Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY
HỌC MÔN TOÁN LỚP BA
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc
hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc
cho giáo dục phổ thông và toàn bộ hệ thống giáo dục Quốc dân.
Tiểu học là bậc học quan trọng, mang tính toàn diện ở tất cả các
môn học. Ngay từ bậc tiểu học, mọi học sinh đều cần và có thể đạt được
những trình độ học vấn phổ thông toàn diện, đồng thời phát triển sở
trường, khả năng của mình về một môn học nào đó nói chung và môn
Toán nói riêng.
Cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có một vò trí rất quan trọng
việc hình thành nhân cách cho học sinh tiểu học, vì môn Toán là một môn
học mang tính khoa học. Các kiến thức kỹ năng của môn Toán ở bậc Tiểu
học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống; chúng rất cần thiết cho người lao
động; rất cần thiết để học các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp môn
Toán ở Trung học cơ sở cũng như Trung học Phổ thông. Môn Toán giúp
học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không
gian của thế giới hiện thực; nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức
1
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả
trong đời sống.Thông qua môn toán, học sinh tiểu học được trang bò một hệ
thống kiến thức cơ bản về nhận thức. Những kỹ năng trong giờ học toán ở
bậc tiểu học giúp các em có một quá trình rèn luyện tổng hợp các năng lực
trí tụê, rèn luyện phương pháp suy nghó, phương pháp giải quyết để nhằm
phát triển trí thông minh của học sinh, cách suy nghó độc lập, linh hoạt,
sáng tạo, góp phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết của người
lao động mới như: Cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó, làm việc có kế
hoạch, chủ động, khoa học. Từ đó các em có thể vận dụng, kết hợp với các
số liệu thực tế đã thu thập được để sáng tạo ra các đề toán, phản ánh các
sự việc trong cuộc sống. Phản ánh mối tương quan giữa một số đại lượng
thường gặp trong thực tế. Quá trình học Toán đã giúp học sinh thấy được
“Toán học bắt nguồn từ thực tế và trở lại phục vụ thực tế“, thấy được “ Sự
tương quan giữa các đại lượng và các sự vật…”
Chương trình tiểu học hiện nay được xây dựng trên quan điểm tích
cực hoá người học, lấy “ Học sinh làm trung tâm”. Đây thực sự là bước
phát triển mới của khoa học giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu của giáo dục
và đào tạo trong giai đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Chương trình Toán lớp 3 là một bộ phận của chương trình toán tiểu học,.
Chương trình được xây dựng, kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy
học toán 3 ở nước ta, nó tiếp tục thực hiện những dổi mới về giáo
dục tốn học ở các lớp 1 và 2 . Chương trình nhấn mạnh hơn đến việc
cung cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng cơ bản, thiết thực, có hệ
thống trong sự hoàn chỉnh tương đối của các kiến thức và kỹ năng đó.
2
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Đònh hướng đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) đã được xác đònh
trong các Nghò quyết Trung ương 4 (khoá VII) và Nghò quyết Trung ương 2
(khoá VIII) của Đảng, các Chỉ thò của Bộ Giáo dục và Đào tạo, được thể
chế hoá trong Luật Giáo dục và được cụ thể hoá trong Chỉ thò 15 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
Trong Luật Giáo dục (2005), Khoản 2, Điều 27 đã ghi : "Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của HS ; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học ; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kó năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, bồi dưỡng khả năng làm việc theo nhóm cho HS, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS".
Như vậy, có thể nói tư tưởng và cũng là mục đích của quá trình đổi
mới PPDH là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Tính tích cực
trong hoạt động học tập của học sinh thực chất là tính tích cực nhận thức
được đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghò lực cao trong
quá trình chiếm lónh tri thức.
Để đạt được mục tiêu trên, hiện nay mỗi chúng ta đang thực hiện đổi
mới PPDH bằng cách áp dụng một số phương pháp và hình thức dạy học
tích cực trong đó có hình thức dạy học theo nhóm và bước đầu đã đạt được
những kết quả nhất đònh. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng hình thức dạy
học này ở tiểu học mà nhất là áp dụng cho môn Toán chúng tôi đã gặp
nhiều khó khăn vì hiện tại chưa có tài liệu cũng như chưa có các biện pháp
hữu hiệu trong việc áp dụng hình thức thảo luận nhóm phù hợp cho từng bộ
môn và đối tượng HSTH nên nhìn chung hiệu quả đạt được chưa cao.
3
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Xuất phát từ những lí do trên, với mong muốn tiếp tục nghiên cứu đề
xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm và vận
dụng vào dạy học môn Toán lớp 3 nhằm gây hứng thú trong học tập cho
HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn đạt hiệu quả cao hơn,
tôi mạnh dạn chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thảo
luận nhóm trong dạy học môn Toán lớp 3".
II/ MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thảo luận
nhóm và vận dụng vào việc dạy học Toán lớp 3 nhằm gây hứng thú trong
học tập cho HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
4
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
B. PHẦN THỨ HAI:
NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN:
1.Những việc đã làm:
Chúng ta biết rằng dạy học theo nhóm là hình thức dạy học đặt HS
vào môi trường học tập tích cực. Trong đó, HS được tổ chức thành các
nhóm một cách thích hợp. Trong nhóm, HS được khuyến khích thảo luận
và làm việc hợp tác với nhau. Thông qua hoạt động nhóm, các em được
rèn luyện và phát triển kó năng làm việc, kó năng giao tiếp, HS có điều
kiện học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực trên cơ sở
làm việc và hợp tác.
Hình thức dạy học theo nhóm góp phần hình thành và phát triểàn các
mối quan hệ qua lại trong học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, giúp
đỡ, tin tưởng lẫn nhau trong học tập. Tổ chức học tập theo nhóm còn giúp
các em nhút nhát, khả năng giao tiếp, diễn đạt kém...có điều kiện được rèn
luyện, tập dượt...từ đó khẳng đònh bản thân trong môi trường hoạt động
nhóm.
5
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Chính vì những lí do trên mà ngay từ đầu năm học, khi tiếp nhận lớp
tôi đã vận dụng linh hoạt hình thức dạy học theo nhóm trong các tiết dạy
để giúp học sinh chiếm lónh kiến thức. Thực tế dạy học cho tôi thấy việc
thảo luận nhóm của học sinh lớp mình đạt hiệu quả chưa cao vì những
nguyên nhân sau:
- Học sinh chưa có thói quen thảo luận nhóm, việc hình thành nhóm
còn chậm nên chiếm nhiều thời gian của tiết học.
- Ý thức tự giác, tự quản trong mỗi nhóm còn hạn chế. Nhóm trưởng
chưa điều khiển được các bạn trong nhóm tập trung thảo luận tốt. Các
thành viên trong nhóm chưa lắng nghe ý kiến của nhau.
- Trong nhóm nhiều trình độ thì học sinh khá, giỏi làm việc tích cực
còn những học sinh chậm, yếu thì ngại nói, tham gia một cách thụ động,
thậm chí có lúc không làm việc trong nhóm.
- Đối với các môn học khác như: Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội,
Tiếng Việt...thì học sinh thảo luận nhóm có phần sôi nổi hơn nhưng riêng ở
môn toán thì hiệu quả thảo luận không đạt được như mong muốn vì việc
tìm kiếm, chiếm lónh kiến thức của môn Toán đối với HS còn nhiều khó
khăn. Hầu hết các em chỉ suy nghó rồi ghi kết quả của mình mà thiếu sự
hợp tác trong nhóm.
6
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Sau khi đã đánh giá đúng thực trạng và tìm ra được nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế trong việc thảo luận nhóm của học sinh, tôi đã tập
trung nghiên cứu kó hình thức dạy học theo nhóm, làm rõ vai trò của người
giáo viên trong dạy học theo nhóm nói chung và dạy học theo nhóm trong
quá trình giảng dạy môn Toán nói riêng để giúp HS thảo luận nhóm đạt
hiệu quả.
2. Thời gian thực hiện:
Sáng kiến này được thực hiện trong suốt cả năm học trên cơ sở rút
kinh nghiệm quá trình vận dụng dạy học kể cả những năm học trước.
Trong các tiết lên lớp, tôi đã từng bước khắc phục cho các em những tồn
tại, đưa ra các biện pháp hữu hiệu để giúp học sinh học tập thành công.
3. Biện pháp thực hiện:
3.1. Nghiên cứu, đề xuất những biện pháp chung để giúp cho việc
thảo luận nhóm trong dạy học môn Toán lớp 3 đạt hiệu quả:
a. Giáo viên phải nắm vững các dạng hoạt động nhóm để căn cứ vào
đó có thể chọn hoạt động nhóm phù hợp với nội dung bài dạy.
b. Phải nắm vững cách thức tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm:
- Nắm vững đặc điểm của nhóm lớn và nhóm nhỏ, những ưu điểmtồn tại của từng loại nhóm.
7
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
- Để giúp nhóm hoạt động có hiệu quả, giáo viên cần giúp học sinh
trong nhóm biết và hiểu rõ công việc của mình. Vì vậy phải phân công
nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong nhóm như:
+ Nhóm trưởng: Quản lí, chỉ đạo, điều khiển các thành viên trong
nhóm hoạt động.
+ Thư kí: Ghi chép kết quả công việc của nhóm sau khi được sự
đồng tình của cả nhóm.
+ Báo cáo viên trình bày trước lớp kết quả thảo luận của cả nhóm.
+ Các thành viên khác có nhiệm vụ tham gia tích cực, đóng góp ý
kiến vào hoạt động của nhóm.
Tuy nhiên, giáo viên cần linh hoạt khi phân công nhiệm vụ, không
phải bao giờ một nhóm cũng đủ các thành phần như đã nêu trên. Mặt
khác, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào các nhóm
khác nhau và thực hiện các nhiệm vụ khác nhau trong nhóm. Điều đó
nhằm tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kinh nghiệm học tập với những
bạn khác. Đồng thời các em cũng được rèn luyện và phát triển các thao tác
tư duy và năng lực hoạt động của bản thân.
- Ngay từ khi soạn giáo án, giáo viên cần lựa chọn kiểu nhóm và dự
kiến chia nhóm cho phù hợp với các phần của tiết dạy.
c. Nắm được các yêu cầu để nhóm hoạt động có hiệu quả.
Để nhóm hoạt động có hiệu quả thì việc tổ chức hoạt động nhóm
cần đảm bảo một số yêu cầu cơ bản sau:
- GV cần giúp các thành viên trong nhóm biết và hiểu được công việc
của nhóm và của bản thân. HS biết rõ những việc cần làm, biết giúp đỡ
nhau và lo lắng tới công việc chung.
8
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
- Toàn nhóm làm việc hợp tác và đồng lòng với quyết tâm của cả
nhóm.
- Hình thành cho HS thói quen tích cực suy nghó và tham gia vào các
hoạt động của nhóm như phát biểu ý kiến, tranh luận...
- Vai trò của nhóm trưởng, báo cáo viên, thư kí...được thực hiện luân
phiên.
d. Phát huy vai trò của giáo viên trong dạy học theo nhóm.
Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động, người cố vấn
gợi mở, khuyến khích và hỗ trợ việc học của học sinh. Để giúp HS hoạt
động nhóm đạt hiệu quả người giáo viên cần phải thực hiện những việc
sau:
- Khi giao việc cho nhóm, giáo viên phải trình bày nội dung một
cách rõ ràng, cụ thể: nêu thứ tự nội dung công việc cần làm, phân công
công việc cho các thành viên trong nhóm, ấn đònh thời gian làm việc cụ
thể (chỉ nên dành 3-5 phút cho một hoạt động).
- Nếu các nhiệm vụ là khác nhau, GV cần lập phiếu hoạt động và
giao cho từng nhóm.
- Nếu các nhiệm vụ giống nhau thì giáo viên có thể ghi nội dung
hoạt động lên bảng.
- GV cần quan sát, theo dõi và giúp đỡ tất cả các nhóm: cung cấp
thêm thông tin cho nhóm này, giải đáp thắc mắc cho nhóm kia, nhắc nhở
nhóm này làm việc lạc hướng, nhóm kia đang có sai sót và hướng dẫn các
em cách sửa chữa. Đặc biệt, GV cần phát hiện và hỗ trợ các nhóm có khó
9
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
khăn bằng cách đặt câu hỏi, hướng dẫn trả lời, cung cấp thêm thông tin cho
các em.
- Động viên, khuyến khích và khen ngợi các em nhằm tạo không khí
phấn khởi, tự tin trong học tập. Dáng điệu, cử chỉ của GV cần phải thể
hiện thái độ thân mật, hợp tác, đồng tin, tạo niềm tin cho các em.
- GV không nên nói trước toàn lớp trong khi các em đang hoạt động.
Nếu cần thiết, GV có thể dừng mọi hoạt động để tất cả HS chú ý và lắng
nghe những điều mình muốn nói.
- Khi các nhóm trình bày, GV yêu cầu nhóm khác nhận xét, bổ sung
và so sánh cách làm, kết quả với nhóm mình. Đồng thời, GV cần động
viên, khuyến khích các nhóm và cá nhân đưa ra các câu hỏi có liên quan
đến công việc của mỗi nhóm để HS trả lời. Khi HS phát biểu xong, GV
mới đưa ra ý kiến của mình.
3.2. Một số ví dụ minh hoạ cụ thể về việc vận dụng hình thức làm
việc theo nhóm trong dạy học Toán lớp 3.
Trong quá trình dạy học Toán lớp 3, có rất nhiều bài tôi chọn cho
các em thảo luận theo nhóm nhỏ (2->4 HS) và thường chia nhóm theo
nhiều cách nhưng chủ yếu là chia theo nhóm cố đònh và nhóm gần nhau.
a. Khi yêu cầu HS thảo luận để tìm ra kiến thức mới như lập các
công thức nhân, chia, giải bài toán về tìm một trong các phần bằng nhau
của một số, gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần,... thì có thể tiến
hành chia nhóm trình độ (trong nhóm có cả HS khá, giỏi, trung bình, yếu).
10
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Ví dụ: Khi dạy bài bảng chia 6, SGK/24: GV cho HS thảo luận theo
nhóm 4 ( nhóm nhiều trình độ) với nhiều nội dung: Dựa vào bảng nhân 6
đã học, các em hãy thảo luận để tìm cách lập và lập hoàn chỉnh bảng chia
6.
Trong quá trình HS thảo luận có thể ưu tiên cho HS chậm, nhắc lại
bảng nhân 6. Sau đó, các thành viên trong nhóm thảo luận với nhau dựa
vào mối quan hệ giữa phép nhân và phép chia để lập hoàn chỉnh bảng chia
6, thư kí ghi vào giấy nháp và cử đại diện nhóm trình bày.
*Khi dạy bài tìm thành phần chưa biết của phép tính như: tìm số
chia... thì việc cho HS thảo luận nhóm nhỏ ở phần hình thành kiến thức
mới là vô cùng cần thiết. Các em thảo luận để nêu được mối quan hệ giữa
cái đã cho và cái cần tìm; trao đổi để nêu được cách tìm thành phần chưa
biết. Trong khi HS thảo luận, GV đến các nhóm để giúp đỡ và hướng dẫn
thêm. Đối với các nhóm còn lúng túng khi thảo luận, GV gợi ý để các em
xác đònh thành phần chưa biết là gì? Cách tìm như thể nào?... Đối với các
nhóm đã thảo luận xong, GV gợi ý để các em tự đưa ra một số ví dụ và
thực hiện tương tự để củng cố lại cách làm, tự tìm ra được quy tắc...
Ví dụ: Bài Gam SGK/65: Trong phần hình thành kiến thức mới, cung
cấp cho HS biểu tượng về gam thì nhất thiết phải tổ chức cho các em thực
hành theo nhóm cân một số đồ vật theo đơn vò đo gam, kilôgam: cân khối
lượng của quyển vở, quyển sách, quả táo... Các em trao đổi, quán xuyến
lẫn nhau trong nhóm, GV chỉ là người tổ chức, giúp đỡ và hướng dẫn các
hoạt động học tập.
* Tổ chức thảo luận nhóm nhằm đònh hướng giải quyết và đưa ra
cách giải quyết một vấn đề nào đó:
11
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Ví dụ: Hình thành kiến thức về biểu thức và giá trò biểu thức (Bài
Tính giá trò của biểu thức (tiếp theo) SGK/81).
Xuất phát ban đầu là bài tập tính giá trò của biểu thức 30 + 5 : 5, HS
hoàn toàn thống nhất cách tính giá trò của biểu thức này:
Đây là biểu thức có cả phép cộng và phép chia, ta thực hiện phép
chia trước : 5 chia cho 5 bằng 1; tiếp theo thực hiện phép cộng: 30 cộng 1
bằng 31.
Đến đây GV đặt vấn đề: Nếu muốn thực hiện phép cộng 30 + 5
trước, sau đó mới thực hiện phép chia cho 5, ( Ví dụ để tìm đáp án cho bài
toán gộp: Người ta đem nhốt 30 con gà mái và 5 con gà trống vào 5
chuồng .Hỏi mỗi chuồng có bao nhiêu con gà? Biết rằng số gà nhốt ở mỗi
chuồng là như nhau, ) các em có thể thêm kí hiệu vào biểu thức như thế
nào?
HS sẽ thảo luận theo từng nhóm 4 và đưa ra các cách kí hiệu khác
nhau: có em đề nghò khoanh vào tổng 30 + 5, có em đề nghò gạch dưới, có
em đề nghò kí hiệu dấu móc...
30
+5
: 5
30 + 5
:5
35 + 5 : 5
35 + 5 : 5
Các nhóm đề xuất các giải pháp và trình bày trước lớp. Cả lớp thảo
luận và thấy các cách đều hợp lí nhưng cần thống nhất chung một kí hiệu.
Khi đó GV mới đưa ra kí hiệu thống nhất của toán học và sử dụng dấu
ngoặc: (30 + 5) : 5
12
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Cuối cùng GV cho HS thảo luận để đưa ra quy tắc tính giá trò của
biểu thức có dấu ngoặc.
* Tổ chức thực hành đo các đại lượng:
Ví dụ: Sau khi học xong đại lượng độ dài và Bảng đơn vò đo độ dài,
GV có thể cho HS thực hiện nhiệm vụ sau: Đo và thống kê số liệu chiều
cao của từng bạn trong lớp.
Đây là một nhiệm vụ thực hành, công việc nhiều (đo chiều cao của
mỗi bạn), kết quả đo chiều cao của mỗi bạn khác nhau. Vì vậy cả lớp
thống nhất chia làm nhiều nhóm, mỗi nhóm chòu trách nhiệm đo chiều cao
của mỗi bạn thuộc nhóm của mình.
Mỗi nhóm đều thực hiện nhiệm vụ: Đo chiều cao từng bạn (theo
đúng thao tác đo đã được học), ghi chép số liệu vào nháp (hoặc sổ), sắp
xếp tên các bạn theo thứ tự từ thấp đến cao.
Xác đònh bạn cao nhất, bạn thấp nhất trong nhóm.
Như vậy cần phải có: một bạn cầm ê ke áp sát vào tường, một bạn
dùng thước để đo, một bạn ghi chép số liệu vào sổ, một bạn chỉ huy chung.
Với cách xác đònh như trên, mỗi nhóm có 5 bạn là đủ.
* Cần tổ chức thử nghiệâm nhiều trường hợp để từ đó quan sát kết
quả đi đến một kết luận mang tính quy luật về một số vấn đề cần tới đo
đạc, tính toán. Khi đó mỗi trường hợp giao cho một nhóm, kết hợp kết quả
các nhóm lại, khái quát hoá thành kết luận mang tính quy luật.
Ví dụ: Để tìm công thức tính diện tích hình chữ nhật, giáo viên có
thể tiến hành như sau:
Giáo viên đưa ra các hình chữ nhật khác nhau ( kích thước 2cm x
3cm; 3cm x 5cm; 4cm x 3cm; 4cm x 5cm )
13
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Yêu cầu học sinh tìm cách tính diện tích các hình chữ nhật này.
Học sinh được phân nhóm, sử dụng tấm nhựa trong có kẻ lưới các ô
vuông cạnh 1cm, áp vào các hình chữ nhật và tìm các cách khác nhau để
biết diện tích các hình chữ nhật.
Các nhóm sẽ có các cách khác nhau ( chẳng hạn đếm các hình chữ
nhật, đếm từng nhóm theo hàng, đếm từng nhóm theo cột, và thực hiện
phép nhân số cột với số hàng).
Học sinh thảo luận để tìm cách tính dễ nhất.
Sau khi thảo luận, học sinh sẽ đi đến kết luận: Để tính diện tích hình
chữ nhật thì việc thực hiện phép nhân chiều
dài với chiều rộng là đơn giản nhất:
S1 = 3 x 2 = 6 ( cm2)
S2 = 5 x 3 = 15 ( cm2)
S3 = 4 x 3 = 12 ( cm2 )
14
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
S4 = 5 x 4 = 20 ( cm2 )
Giáo viên cho học sinh nêu công thức tính diện tích hình chữ nhật có
chiều dài a và chiều rộng b. Học sinh sẽ nêu công thức tổng quát như sách
giáo khoa.
Với cách dạy này. học sinh phải suy nghó, tìm cách vận dụng kiến
thức đã học ở tiết trước để tìm diện tích từng hình chữ nhật. Cách này
tưởng như mất thời gian, nhưng có giá trò không đổi được: giáo viên đã tổ
chức tình huống hấp dẫn cho học sinh hoạt động và học sinh mong muốn
giải quyết nó ( Tìm diện tích các hình chữ nhật khác nhau), học sinh tích
cực sử dụng kiến thức đã biết, phải thử nghiệm, đếm và tìm cách xác đònh
số hình vuông cạnh 1cm tạo nên hình chữ nhật đã cho và đi đến cách tối
ưu: lấy chiều dài nhân chiều rộng. Hoạt động nhóm đã giúp học sinh phát
hiện và giải quyết vấn đề đặt ra.
b. Đối với các bài tập ở phần thực hành và các tiết luyện tập , GV
cũng có thể sử dụng hình thức dạy học theo nhóm nhỏ với nhiều dạng bài
tập. Chẳng hạn: khi giải các bài toán có lời văn, đặc biệt là dạng toán giải
bằng 2 phép tính, cần tổ chức cho các em thảo luận nhóm 2 để tự tìm hiểu
đề dưới hình thức hỏi đáp lẫn nhau.
Ví dụ 1: Bài 3 SGK/34: Một buổi tập múa có 6 bạn nam, số bạn nữ
gấp 3 lần số bạn nam. Hỏi buổi tập múa có bao nhiêu bạn nữ?
* HS1: Bài toán cho biết gì?
* HS2: Một buổi tập múa có 6 bạn nam, số bạn nữ gấp 3 lần số bạn
nam.
* HS2: Bài toán hỏi gì ?
15
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
* HS1: Hỏi buổi tập múa có bao nhiêu bạn nữ ?
* HS1: Bài toán thuộc dạng nào ?
* HS2: Bài toán thuộc dạng gấp 1 số lên nhiều lần.
Ví dụ 2: Bài 2 SGK/67: Mẹ Hà mua 4 gói kẹo và một gói bánh, mỗi
gói kẹo cân nặng 130g và gói bánh cân nặng 175g. Hỏi mẹ Hà đã mua tất
cả bao nhiêu gam kẹo và bánh ?
* HS1: Bài toán cho biết gì ?
* HS2: Mẹ Hà mua 4 gói kẹo và một gói bánh, mỗi gói kẹo cân nặng
130g và gói bánh cân nặng 175g.
* HS2: Bài toán hỏi gì?
* HS1: Hỏi mẹ Hà đã mua tất cả bao nhiêu gam kẹo và bánh?
* HS 1: Để biết mẹ Hà đã mua bao nhiêu gam kẹo và bánh ta phải
làm gì?( Đến đây HS có thể thảo luận theo hướng em khá, giỏi nêu câu hỏi
đònh hướng rút ra cách giải để giúp các em chậm chưa hiểu bài dần rút ra
được vấn đề để giải được bài toán theo cách GV vẫn thường gợi mở đối với
cả lớp khi hướng dẫn chung.)
* HS 2: Lấy số gam kẹo cộng với số gam bánh.
* HS2: Số gam kẹo biết chưa?
* HS1: Số gam kẹo chưa biết, cần phải đi tìm.
* HS1: Bài toán thuộc dạng gì?
* HS2: Gấp một số lên nhiều lần…..
Ví dụ 3: Bài 2b SGK/37: Một công việc làm bằng tay hết 30 giờ, nếu
làm bằng máy thì thời gian giảm 5 lần. Hỏi làm công việc đó bằng máy
hết bao nhiêu giờ?
* HS1: Bài toán cho biết gì ?
16
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
* HS2: Một công việc làm bằng tay hết 30 giờ, nếu làm bằng máy thì
thời gian giảm 5 lần.
* HS2: Bài toán hỏi gì ?
* HS1:Hỏi làm công việc đó bằng máy hết bao nhiêu giờ?
* HS1: Bài toán thuộc dạng nào ?
* HS2: Bài toán thuộc dạng giảm một số đi một số lần.
Ví dụ 4: Bài 2 SGK/61: Ngăn trên có 6 quyển sách, ngăn dưới
có 24 quyển sách. Hỏi số sách ở ngăn trên bằng một phần mấy số
sách ở ngăn dưới?
* HS1: Bài toán cho biết gì ?
* HS2: Ngăn trên có 6 quyển sách, ngăn dưới có 24 quyển sách.
* HS2:Bài toán hỏi gì ?
* HS1: Hỏi số sách ở ngăn trên bằng một phần mấy số sách ở ngăn
dưới?
* HS1: Bài toán thuộc dạng nào ?
* HS2: Bài toán thuộc dạng so sánh số bé bằng một phần mấy số
lớn...
Trong quá trình thảo luận, tất cả HS được đọc và tìm hiểu đề, gạch
chân để xác đònh những từ trọng tâm của đề bài ở SGK, tạo được sự hỗ trợ
tích cực từ phía HS khá giỏi đến HS chậm, yếu nhằm giúp HS củng cố lại
phương pháp giải bài toán và vận dụng làm bài đạt kết quả cao.
* Với các bài rèn kó năng tính cũng cần có sự lựa chọn cho HS thảo
luận.
17
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
*Một số bài tập về xếp hình trong chương trình Toán 3 cũng tương
đối khó với HS. Vì vậy GV cũng cần cho các em thảo luận nhóm 2 để làm
các bài tập này.
Ví dụ: Bài tập 4SGK/80:
Cho 8 hình tam giác,
Hãy xếp thành hình dưới đây:
mỗi hình như hình sau:
Với dạng bài tập này, HS thảo nhóm đôi tìm cáchghép 8 hình tam
giác để tạo thành hình mới. Sau khi HS ghép hình xong, GV cho 2 nhóm
lên ghép ở bảng cài, các nhóm khác theo dõi nhận xét.
Ví dụ: Bài tập 2 SGK/24.
6x4=
6x2=
6x5=
6x1=
24 : 6 =
12 : 6 =
30 : 6 =
6:6=
24 : 4 =
12 : 2 =
30 : 5 =
6:1=
GV cho HS tự tính nhẩm độc lập sau đó thảo luận theo nhóm 2 để
tìm ra mối quan hệ giữa phép nhân và phép chia và diễn đạt bằng lời trong
nhóm.
c. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ học tập theo từng cặp nhằm kiểm
tra lẫn nhau trong cặp:
Ví dụ: Cho HS kiểm tra kết quả làm bài của nhau, phát hiện và chữa
chỗ sai của bạn, trong trường hợp cần thiết hai bạn sẽ tranh luận.
Thông thường các cặp bạn kiểm tra bài làm của nhau là các bạn
ngồi cạnh nhau trong lớp.
Dưới đây là sự đối chứng kết quả giữa trước và sau khi áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm:
18
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Trước khi áp dụng sáng kiến kinh
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
nghiệm
- HS chưa có thói quen thảo luận - Đã hình thành cho HS thói quen và
nhóm. Việc hình thành nhóm còn phương pháp học tập theo nhóm. HS
châm, chiếm nhiều thời gian.
đã nắm được các kiểu nhóm và cách
chia nhóm nên việc hình thành
nhóm theo yêu cầu của GV không
- Ý thức tự giác, tự quản trong mỗi mất nhiều thời gian.
nhóm chưa cao. Các thành viên - Các thành viên trong nhóm đã có ý
trong nhóm chưa lắng nghe ý kiến thức tự giác, tự quản tốt. Các nhóm
của nhau.
thảo luận sôi nổi và tập trung vào
nội dung thảo luận nên không gây
mất trật tự. Trong quá trình thảo
luận, các thành viên trong nhóm đã
biết lắng nghe ý kiến của nhau để
- Các thành viên trong nhóm chưa bổ sung và hoàn chỉnh theo yêu cầu
nắm được nhiệm vụ của mình. của GV.
Nhóm trưởng chưa điều khiển được - HS đã nắm được nhiệm vụ của
các bạn thảo luận đạt hiệu quả.
mình, biết đươcï nhiệm vụ chính của
nhóm trưởng, thư kí, báo cáo viên
và các thành viên khác trong nhóm.
Đồng thời HS được thực hiện các
nhiệm vụ khác nhau trong nhóm nên
- Chưa có sự hợp tác trong nhóm. có thể chia sẻ kinh nghiệm với các
HS khá giởi làm việc nhiều, HS bạn khác, HS được rèn luyện và
chậm, yếu tham gia một cách thụ phát triển tư duy.
19
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
động, đôi khi không làm việc.
- Các thành viên trong nhóm đã biết
hợp tác với nhau cùng giúp nhau
trong học tập để đạt mục đích
chung. HS chậm, yếu có nhiều cơ
hội học hỏi ở các bạn HS khá giỏi.
Đã tham gia thảo luận tích cực, điều
này đã đóng góp vào sự thành công
của cả nhóm.
20
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
C. PHẦN THỨ BA:
KẾT QUẢ& VIỆC PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG
VÀO NỘI DUNG THỰC TIỄN.
1. Kết luận:
Từ kết quả nghiên cứu lý luận về hình thức dạy học theo nhóm và tìm
hiểu về thực trạng của việc dạy học theo nhóm ở môn Toán lớp 3, tôi đã
đề xuất một số biện pháp dạy học theo nhóm và vận dụng vào thực tế dạy
học môn Toán lớp 3 bước đầu đã mang lại kết quả khả quan: HS phát huy
được tính tích cực, tương tác trong dạy học theo nhóm. Đồng thời với hình
thức dạy học này đã hấp dẫn, lôi cuốn HS vào các hoạt động học, thu lượm
kiến thức bằng khả năng của mình với sự giúp đỡ, hướng dẫn của GV.
Kết quả đạt được:
Năm học 2006 -2007; 2007-2008: 100% học sinh lớp tôi chủ nhiệm
đều đạt điểm khá giỏi môn toán.
Kết quả kiểm tra môn toán năm học 2008 -2009 như sau:
Giữa kỳ I: Điểm : 9 -10
30 em / 38 em
Điểm : 7 - 8
7em / 38 em
Điểm : 5 - 6
1em / 38 em
Đa số các em đều thích thú, sôi nổi khi học toán, viết chữ rõ ràng,
biết trình bày bài toán sạch, đẹp. Một số em khá, giỏi trong lớp đã có thể
21
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
hiểu và phân tích được đề toán, tự tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, giải toán
đúng được bài toán. Từ thực tế trên, tôi rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để giúp học sinh phát huy được tính chủ động, tích cực trong học tập
và nâng cao chất lượng học toán của học sinh, giáo viên cần:
• Nắm vững mục tiêu từng bài học, trên cơ sở đó có biện pháp tổ
chức dạy học thích hợp cho học sinh.
• Phải lựa chọn nội dung thảo luận nhóm hợp lý thì việc áp dụng
hình thức dạy học theo nhóm mới mang lại hiệu quả.
• Việc sử dụng hình thức dạy học theo nhóm phải được tiến hành
thường xuyên, đều khắp ở tất cả các môn học.
• Phải thường xuyên thay đổi các hình thức tổ chức học tập của học
sinh để các em khỏi nhàm chán. chú ý tư duy độc lập của từng học sinh.
• Lời nói của giáo viên phải nhẹ nhàng, chính xác thường xuyên
động viên, khen thưởng học sinh kòp thời để khích lệ các em.
• Phải đặt mình vào nhận thức của trẻ để giảng dạy, tránh gây áp
lực nặng nề cho các em.
Trên đây là một số giải pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng
dạy môn toán cho học sinh lớp ba. Kính mong các quý thầy cô vui lòng
góp ý chỉ bảo thêm để các giải pháp này thực sự mang lại hiệu quả thiết
thực, giúp cho tôi giảng dạy tốt hơn môn toán cho học sinh nhằm đáp ứng
được mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo.
22
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
Pleiku, tháng 12 năm 2008
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
+ Vũ Quốc Chung
- Đỗ Trung Hiệu
- Đỗ Đình Hoan
- Vũ Dương Thụy- Phương pháp dạy học môn toán ở tiểu học . NXB:
Đại học Sư phạm, 2005
+Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho GV tiểu học chu kì III(20032007) hai tập, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004.
+ Toán 3 NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004.
+ Tài liệu tập huấn dạy và học tích cực của Bộ Giáo dục và đào tạo.2001
+ Hội thảo về đổi mới chương trình và Sách giáo khoa tiểu học 2000
của Bộ Giáo dục và Đào tạo .
--------------------- --------------------
23
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
MỤC LỤC
Trang
A. Phần mở đầu
1
B. Phần thứ hai: Những biện pháp giải quyết vấn đề
4
C. Phần thứ ba: Kết quả và việc phổ biến ứng dụng
24
Bùi Thị Giao Thuỷ - TH Chu Văn An, Pleiku
nội dung vào thực tiễn
Tài liệu tham khảo:
15
17
25