp giữa việc giáo dục học sinh chăm học và đồng thời
26