Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

một số biện pháp nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm trong dạy học địa lý ở trường thcs vùng ven có học sinh dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.29 KB, 21 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. PLEIKU
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢTHẢO
LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ Ở
TRƯỜNG THCS
Họ và tên người viết: CHU VĂN BÌNH
Chuyên môn: CAO ĐẲNG SƯ PHẠM SỬ - ĐỊA
Đơn vò: TRƯỜNG THCS ANH HÙNG WỪU
Năm học: 2008-2009
1
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. PLEIKU
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢTHẢO
LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ Ở
TRƯỜNG THCS
Năm học: 2008-2009
2
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay chú trọng đến các phương
pháp lấy học sinh làm trung tâm. Thảo luận nhóm là một trong những
phương pháp học tập có hiệu qủa trong việc tổ chức hoạt động nhận thức
cho học sinh. Phương pháp hoạt động nhóm còn gọi là phương pháp Semi
na. Đây cũng là một trong những hình thức dạy học phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giúp học sinh có cơ hội bàn bạc, trao
đổi, đóng góp ý kiến của mình vào nội dung bài học. Khi học theo nhóm
học sinh sẽ được thảo luận theo từng vấn đề của bài học, đó là cơ hội cho
mọi học sinh tham gia hoạt động học tập, cơ hội cho các em học hỏi lẫn
nhau, hỗ trợ lẫn nhau về cách tìm kiếm những giải pháp để giải quyết
những tình huống trong bài học, ngoài ra khi học theo nhóm học sinh còn
có thể cùng nhau đạt được những điều mà các em không làm được một
mình, cần phải bằng cách cùng mọi người trong nhóm đóng góp một phần


hiểu biết của mình rồi cả nhóm tập hợp thành một cách giải quyết tốt nhất
mà giáo viên đã phân công. Qua đó tính tích cực, chủ động, tư duy sáng
tạo của học sinh được phát huy đến cao độ. Hoạt động nhóm còn rèn cho
học sinh thói quen làm việc tập thể, tính đoàn kết, làm cho những học sinh
nhút nhát ngày càng mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong phát biểu, trong xây
dựng bài, trong sinh hoạt cộng đồng, trong đời sống làm cho các em yêu
thích môn học, thích sự khám phá và có động cơ học tập đúng đắn, kiến
thức của các em sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, các em sẽ dễ nhớ,
nhớ lâu, kiến thức của các em trở nên sâu sắc bền vững. Thảo luận nhóm
còn giúp học sinh mở rộng, đào sâu thêm những vấn đề học tập trên cơ sở
nhìn nhận một cách có suy nghó, phân tích có lí lẽ, phát triển được tư duy
khoa học, giúp học sinh phát triển các kó năng nói, giao tiếp, tranh luận,
bồi dưỡng các phương pháp nghiên cứu một cách vừa sức như phương pháp
tìm đọc tài liệu tham khảo, phương pháp quan sát, ghi chép…, thảo luận
nhóm còn tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa giáo viên và học sinh, giữa
học sinh và học sin, giúp giáo viên nắm bắt tình hình học tập của học sinh
một cách nhanh nhất.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi ngành giáo dục tiến
hành đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Đã có nhiều nhà khoa
học, học giả, nhà giáo đề cập nhiều về phương pháp hoạt động nhóm.
Nhưng nhìn chung những công trình nghiên cứu của các tác giả đã đề cập
3
đến vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau, mang tính chất chung dùng
trong nhà trường với các cấp học khác nhau. Mỗi đòa phương mỗi vùng,
miền, từng trường THCS tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh của mình để đưa
ra các hình thức, các biện pháp hoạt động nhóm cho phù hợp thì mới mang
lại hiệu quả cao khi sử dụng phương pháp này.
Hoạt động thảo luận nhóm và hoạt động làm việc theo nhóm là hai
hình thức dạy học hoàn toàn khác nhau. Làm việc theo nhóm là những câu
hỏi lớn hơn dùng cho các bài thực hành hoặc các bài tổng kết. Còn thảo

luận nhóm là thảo luận những vấn đề nhỏ trong từng bài dạy, nhưng đó là
những vấn đề khó yêu cầu cần phải có sự hợp tác, trao đổi giữa các học
sinh trong nhóm để đưa ra câu trả lời. Trong đề tài này chúng tôi chỉ đề
cập đến một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong phương pháp thảo
luận nhóm.
Qua thực tế đi dự giờ học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp tôi thấy
các giáo viên tiến hành các hoạt động thảo luận nhóm còn ít, đôi khi còn
mang tính hình thức, chưa phát huy được hiệu quả của nó.
Bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy đòa lí đã được 10 năm, qua
thời gian giảng dạy và áp dụng các hoạt động theo nhóm tôi thấy nảy sinh
một số vấn đề cần giải quyết như sau:
- Học sinh còn thụ động trong quá trình thảo luận nhóm, đặc biệt là
các em học sinh yêú.
- Một số học sinh còn bò động và lúng tùng trong quá trình thảo luận.
- Nhiều học sinh còn nhút nhát, chưa động não, chưa hoạt động tích
cực (chủ yếu là các em học yếu), trong khi đó các em học khá, giỏi thì làm
hết phần việc của nhóm.
- Thời gian thảo luận chưa đảm bảo, vượt quá thời gian quy đònh làm
ảnh hưởng đến thời gian các hoạt động khác của bài dạy.
Ø - Học sinh trong nhóm và học sinh giữa các nhóm nhận xét, bổ sung
nội dung thảo luận chưa hiệu quả.
Từ thực tế trên, trong các năm qua tôi đã luôn trăn trở để tìm ra các
biện pháp tiến hành hoạt động thảo luận nhóm nhằm mang lại hiệu quả
cao hơn trong từng tiết dạy. Qua từng tiết dạy áp dụng hoạt động nhóm ở
các khối lớp đối với đòa bàn trường tôi đang công tác, tôi đã đúc kết và rút
ra được một số kinh nghiệm nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong các giờ
lên lớp có nội dung cần thảo luận nhóm.
4
PHẦN II: CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1/ Chuẩn bò hoạt động thảo luận nhóm:

Trước khi đưa hoạt động thảo luận nhóm vào một bài dạy giáo viên
cần phải trả lời được các câu hỏi sau:
Mục tiêu của hoạt động nhóm trong bài này là gì ? Tại sao phải thảo
luận tiểu mục này, nội dung này, liệu nó có phù hợp với các mục tiêu tổng
thể của bài giảng không ?
Hoạt động này cần bao nhiêu thời gian ? Thời gian còn lại có đủ để
hoàn thành bài dạy không ?
Hoạt động này yêu cầu giáo viên và học sinh cần chuẩn bò những
phương tiện, thiết bò gì ? Học sinh cần phải tham khảo trước các tài liệu
nào ? Liệu những yêu cầu đó thầy và trò có đáp ứng được không ?
Hoạt động này cần bao nhiêu câu hỏi, cần chia bao nhiêu nhóm, mỗi
nhóm bao nhiêu học sinh là phù hợp ?
2/ Chọn câu hỏi (nêu vấn đề) cho học sinh thảo luận :
Việc chuẩn bò câu hỏi cho các nhóm thảo luận là một khâu quan
trọng. Những câu hỏi quá đơn giản sẽ làm cho thời gian thảo luận buồn tẻ
và rất dễ đi đến tình trạng thờ ơ của nhiều học sinh. Do đó nên chuẩn bò
những “câu hỏi mở” tức là câu hỏi có nhiều hướng phát triển, nhiều cách lí
giải, đòi hỏi học sinh phải tư duy và trình bày nhiều ý kiến, học sinh phải
tranh luận để tìm ra kết quả đúng nhất thì mới lôi cuốn được nhiều học
sinh tham gia.
Mặt khác khi chọn vấn đề thảo luận cần lưu ý là phải xem xét,
nghiên cứu xem học sinh đã biết gì, cảm thấy gì, suy nghó gì về vấn đề
giáo viên đưa ra để tránh trường hợp quá sức học sinh thì buổi thảo luận
cũng sẽ mất đi ý nghóa .
Nội dung thảo luận có thể lấy từ các câu hỏi khó trong sách giáo
khoa hoặc khi khai thác tình huống mâu thuẩn trong bài để cho học sinh
thảo luận tìm phương án giải quyết .
Ví dụ : Khi giảng về sông ngòi khu vực Đông Á, giáo viên có thể
khai thác tình huống có vấn đề cho học sinh thảo luận như: “Tại sao thuỷ
chế của hai sông Hoàng Hà và Trường Giang hoàn toàn trái ngược nhau?”.

Các câu hỏi thảo luận nên cân nhắc kỹ và chuẩn bò trước trong phiếu
học tập (in vi tính ), hoặc tiện nhất là viết sẵn trong bảng phụ ( loại bảng
5
xếp , thảo luận đến câu nào thì mở ra đến câu đó ). Những câu hỏi cần
phải tham khảo nhiều tài liệu mới trả lời được thì giáo viên nên phổ biến ở
cuối
tiết trước (trong phần dặn dò) và giới thiệu cụ thể tên tài liệu tham khảo.
Cần lưu ý là mức độ và dung lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi phải
tương đối đồng đều nhau, tránh trường hợp giao cho nhóm này câu hỏi quá
dễ còn nhóm kia thì quá khó .
3/ Cách xếp nhóm :
Vấn đề đặt ra là xếp bao nhiêu học sinh vào một nhóm là vừa? Cần
phải suy nghó cẩn thận khi chia học sinh thành nhóm. Nếu chia nhóm
không hợp lí thì hoạt động nhóm sẽ thất bại ngay từ đầu vì giáo viên bò
mất khả năng kiểm soát lớp.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy xếp từ 4 đến 8 học sinh vào một
nhóm là hoạt động có hiệu quả nhất và nhanh nhất vì khi giáo viên yêu
cầu thảo luận nhóm thì từng cặp bàn (loại 4 chổ ngồi = nhóm 8 HS ; loại 2
chổ ngồi = nhóm 4 HS ) quay lại với nhau là xong, ít tốn thời gian di
chuyển và không gây mất trật tự. Mặt khác nhóm có ít học sinh thì càng có
ít học sinh “ăn theo” nên mỗi học sinh đều phải hoạt động, không có học
sinh đứng xớ rớ bên ngoài và có ít học sinh thì sự thống nhất ý kiến càng
nhanh, đỡ tốn thời gian.
Số lượng nhóm ít nhất phải gấp đôi số lượng câu hỏi thảo luận.
Nghóa là một câu hỏi thì ít nhất phải có hai nhóm cùng thảo luận câu hỏi
đó, như vậy mới thực hiện được khâu quan trọng tiếp theo là nhận xét
đánh giá lẫn nhau giữa các nhóm. Nhóm này có ý kiến thảo luận khác với
nhóm bạn, hoặc đề xuất kết quả hợp lý hơn nhóm bạn thì cuộc thảo luận
mới sôi nổi.
4/ Để hoạt động thảo luận nhóm đạt hiệu quả, giáo viên phải

thực hiện đầy đủ các bước sau:
Cử trưởng nhóm điều khiển thảo luận và thư ký ghi những ý kiến
của các thành viên trong nhóm.
Phổ biến rõ các câu hỏi thảo luận cho từng nhóm (đã chuẩn bò sẵn
trong bảng xếp, hoạêc phiếu học tập… ), giải thích rõ yêu cầu thực hiện cho
từng câu hỏi để học sinh đi đúng hướng và qui đònh thời gian thảo luận sao
cho hợp lí. Tuyệt đối không phát trước các dụng cụ trình bày (giấy khổ to,
bảng phụ, viết ) trước khi hướng dẫn thảo luận vì nếu phát trước học sinh
sẽ tiến hành hoạt động chứ không nghe hướng dẫn.
Trong thời gian các nhóm thảo luận, giáo viên nhất thiết không được
làm việc khác mà phải thường xuyên đi kiểm tra hoạt động của từng nhóm
6
để nắm được em nào hoạt động, em nào không, em nào giành nói suốt và
lắng nghe các em trao đổi có đúng hướng không. Nếu phát hiện có thành
viên trong nhóm không tham gia hoạt động, giáo viên có thể trực tiếp yêu
cầu học sinh đó tham gia phát biểu.
Ví dụ : “Em A, em hãy nêu ý kiến của em cho cả nhóm nghe về vấn
đề mà nhóm em đang thảo luận”.
Nếu thấy nhóm nào gặp khó khăn giáo viên không giải đáp thắc
mắc ngay, mà chỉ giúp học sinh hướng tư duy hoặc cung cấp các nguồn dữ
liệu , tư liệu cần thiết cho việc làm sáng tỏ vấn đề .
Ví dụ : Để giúp học sinh giải thích tại sao thuỷ chế sông Hoàng Hà
và Trường Giang hoàn toàn khác nhau, giáo viên gợi ý cho học sinh nhớ
lại những yếu tố tự nhiên nào quyết đònh chế độ nước của một con sông?
Nếu học sinh chưa tiếp cận được vấn đề, giáo vên có thể đưa ra một vài
gợi ý tiếp theo. Giáo viên nên dành sự giúp đỡ cho các nhóm như nhau,
không dành thời gian quá nhiều cho một nhóm hay một cá nhân nào.
Giáo viên nên có lời cảnh báo trước khi hết thời gian thảo luận .
Ví dụ : “Chúng ta chỉ còn 2 phút, các em thống nhất ý kiến đi.”
Khi hết thời gian thảo luận, giáo viên yêu cầu một em thay mặt

nhóm trình bày kết quả thảo luận. Tuỳ nội dung câu hỏi, tuỳ điều kiện
từng trường, học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau (dùng
đèn chiếu, bảng phụ, giấy khổ to, phiếu học tập ). Khi học sinh các nhóm
lên trình bày, giáo viên không nên đưa ra các câu hỏi chất vấn làm học
sinh lúng túng hoặc đưa ra câu trả lời đúng, sai lập tức mà phải để ngỏ cho
các nhóm khác nhận xét .
Để tiết kiệm thời gian, mỗi câu hỏi giáo viên có thể chỉ yêu cầu một
vài nhóm trình bày kết quả (nếu các nhóm cùng thảo luận một câu hỏi),
các nhóm không được yêu cầu trình bày kết quả thì có nhiệm vụ nhận xét,
bổ sung phần trình bày của nhóm bạn nhằm đảm bảo tất cả đều có cơ hội
đóng góp ý kiến, qua đó giáo viên cũng đánh giá được kết quả thảo luận
của các nhóm này. Khi học sinh các nhóm khác nhận xét bổ sung, giáo
viên phải lắng nghe cẩn thận và ghi tóm tắt lên bảng những điểm cơ bản
của mỗi ý kiến phát biểu để phát hiện những mâu thuẩn giữa các ý kiến,
nếu có ý kiến khác nhau thì kòp thời nêu vấn đề cho học sinh tiếp tục giải
quyết, tuy nhiên không nên để cuộc thảo luận chệch hướng hoặc kéo dài vì
một vấn đề nhỏ.
Khi các nhóm không còn ý kiến bổ sung, giáo viên phải dành đủ một
khoảng thời gian thích đáng trong giờ giảng để nhận xét các ý kiến của
học sinh và thực hiẹân một quá trình phản hồi đầy đủ và hoàn chỉnh các
7
thông tin học sinh cần ghi nhớ mà giáo viên đã chuẩn bò trước trong bài.
Sau đó giáo viên đặt câu hỏi kiểm tra một số em xem các em đã nắm được
vấn đề chưa. Cuối cùng giáo viên cũng nên khuyến khích, động viên học
sinh tiếp tục tham gia phát biểu trong những lần sau bằng cách tỏ thái độ
hài lòng, thích thú, khen ngợi kòp thời những câu trả lời của học sinh, hoặc
cho điểm những học sinh xuất sắc.
5/ Biện pháp khuyến khích mọi thành viên trong nhóm tham gia
thảo luận:
Trong các tài liệu hướng dẫn yêu cầu giáo viên cho mỗi nhóm tự

bầu nhóm trưởng, thư ký. Tuy nhiên qua thực tế áp dụng chúng tôi thấy
không hiệu quả bằng việc giáo viên chỉ đònh và bồi dưỡng lần lượt từng
học sinh trong nhóm luân phiên theo thứ tự làm nhóm trưởng hoặc thư ký.
Làm như vậy để mỗi học sinh đều có khả năng hướng dẫn thảo luận trong
nhóm mình. Kinh nghiệm này theo chúng tôi là có thể chấp nhận được vì
nó giúp cho mọi học sinh đều có điều kiện để bồi dưỡng cho mình năng lực
tổ chức, điều khiển hoạt động học tập và nâng cao hứng thú tìm tòi, nghiên
cứu, tránh được thói quen cả nhóm chỉ trông chờ, ỷ lại vào một vài thành
viên nổi trội trong nhóm mình.
Đối với những lớp chưa có phong trào và thói quen học tập tốt, giáo
viên cũng không nên để cho nhóm tự cử đại diện báo cáo kết quả thảo
luận mà giáo viên chỉ đònh bất kì một thành viên trong nhóm (chú ý những
học sinh có thái độ lơ là) đứng lên báo cáo kết quả thảo luận của nhóm và
giáo viên có thể đặt thêm một số câu hỏi phụ yêu cầu học sinh đó lí giải
những nội dung vừa trình bày để kiểm tra xem học sinh đó có tham gia
thảo luận không, có hiểu vấn đề không, qua đó giáo viên có thể kòp thời
uốn nắn và nhắc nhở, cho điểm các em tuỳ theo mức độ. Có như vậy thì
mọi thành viên trong nhóm mới tập trung tham gia thảo luận, khắc phục
được tình trạng chỉ có nhóm trưởng và thư kí làm việc, còn các học sinh
khác (đa số là những học sinh yếu hoặc lười biếng) cứ ngồi làm việc riêng
hoặc có thái độ ỷ lại, bất hợp tác, chờ đến khi nào giáo viên đưa kết quả
chuẩn xác rồi ghi vào vở mà không hiểu gì cả. Cần chú ý là giáo viên bộ
môn cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp để phân chia chỗ ngồi cho
học sinh đảm bảo trong mỗi nhóm phải có cả học sinh yếu, học sinh trung
binh và khá, giỏi.
Để phần nào làm rõ hơn phần trình bày ở trên, chúng tôi xin nêu
một vài ví dụ cụ thể như sau :
Ví dụ 1 :
Bài 10 ( Đòa 8 ): Điều kiện tự nhiên của khu vực Nam
8

Sau khi nghiên cứu mục tiêu bài học chúng tôi thấy một trong các
kiến thức và kó năng mà học sinh cần đạt đựơc là phải biết sử dụng, phân
tích lược đồ phân bố mưa để thấy được sự ảnh hưởng của đòa hình đối với
sự phân bố lượng mưa trong khu vực. Để đạt được mục tiêu đó ở phần 2
(khí hậu) chúng tôi chọn phương pháp cơ bản là thảo luận nhóm.
Ở bước chuẩn bò :
+ Chúng tôi chọn câu hỏi mở đầu là “Bằng kiến thức đã học ở bài 2
hãy nhắc lại khu vực Nam Á chủ yếu nằm trong đới khí hậu nào? Có lượng
mưa ra sao?”
+ Chọn câu hỏi thảo luận là “Dựa vào lược đồ hình 10.2 hãy nhận
xét và giải thích lượng mưa ở 3 đòa điểm : Se-ra-pun-đi, Mum-bai, Mun-
tan?”.
+ Dự kiến thời gian cho hoạt động này là 5 phút.
+ Phương tiện thực hiện là bảng xếp (dành cho giáo viên) và phiếu
học tập in sẵn (dành cho học sinh) có nội dung như sau :
PHIẾU HỌC TẬP
Nhóm :
- Đòa điểm :
- Lượng mưa :
- Giải thích :

+ Tổ chức nhóm: Do phòng học chúng tôi đang dạy có 2 dãy bàn,
mỗi dãy 6 bàn nên chúng tôi dự kiến chia làm 6 nhóm, mỗi nhóm 2 bàn
( khoảng 8 HS / nhóm).
Tiến hành hoạt động:
+ Giáo viên mở trang đầu bảng phụ có ghi sẵn nội dung câu hỏi mở
đầu, gọi một học sinh trả lời, sau đó giáo viên đặt vấn đề để gây sự chú ý
cho học sinh.
+ Giáo viên mở trang 2 của bảng xếp có ghi sẵn nội dung thảo luận.
+ Giáo viên phân nhóm theo dự kiến, cử nhóm trưởng, thư kí.

+ Giáo viên treo lược đồ hình 10.2 phóng to.
+ Giáo viên dựa vào lược đồ giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm
( Một đòa điểm có 2 nhóm nhận xét và giải thích ).
+ Yêu cầu các nhóm ngồi vào vò trí (từng cặp bàn quay lại với nhau).
+ Phát phiếu học tập và công bố thời gian thảo luận.
+ Giáo viên đi quan sát từng nhóm, nhắc nhở học sinh trong nhóm
tập trung thảo luận, nếu nhóm nào không biết giải thích giáo viên gợi ý
9
từng bước như “các em hãy quan sát xem đòa điểm này chòu ảnh hưởng của
hướng gió nào, nó từ đâu thổi đến, có tính chất ra sao?, so với hướng của
đòa hình thì như thế nào? ”, tuỳ tình hình mà giáo viên có gợi ý giúp học
sinh tư duy.
+ Còn khoảng 2 phút giáo viên nhắc học sinh thống nhất ý kiến và
ghi vào phiếu học tập.
- Kết thúc hoạt động:
+ Yêu cầu học sinh quay lại vò trí ban đầu.
+ Giáo viên gọi học sinh nhóm một báo cáo kết quả thảo luận của
nhóm mình ở đòa điểm thứ nhất và gọi nhóm hai cùng thảo luận ở đòa điểm
thứ nhất có ý kiến nhận xét bổ sung (hoặc ngược lại), giáo viên yêu cầu cả
lớp có thêm ý kiến nếu thấy còn chưa đủ. Các ý kiến bổ sung giáo viên ghi
tóm tắt nhanh lên bảng. Khi không còn ý kiến, giáo viên dựa vào lược đồ
để chuẩn xác kiến thức, sau đó giáo viên liên hệ lại những ý kiến học sinh
vừa phát biểu để đánh giá kết quả thảo luận, khen ngợi những ý kiến
đúng.
+ Tương tự như vậy, thầy-trò cùng phân tích, giải thích hai đòa điểm
còn lại.
+ Cuối cùng để kiểm tra mức độ nhận thức cũng như khả năng khái
quát vấn đề, giáo viên đặt thêm hai câu hỏi và chỉ đònh bất kỳ học sinh
nào để trả lời:
Em hãy rút ra kết luận về sự phân bố lượng mưa ở Nam Á?

Nguyên nhân của sự phân bố đó?
Nếu học sinh trả lời được hai câu hỏi trên coi như đã đạt yêu cầu.
Ví dụ 2 :
Bài 22 (Đòa 6 ): Các đới khí hậu trên Trái Đất.
Khi thiết kế bài này chúng tôi xác đònh trọng tâm là mục 2: Sự phân
chia bề mặt trái đất ra các đới khí hậu theo vó độ.
Ở mục này cần phải đạt được hai mục tiêu:
- Kiến thức: Học sinh trình bày được vò trí của các đai nhiệt, các đới
khí hậu và đặc điểm của các đới khí hậu theo vó độ trên bề mặt Trái Đất.
- Kỹ năng: Biết xác lập mối quan hệ nhân quả giữa góc chiếu sáng,
thời gian chiếu sáng của Mặt Trời với nhiệt độ của không khí.
Để đạt hai mục tiêu trên, chúng tôi chọn phương pháp thảo luận theo
nhóm.
- Ở bước chuẩn bò :
+ Chúng tôi thiết kế hai phiếu học tập phục vụ cho hai hoạt động
nhóm.
10
Phiếu học tập số 1: thiết kế dạng bảng tổng hợp để học sinh dựa vào
đó làm rõ các đặc điểm của từng đới khí hậu trình bày trong sách giáo
khoa.
Phiếu học tập số 2: thiết kế dạng sơ đồ trống để học sinh củng cố
kiến thức và hình thành mối quan hệ nhân quả giữa góc chiếu sáng, thời
gian chiếu sáng của Mặt Trời với nhiệt độ của không khí.
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1
Nhóm :

Đới Vò trí
( vó độ )
Góc chiếu
của ánh

sáng Mặt
Trời
Nhiệt độ Gió thổi
thường
xuyên
Lượng
mưa trung
bình năm
(mm)

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2
Nhóm :

+ Phương thức thực hiện là tổ chức hai hoạt động nhóm nối tiếp
nhau.
+ Dự kiến thời gian thích hợp cho từng hoạt động: hoạt động 1 là 6
phút, hoạt động 2 là 5 phút.
11
Đới
…………………….
Góc chiếu sáng:
………………………………
Thời gian chiếu
sáng:
…………………………………
………………….
Nhiệt độ
không khí :
……………………
Nhiệt lượng

hấp thụ:………
…………………….
+ Chuẩn bò phương tiện thực hiện gồm: bảng xếp, phiếu học tập
(mỗi phiếu 7 bản), bút dạ, hình 58 SGK phóng to, quả Đòa Cầu, mô hình
trái đất- Quả đòa cầu- mặt trăng.
+ Tổ chức nhóm: do đặc thù phòng học nên chúng tôi chia 6 nhóm,
mỗi nhóm 2 bàn.
- Tiến hành hoạt động 1:(hoàn thành phiếu học tập số 1).
+ Giáo viên treo hình 58 phóng to và đặt vấn đề yêu cầu học sinh
thảo luận.
+ Giáo viên phân nhóm theo dự kiến, cử nhóm trưởng, thư kí.
+ Giáo viên giao nhiệm vụ cho từng nhóm (nhóm 1, 2 tìm hiểu đới
nóng, nhóm 3, 4 tìm hiểu đới ôn hoà, nhóm 5, 6 tìm hiểu đới lạnh).
+ Yêu cầu các nhóm ngồi vào vò trí (từng cặp bàn quay lại với nhau).
+ Phát phiếu học tập, bút, quy đònh thời gian hoàn thành phiếu 1.
+ Giáo viên đi quan sát hoạt động của từng nhóm để có sự uốn nắn
kòp thời.
+ Nhắc học sinh thời gian thảo luận sắp hết.
- Kết thúc hoạt động 1:
+ Giáo viên gọi học sinh quay về vò trí ban đầu và các nhóm nộp
phiếu học tập.
+ Giáo viên đưa phiếu học tập của nhóm 1 lên bảng và chỉ đònh một
học sinh của nhóm đọc to cho cả lớp nghe (kết hợp chỉ trên lược đồ 58
phóng to), nhóm 2 nhận xét, bổ sung (hoặc ngược lại) và gọi các nhóm
khác nhận xét thêm, những ý kiến mới được giáo viên ghi tóm tắt trên
bảng.
+ Đến đây học sinh mới dừng lại ở mức độ nhận biết và thu thập các
thông tin từ sách giáo khoa mà chưa hiểu rõ vấn đề nên giáo viên phải
dùng quả đòa cầu, mô hình trái đất-mặt trời-mặt trăng, hình 58 kết hợp với
câu hỏi phát vấn để giúp học sinh giải thích lần lượt từng đặc điểm của đới

nóng như: Vì sao ở đới nóng có góc chiếu của mặt trời lớn?, vì sao có
lượng mưa trung bình năm ở đới nóng lớn hơn các đới khác?
+ Tiếp theo giáo viên mở trang đầu của bảng xếp đã có ghi sẵn nội
dung chuẩn xác cần ghi nhớ những đặc điểm của đới nóng, đồng thời đối
chiếu với kết quả thu thập được của học sinh để nhận xét về kết quả thảo
luận của nhóm 1 và 2, khen ngợi những ý kiến bổ sung đúng.
+ Tương tự như vậy thầy-trò lần lượt tìm hiểu đới ôn hoà và đới
lạnh.
Để rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức, giáo viên tiếp tục hoạt động hai
.
12
-Tiến hành hoạt động 2 :
+ Giáo viên tiếp tục duy trì nhóm như hoạt động 1 nhưng thay đổi
nhóm trưởng và thư kí.
+ Giáo viên phát phiếu học tập số 2 và hướng dẫn học sinh thảo luận
tìm nội dung thích hợp điền vào chỗ trống trong các ô, đồng thời vẽ mũi
tên chỉ mối quan hệ giữa các ô đó.
+ Giao cho nhóm 1+2 thiết lập sơ đồ thể hiện mối quan hệ nhân quả
giữa góc chiếu sáng, thời gian chiếu sáng của Mặt Trời với nhiệt độ không
khí ở đới nóng, nhóm 3+4: đới ôn hoà, nhóm 5+6: đới lạnh.
+ Tiến trình tiếp theo như ở hoạt động 1.
- Kết thúc hoạt động 2:
+ Giáo viên yêu cầu học sinh quay về vò trí cũ.
+ Giáo viên thu lại phiếu học tập của 6 nhóm.
+ Phần báo cáo và ý kiến bổ sung của học sinh được tiến hành như
hoạt động1.
+ Sau khi các nhóm trình bày xong và học sinh không còn ý kiến,
giáo viên lần lượt mở 3 sơ đồ đã hoàn chỉnh trong bảng xếp và đối chiếu
lại với sơ đồ của từng nhóm để nhận xét và bổ sung.
Nếu cả 6 nhóm đều thực hiện đúng các sơ đồ như phân công thì coi

như hoạt động nhóm đã có hiệu quả.
Ví dụ 3: Khi dạy bài : Đòa hình bề mặt trái đất . (Đòa lí lớp 6).
Giáo viên cho học sinh thảo luận:
Nhóm 1-3-5: Nhận xét sự khác nhau về hình thái bên ngoài giữa núi
già và núi trẻ về các đặc điểm sau :(Đỉnh của núi, sườn của núi và thung
lũng của núi).
Yêu cầu học sinh quan sát hình sau (giáo viên phóng to treo lên
bảng ). Giáo viên chỉ rõ cho học sinh các bộ phận của núi. ( như ở hình
sau ).
13

Học sinh thảo luận và điền kết quả vào phiếu học tập sau: Nội dung
(B) và (C) là phần làm việc của học sinh.
Hình thái
(A)
Núi già
(B)
Núi trẻ
(C)
Đỉnh
Sườn
Thung lũng
Tròn
Thoải
Rộng
Nhọn
Dốc
Hẹp
Nhóm 2-4-6: Quan sát hình 34 SGK ( giáo viên phóng to treo lên bảng) và
cho biết cách tính độ cao tuyệt đối và độ cao tương đối của núi khác nhau

như thế nào ?
14
Học sinh các nhóm làm việc khoảng từ 3 đến 4 phút, sau đó đại diện
các nhóm trình bày, các nhóm khác nhận xét, bổ sung, cuối cùng giáo viên
nhận xét đánh giá và rút ra kết luận.
PHẦN III: KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Những biện pháp trên giúp cho những lần tổ chức thảo luận nhóm có
hiệu quả rõ rệt:
Cuộc thảo luận diễn ra nhanh gọn, đúng theo thời gian dự kiến.Tất
cả thành viên trong nhóm đều tích cực tham gia thảo luận và mạnh dạn
tranh luận với các nhóm khác.
Các thành viên trong nhóm đều có khả năng điều khiển nhóm thảo
luận hoặc tổng hợp ý kiến thảo luận của nhóm với vai trò là nhóm trưởng
hay thư kí.
Đặc biệt là khả năng tư duy của học sinh tiến bộ rõ rệt.Các em
không
còn thói quen chép lại toàn bộ những nội dung trong sách, vở có liên quan
đến câu hỏi vào bài kiểm tra, mặc dù đó là câu hỏi đòi hỏi học sinh phải tư
1500
1500
1000
500
0
m
(1)
(2)
(3)
Độ cao ( m)
Hình 34. Độ cao tương đối và độ cao tuyệt đối
(1),(2) Độ cao tương đối

(3) Độ cao tuyệt đối
Đỉnh A
Biển
15
duy phân tích, giải thích, so sánh …).
Những hiệu quả nói trên phần nào được minh chứng qua bảng thống
kê sau:
(Số liệu được thống kê trong giáo án và sổ điểm cũ).
Năm học Khối Số
bài
dạy
Số bài có
HĐ nhóm
Số lần
HĐ nhóm
Số lần

nhóm có
hiệu quả
Chất
lượng
bộ
môn
2003-2004 6 27 10 (37% ) 12(44%) 4 (33 % ) 78.7%
2004-2005 6 27 15 (56%) 18(67%) 7 (39 % ) 80.5%
2005-2006 6 27 17 (63%) 19(70%) 11(58 %) 88.8%
2006-2007 6 27 20 (74%) 23(85%) 20 (87%) 93.3%
2007-2009 8 44 21 (48%) 28(57%) 25 (84%) 95.2%
2008 -2009
Học kì I

6 13 10 (76%) 12 (92%) 11 (84%)
PHẦN IV: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ những giải pháp, việc làm cụ thể và kết quả nêu trên, chúng tôi
rút ra được kinh nghiệm bước đầu về hoạt động thảo luận nhóm như sau:
1/ Ở bước chuẩn bò:
Phải nắm vững qui trình hoạt động nhóm.
Phải xác đònh rõ mục tiêu hoạt động trong bài giảng.
Phải lựa chọn chủ đề thảo luận cho phù hợp mục tiêu bài học và đối
tượng học sinh.
Phải dự kiến khá chính xác thời gian hoạt động.
Thầy và trò phải chuẩn bò đủ điều kiện, phương tiện, thiết bò phục vụ
cho hoạt động.
Phải cho học sinh nắm được những nhiệm vụ cụ thể khi làm việc
trong nhóm và thấy được lợi ích của nó để học sinh có hứng thú tham gia
hoạt động.
2/ Trong quá trình hoạt động:
Phải tạo không khí lớp học thoải mái, sinh động.
Khuyến khích những học sinh kém tự tin phát biểu.
Hỗ trợ cho những học sinh kém khả năng diễn đạt có thể diễn đạt
được ý kiến của mình.
16
Đònh hướng cho học sinh thảo luận đúng hướng, làm sáng tỏ những
điểm học sinh có thể hiểu sai vấn đề.
Quan sát các nhóm để nhận biết tình hình thảo luận mà kòp thời uốn
nắn.
Đònh lại trọng tâm, đặt câu hỏi gợi ý khi học sinh bò lúng túng.
Tôn trọng tất cả các ý kiến, quan điểm, khuyến khích học sinh suy
nghó và phát biểu, khen ngợi những nổ lực của học sinh.
3/ Cuối hoạt động:
Tóm tắt phần thảo luận.

Đưa ra kết luận đúng.
Nhấn mạnh trọng tâm vấn đề.
Liên hệ trở lại kết quả thảo luận của học sinh để đánh giá khả năng
nhận thức của học sinh.
Kiểm tra lần cuối xem cả lớp hiểu vấn đề chưa

PHẦN V: KẾT LUẬN
Từ lí luân vận dụng vào thực tiễn đã cho thấy tổ chức một hoạt động
thảo luạân nhóm có hiệu quả sẽ đem lại hiệu quả rất lớn cho một tiết dạy.
Tuy nhiên để tạo một hoạt động nhóm có kết quả như mong muốn là một
việc làm tương đối khó, lí do khách quan cũng có, chủ quan cũng có nhưng
chúng tôi nghó rằng ai cũng làm được với điều kiện là giáo viên phải có
nhận thức đúng đắn, phải dành nhiều thời gian đầu tư suy nghó, lập kế
hoạch cụ thể, chuẩn bò chu đáo và phải mạnh dạn thực hành.
Tóm lại: Muốn nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm giáo viên phải
dốc hết nhiệt tình, tâm hồn cho nghề nghiệp, phải tìm ra những giải pháp
tốt nhất phù hợp với điều kiện thực tế giảng dạy ở cơ sở, phải tạo cho học
sinh có nề nếp, thói quen làm việc theo nhóm.
Thầy tổ chức hoạt động tốt, trò học tốt, chắc chắn là hiệu quả của
một hoạt động thảo luận theo nhóm sẽ đạt được hiệu quả cao.
Hoạt động thảo luận nhóm được xem như là một phương pháp mới
mà thời gian thực hiện cũng chưa nhiều, do đó những gì mà bản thân tôi
tích luỹ được và trình bày trên đây cũng chỉ là kinh nghiệm bước đầu.
Trong thời gian tới bản thân sẽ tiếp tục hoàn thiện thêm và rất mong được
sự góp ý kiến của đồng nghiệp.

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
Sách giáo khoa và sách giáo viên đòa lí trung học cơ sở.
Những ghi nhận từ các lớp tập huấn thay sách.

Giáo án một số đồng nghiệp.
Tạp chí Giáo Dục.
Tạp chí Thế Giới Trong Ta.
Phương pháp dạy học đòa lí (Trường đại học Huế).
18

19

×