Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Đánh Giá Tình Hình Quản Lý Thu Chi Bảo Hiểm Xã Hội Tại Huyện Ninh Giang Tỉnh Hải Dương Giai Đoạn 2003 - 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.73 KB, 119 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG/BIỂU/SƠ ĐỒ/HÌNH VẼ

Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

NLĐ

Người lao động

SDLĐ

Sử dụng lao động

NSNN



Ngân sách Nhà nước

TNLĐ

Tai nạn lao động

BNN

Bệnh nghề nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009

DANH MỤC CÁC BẢNG/BIỂU/SƠ ĐỒ/HÌNH VẼ

Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung


Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

1

GVHD: TS.Phạm Thị

LỜI NÓI ĐẦU

Ở Việt Nam, Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước, giữ vị trí trụ cột cơ bản và ngày càng quan trọng trong hệ thống
An sinh xã hội. Theo quan điểm chung nhất thì BHXH chính là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã
hội. BHXH hoạt động dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia vào một
quỹ tài chính tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước, đó là quỹ BHXH và
thông qua các chế độ BHXH, những người lao động gặp phải rủi ro được bảo
hiểm sẽ được nhận một khoản trợ cấp nhằm bù đắp, thay thế cho những khoản
thu nhập bị giảm hoặc mất do rủi ro gây ra.
Từ năm 1995, sau khi BHXH Việt Nam được thành lập, BHXH đã
chuyển sang một cơ chế quản lý mới. Đó là cơ chế quản lý theo hệ thống dọc
từ trung ương đến địa phương để thực hiện tất cả các nghiệp vụ BHXH nhằm
đảm bảo tốt nhất nhu cầu an toàn cho người tham gia và nhân dân trong cả
nước.
Trong những năm qua, công tác BHXH huyện Ninh Giang đã đạt được
nhiều kết quả và thành tích đáng khích lệ như: các đối tượng tham gia BHXH

đều được mở rộng hàng năm, phí BHXH thu ngày càng nhiều, việc chi trả các
chế độ BHXH cho đúng đối tượng, chi đúng chi đủ theo quy định của cơ quan
BHXH cấp trên, công tác triển khai và tuyên truyện BHXH, BHYT tự nguyện
đạt được kế hoạch đã giao của BHXH tỉnh Hải Dương… Trong đó công tác
quản lý thu - chi BHXH bắt buộc có những đóng góp quan trọng: đối tượng
tham gia BHXH, BHYT bắt buộc tăng nhanh, số tiền BHXH thu được hàng
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

2

GVHD: TS.Phạm Thị

năm không ngừng tăng lên với tỷ lệ hoàn thành kế hoạch luôn đạt trên 100%,
công tác chi trả trợ cấp BHXH được thực hiện về tận xã, thị trấn nơi các đối
tượng hưởng đang cư trú, hàng tháng chi lương hưu, trợ cấp BHXH được đảm
bảo an toàn, nhanh gọn thông qua hệ thống đại lý chi trả tại các xã, thị trấn
trong huyện… Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, công tác quản lý thu - chi
BHXH vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục và hoàn thiện như: chưa
khai thác hết lực lượng lao động trên địa bàn, tình trạng nợ đọng BHXH còn
tiếp diễn tại một số đơn vị sử dụng lao động, quản lý công tác thu - chi BHXH
còn chưa khoa học…
Có thể thấy rằng, việc thực hiện tốt công tác quản lý thu - chi BHXH có
ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của chế độ BHXH Việt Nam cũng như
BHXH các tỉnh, huyện trong cả nước, trong đó có BHXH huyện Ninh Giang,

tỉnh Hải Dương. Nhưng những tồn tại trong công tác này cũng cần phải được
xem xét và bàn luận trên nhiều khía cạnh khác nhau. Chính vì vậy em lựa
chọn đề tài:
“Đánh giá tình hình quản lý thu - chi BHXH tại huyện Ninh Giang
tỉnh Hải Dương giai đoạn 2003 - 2008” làm luận văn tốt nghiệp.
Mục đích chính của luận văn là:
- Làm rõ công tác thu - chi BHXH và quản lý thu - chi BHXH;
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu - chi BHXH bắt buộc tại
BHXH huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương giai đoạn từ năm 2003 đến 2008;
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu - chi
BHXH huyện Ninh Giang trong thời gian tới.
Luận văn này được thực hiện thành công đó là nhờ có sự giúp đỡ tận
tình của cô giáo Phạm Thị Định - chủ nhiệm khoa Kinh tế bảo hiểm,
trường Đại học Kinh tế quốc dân, bác Nguyễn Thế Truyền - Giám đốc
BHXH huyện Ninh Giang và tập thể cán bộ cơ quan BHXH huyện Ninh
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

3

GVHD: TS.Phạm Thị

Giang. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài viết này
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các thày - cô giáo để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

Một lần nữa em chân thành cám ơn cô giáo Phạm Thị Định, bác
Nguyễn Thế Truyền và tập thể cán bộ cơ quan BHXH huyện Ninh Giang đã
giúp em hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2009
Sinh viên
Phạm Thị Hồng Nhung

Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

4

GVHD: TS.Phạm Thị

PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THU - CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ BẢN CHẤT CỦA BHXH
1. Tính tất yếu khách quan của Bảo hiểm xã hội
Trong cuộc sống, con người không thể tồn tại và phát triển nếu không
được đáp ứng những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại… Để có thể thoả
mãn được những nhu cầu này, con người phải tham gia lao động sản xuất để
tạo ra những sản phẩm cần thiết. Khi của cải xã hội ngày càng nhiều thì mức
độ thoả mãn nhu cầu ngày càng cao, có nghĩa là thoả mãn nhu cầu phụ thuộc
vào khả năng lao động của con người.

Trong thực tế, không phải người lao động (NLĐ) nào cũng có đủ điều
kiện về sức khoẻ, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn
thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất
lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người lao động bị giảm hoặc mất
thu nhập, mất việc làm; những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già
yếu, chết hoặc thiếu việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những
điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác… Khi rơi vào
những trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con người không vì thế mà
mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới
như cần được khám, chữa bệnh, điều trị khi ốm đau, cần có người chăm sóc,
nuôi dưỡng, cần bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ… Để có thể khắc phục những
rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân, gia đình và ổn định cuộc
sống, con người đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm
bọc, tương trợ lẫn nhau, hay sự bảo trợ, cứu trợ của Nhà nước, cộng đồng xã
hội. Sự tương trợ đó dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

5

GVHD: TS.Phạm Thị

khác nhau. Những yếu tố đoàn kết hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý
thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ khác nhau.

Mặt khác, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá thì mối quan
kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động (người SDLĐ) cũng
trở nên phức tạp. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công
ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao
động đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai
nạn, rủi ro bị mất việc làm hoặc khi về già… đã trở thành mối đe doạ đối với
cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác
ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối đầu với những nhu cầu thiết yếu hàng
ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng
những hành động tương thân, tương ái; đồng thời đấu tranh đòi hỏi giới chủ
và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Do đó, mâu thuẫn
chủ - thợ phát sinh. Sau đó, giới chủ đã phải cam kết sẽ bảo đảm cho người
lao động một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu
khi không may gặp phải rủi ro. Tuy nhiên, nếu các rủi ro không xảy ra thì
người chủ không phải chi đồng nào; ngược lại, nếu các rủi ro xảy ra thường
xuyên hoặc dồn dập, buộc giới chủ phải bỏ ra khoản tiền lớn mà họ không hề
muốn và nhiều khi họ tìm cách trốn tránh trách nhiệm này. Vì thế, mâu thuẫn
chủ - thợ ngày càng trở nên gay gắt, các cuộc đấu tranh buộc giới chủ thực
hiện cam kết diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời
sống kinh tế - xã hội.
Trước những nhu cầu được bảo vệ quyền lợi của người lao động và cần
thiết phải giải quyết mâu thuẫn trên, Nhà nước đã phải can thiệp bằng cách
hình thành một quỹ tiền tệ tập trung và buộc cả giới chủ, thợ phải đóng góp
định kỳ hàng tháng một khoản tiền vào quỹ này. Từ đây, Bảo hiểm xã hội ra

Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b



Luận văn tốt nghiệp
Định

6

GVHD: TS.Phạm Thị

đời, quỹ tiền tệ tập trung đó được gọi là quỹ BHXH và những tranh chấp cũng
như những khó khăn trong quá trình lao động sản xuất, cũng như trong cuộc
sống người lao động được giải quyết một cách ổn thoả, có hiệu quả nhất. Đó
chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát
triển. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành
viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia BHXH và sự cần
thiết được hưởng BHXH.
2. Khái niệm và bản chất của Bảo hiểm xã hội
2.1. Khái niệm về BHXH
Bảo hiểm xã hội có lịch sử khá lâu đời với tiền thân là quỹ ốm đau do
người công nhân đóng góp tạo thành Quỹ để dự phòng khi bị mất thu nhập vì
ốm đau, bệnh tật. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, quỹ ốm đau được thành lập
ở nhiều Bang và từ đó xuất hiện hình thức bắt buộc phải đóng góp vào quỹ.
Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần do các hình thức bảo hiểm mở rộng
cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật thì đến cuối những
năm 1880, giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ tham gia đóng
góp vào quỹ. Do đó, hình thành cơ chế ba bên và tính chất đoàn kết, san sẻ rủi
ro lúc này được thể hiện rõ nét.
Mô hình này của Đức đã lan dần sang các nước châu Âu, sau đó sang Mỹ
Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc
lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribe.
Từ đây, BHXH đã dần dần trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An

sinh xã hội và được tất cả các nước trên thế giới thừa nhận là một trong những
quyền con người. Cùng với sự phát triển của xã hội, BHXH đã có nhiều thay
đổi về chất với nhiều mô hình phong phú được thể hiện ở hàng trăm nước trên
thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

7

GVHD: TS.Phạm Thị

còn nhiều tranh luận vì được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau thì các quan
điểm đưa ra cũng khác nhau.
Nếu tiếp cận từ mục đích An sinh xã hội và hình thức tổ chức thực hiện
thì có khái niệm chung nhất về BHXH như sau:
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần
bảo đảm an toàn xã hội.
Một số khái niệm liên quan trong BHXH
Hoạt động BHXH đã hình thành mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm
và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Mối quan hệ này dựa trên quan hệ
lao động và diễn ra giữa ba bên là: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên
được BHXH. Trong đó:

- Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy
định của pháp luật BHXH. Bên tham gia BHXH gồm có người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước.
- Bên BHXH là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH,
thường là một số tổ chức do Nhà nước lập ra (ở một số nước có thể do tư
nhân hoặc tổ chức kinh tế xã hội) và được Nhà nước bảo trợ, nhận sự đóng
góp của NLĐ, người SDLĐ, lập nên quỹ BHXH. Bên BHXH có trách nhiệm
thực hiện chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm
cho quỹ BHXH phát triển.
- Bên được BHXH là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh
những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do có các loại rủi ro
được bảo hiểm gây ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao động
tham gia BHXH và nhân thân của họ theo quy định của pháp luật, khi họ có
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

8

GVHD: TS.Phạm Thị

phát sinh nhu cầu được BHXH do pháp luật quy định.
2.2. Bản chất của Bảo hiểm xã hội
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội;
là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển của một

quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời
và phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng: sự ra đời và phát triển của
BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Thật vậy, một nền kinh tế
chậm phát triển, đời sống NLĐ thấp kém không thể có một hệ thống BHXH
vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các
chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong
phú.
Thực chất, BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi ro xã
hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá
trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của
các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH.
Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi
toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho
những thanh viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn
lao động (TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp (BNN), già yếu, chết… Xét trong nội
tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện cả theo chiều dọc và
chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân
người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu nhập của quá
trình làm việc và không làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối
giữa những người khoẻ mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người
trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ cho người sinh đẻ; giữa
người có thu nhập cao cho người có thu nhập thấp…
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định


9

GVHD: TS.Phạm Thị

Có thể thấy, BHXH đã góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn
kinh tế cho người lao động và gia đình họ, BHXH là quá trình tổ chức sử
dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thoả mãn nhu
cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội.
BHXH vừa mang bản chất kinh tế, vừa mang bản chất xã hội. Về mặt
kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động
và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt
xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp
một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có
một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, BHXH đã
thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù số ít”. Tuy nhiên, tính kinh tế và xã
hội của BHXH không tách rời nhau mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo
đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của
BHXH, ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro
xã hội là đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
Cơ sở để phát sinh BHXH chính là quan hệ lao động thể hiện thông qua
mối quan hệ ba bên gồm bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong nền kinh tế thị
trường, bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH. Đối với
người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là người được
quyền hưởng BHXH vì họ tham gia đóng phí BHXH để bảo hiểm cho chính
mình.
Điều kiện được hưởng BHXH là người lao động gặp phải những rủi ro,
những biến cố mang tính chất ngẫu nhiên, trái với ý muốn chủ quan của con
người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…; hoặc cũng có thể
là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai


Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

10

GVHD: TS.Phạm Thị

sản, tử tuất… Đồng thời các biến cố đó có thể xảy ra cả trong và ngoài quá
trình lao động làm cho người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm.
Bản chất của BHXH còn được hiểu dưới các góc độ khác nhau:
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống
cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, nghĩa là tạo ra một
khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc
phạm vi BHXH.
Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao
động xuất phát từ lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội
nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ khi thu nhập của họ bị giảm hay mất.
Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản
xuất, tăng năng suất lao động ổn định trất tự xã hội.
3. Đặc trưng, chức năng, tính chất của Bảo hiểm xã hội
3.1. Đặc trưng cơ bản của BHXH
Từ khái niệm và bản chất của BHXH, có thể thấy một số đặc trưng cơ

bản của BHXH như sau:
- BHXH bảo hiểm cho người lao động cả trong và sau quá trình lao
động, hay NLĐ khi tham gia BHXH được bảo hiểm cho đến lúc chết. Đây là
một đặc trưng riêng của BHXH mà không một loại hình bảo hiểm nào có
được.
- Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro của người lao động trong BHXH
liên quan đến thu nhập của họ gồm ốm đau, TNLĐ, BNN, thai sản, mất việc
làm, già yếu, chết… Do những sự kiện này mà họ mất hoặc giảm khả năng
lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập. Vì vậy, NLĐ cần được bù đắp
khoản thu nhập bị mất hoặc giảm đó để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

11

GVHD: TS.Phạm Thị

rất cơ bản của BHXH, phản ánh được mục đích của BHXH.
- Người lao động khi tham gia BHXH có quyền được hưởng trợ cấp
BHXH, tuy nhiên họ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH. Đồng thời,
người sử dụng lao động cũng phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm đóng BHXH
cho NLĐ của mình.
- Sự đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm người lao động, người
sử dụng lao động, Nhà nước là nguồn hình thành cơ bản của quỹ BHXH.
- Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các

chế độ BHXH cũng do luật định. Nhà nước quản lý và bảo hộ các hoạt động
của BHXH, BHXH còn chịu sự giám sát chặt chẽ của NLĐ và người SDLĐ
theo cơ chế ba bên. Đây là đặc trưng rất riêng của BHXH.
3.2. Chức năng
BHXH có các chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quy định nhiệm vụ,
tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia BHXH. Về bản chất BHXH chính là quá trình phân phối lại thu nhập theo
cả chiều dọc và chiều ngang, do đó thực hiện chức năng này có nghĩa là
BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng
cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. BHXH bảo đảm
cuộc sống của NLĐ và gia đình họ luôn được ổn định cả về vật chất lẫn tinh
thần. Do đó, NLĐ sẽ luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm
việc. Chức năng này biểu hiện như một đòn bầy kinh tế kích thích NLĐ tích
cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là
năng suất lao động xã hội.
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

12


GVHD: TS.Phạm Thị

- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội. Nhờ có BHXH, mâu thuẫn giữa NLĐ và người
SDLĐ được điều hoà và giải quyết; đặc biệt, BHXH đem lại lợi ích và sự bảo
vệ cho cả hai giới chủ - thợ. Từ đó giúp họ hiểu nhau hơn, quan tâm đến nhau
và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, việc chi cho
BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết
được khó khăn về đời sống cho NLĐ và gia đình họ, góp phần làm cho sản
xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
3.3. Tính chất
BHXH là chính sách gắn liền với đời sống của người lao động, do đó nó
có một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
Như phần trên đã trình bày, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách
quan trong đời sống kinh tế - xã hội mỗi quốc gia vì BHXH đã trở thành nhu
cầu và quyền lợi cần thiết khách quan của NLĐ, được cả thế giới thừa nhận là
một trong những quyền con người. Do đó, BHXH hoàn toàn mang tính tất
yếu khách quan trong đời sống xã hội.
- Tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không
gian. Tính chất này được thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH.
Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp hình thành quỹ
BHXH; từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến
mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ BHXH…
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính
dịch vụ. Tính kinh tế được thể hiện rõ nhất ở chỗ, BHXH thông qua việc hình
thành, bảo toàn, tăng trưởng và sử dụng đúng mục đích quỹ BHXH đã góp
phần đảm bảo lợi ích kinh tế không chỉ cho người lao động mà còn cho cả
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung


Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

13

GVHD: TS.Phạm Thị

người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội. Đối với NLĐ, phần đóng
góp của họ vào quỹ không đáng kể song quyền lợi họ nhận được là rất lớn khi
gặp rủi ro. Với người SDLĐ, tham gia đóng góp vào quỹ BHXH để thực hiện
trách nhiệm bảo hiểm cho NLĐ họ sử dụng, đồng thời cũng là giúp họ tránh
được khoản tiền lớn để trang trải cho NLĐ gặp rủi ro. Với Nhà nước, BHXH
góp phần làm giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước (NSNN), đồng thời
quỹ BHXH cũng là nguồn đầu tư đáng kể vào nền kinh tế quốc dân, góp phần
tăng trưởng kinh tế.
BHXH mang tính xã hội sâu sắc bởi đó là một bộ phận chủ yếu của hệ
thống An sinh xã hội, góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các thành
viên trong xã hội. BHXH cũng hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”,
do đó mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH và
BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho họ và gia đình họ, kể cả khi họ còn
đang trong độ tuổi lao động.
Đồng thời, BHXH cũng được coi là một dịch vụ, thoả mãn nhu cầu được
bảo vệ của những người tham gia BHXH. Tính dịch vụ của BHXH luôn gắn
chặt với tính xã hội của nó, khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì
tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cùng ngày càng cao.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.


Đối tượng của Bảo hiểm xã hội

Để có thể nhận biết một cách đầy đủ và đúng nhất về BHXH, trước hết
chúng ta cần nhận biết được các đối tượng liên quan tới BHXH. Tuy đã ra đời
được hơn một thế kỷ nhưng cho tới nay, đối tượng của BHXH vẫn có nhiều
quan điểm chưa thống nhất; đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng
BHXH với đối tượng tham gia BHXH. Có người cho rằng, đối tượng của

Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

14

GVHD: TS.Phạm Thị

BHXH là người lao động. Tuy nhiên, theo bản chất vốn có, đối tượng của
BHXH chính là thu nhập của NLĐ, chứ không phải bản thân họ. Bởi BHXH
được hình thành để góp phần đảm bảo và cân bằng khoản thu nhập bị giảm
hoặc bị mất đi do NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì
các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Còn NLĐ trong mối quan hệ
BHXH vừa là đối tượng tham gia BHXH, vừa là đối tượng được BHXH và
cũng chính là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có cả
người sử dụng lao động và Nhà nước. Người SDLĐ tham gia đóng góp vào

quỹ BHXH là trách nhiệm bảo hiểm cho NLĐ mà họ sử dụng, đồng thời họ
cũng nhận được lợi ích trong một số trường hợp. Còn Nhà nước tham gia
BHXH vừa với tư cách là người SDLĐ với tất cả các công nhân viên chức,
những người hưởng lương từ NSNN, vừa với tư cách là người bảo hộ cho quỹ
BHXH; cụ thể là bảo toàn giá trị cho quỹ, bảo hộ sự tăng trưởng của quỹ và
hỗ trợ thêm cho quỹ trong trường hợp quỹ bị thâm hụt.
Đối tượng được bảo hiểm ngoài người lao động còn có người sử dụng
lao động, bởi khi NLĐ gặp rủi ro thì người SDLĐ cũng sẽ bị thiệt hại do quá
trình hoạt động kinh doanh có thể bị gián đoạn và họ cũng phải thực hiện
trách nhiệm của họ với NLĐ đó.
Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là người lao động và gia đình
họ theo quy định của pháp luật BHXH.
2.

Hệ thống các chế độ Bảo hiểm xã hội

Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của
mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung rất khái quát về cả đối tượng,
phạm vi, các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu
chung đã đề ra đối với BHXH.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

15


GVHD: TS.Phạm Thị

định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện
BHXH đối với người lao động; hay đó là hệ thống các quy định được pháp
luật hoá về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp
BHXH cụ thể.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi quốc gia và các
chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, đều phải dựa trên các cơ sở hình thành như cơ
sở sinh học (độ tuổi, giới tính, sự suy giảm khả năng lao động do thai sản, ốm
đau…); ảnh hưởng của điều kiện lao động và môi trường sống; ảnh hưởng của
các điều kiện kinh tế - xã hội; điều kiện về tài chính BHXH;
- Các chế độ BHXH mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính;
- Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả
và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định;
- Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ, có thể hàng tuần, hàng tháng,
hàng quý tuỳ theo từng chế độ;
- Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán;
- Các chế độ thường có tính chất ổn định nhất định trong khoảng thời
gian xác định và cũng thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự
thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội.
Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong
Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH
bảo gồm 9 chế độ trợ cấp:
- Chế độ chăm sóc y tế (1);
- Trợ cấp ốm đau (2);
- Trợ cấp thất nghiệp (3);


Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

16

GVHD: TS.Phạm Thị

- Trợ cấp tuổi già (4);
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ và BNN) (5);
- Trợ cấp gia đình (6);
- Trợ cấp sinh đẻ (7);
- Trợ cấp khi tàn phế (8);
- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) (9).
Tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước
Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải
thực hiện được 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong 5 chế độ: (3); (4);
(5); (8); (9).
3.

Quỹ Bảo hiểm xã hội

3.1. Khái niệm và đặc điểm
3.1.1. Một số khái niệm về quỹ BHXH
Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân
sách Nhà nước.

Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham
gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập
trung để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm và
chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự
phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện
hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn
tại và phát triển.
3.1.2. Quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, do đó
nguyên tắc quản lý quỹ là “cân bằng thu - chi”.
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

17

GVHD: TS.Phạm Thị

- Phân phối quỹ vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không
hoàn trả. Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là đối tượng tham gia
đóng góp quỹ đồng thời cũng là đối tượng được nhận trợ cấp, được chi trả từ
quỹ khi gặp rủi ro. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, cùng tham gia đóng
góp nhưng có người được được hưởng trợ cấp nhiều lần, nhiều chế độ khác
nhau nhưng cũng có người được hưởng ít lần, ít chế độ, thậm chí không được

hưởng.
- Quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối
với quỹ là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Xuất phát từ chức năng cơ bản
nhất của BHXH là bảo đảm an toàn thu nhập cho người lao động, đến lượt
mình, BHXH cũng phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài
chính.
- Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là
khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp hình thành
nên hệ thống tài chính quốc gia. Chúng luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử
dụng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng chịu sự chi phối của pháp
luật Nhà nước.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ
nhất định của đất nước.
3.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ thuộc vào
pháp luật BHXH và tuỳ thuộc vào mục đích của hệ thống BHXH của mỗi
nước. Trong Công ước 102 về các tiêu chuẩn tối thiểu về BHXH của ILO đã
quy định: “Các chi phí cho các trợ cấp BHXH và các chi phí về quản lý của
hệ thống BHXH phải được tài trợ từ quỹ BHXH bằng cách đóng góp BHXH
hoặc bằng thuế hoặc kết hợp cả hai cách đó, theo những thể thức để giảm bớt
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

18


GVHD: TS.Phạm Thị

tình trạng khó khăn cho người thiếu thốn phương tiện sinh sống có lưu ý tới
tình hình kinh tế từng nước thành viên và những nhóm người được bảo vệ”.
Như vậy, có hai cách để tạo nguồn quỹ BHXH:
Một là, các đối tượng không phải đóng góp mà Nhà nước sẽ tài trợ thông qua
thuế;
Hai là, có sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, Nhà
nước đóng góp hoặc hỗ trợ thêm và từ các nguồn khác.
Hiện nay, hầu hết các nước có BHXH đều thực hiện theo cách thứ hai.
Cụ thể, quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn sau:
- Thứ nhất, từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm có người
sử dụng lao động, người lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước.
Đây là nguồn thu chủ yếu của quỹ. Tỷ lệ đóng góp giữa NLĐ và người
SDLĐ được quy định tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia. Nhìn chung,
ở các nước phát triển NLĐ và người SDLĐ đóng góp tương đương nhau (có
thể người SDLĐ cao hơn một chút), tổng mức đóng góp chiếm khoảng 35% 45% tiền lương của người lao động. Ở các nước đang phát triển, người SDLĐ
thường phải đóng góp cao hơn nhiều so với NLĐ (có thể cao gấp 2 - 3 lần).
Sự hỗ trợ từ Nhà nước thông qua NSNN cũng tùy thuộc vào điều kiện và quy
định của từng quốc gia. Có những nước, Nhà nước sẽ thực hiện bù thiếu trong
trường hợp đóng góp của NLĐ và người SDLĐ không đủ để chi trả; nhưng
cũng có những nước, sự hỗ trợ thực hiện dưới dạng NSNN chịu trách nhiệm
đối với toàn bộ một hoặc một số chế độ nào đó; ngoài ra, ở phần lớn các nước
phát triển, sự hỗ trợ đó được thực hiện bằng cách hàng năm trích một tỷ lệ
nhất định từ GDP để hỗ trợ cho quỹ BHXH.
- Thứ hai, từ lãi đầu tư phần tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ. Đây là
nguồn thu quan trọng, đáng kể đóng góp vào sự bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
- Thứ ba, từ các nguồn thu hợp pháp khác như sự đóng góp, ủng hộ của
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung


Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

19

GVHD: TS.Phạm Thị

các cá nhân, tổ chức trong xã hội, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong
và ngoài nước; hay khoản nộp phạt của các doanh nghiệp, đơn vị do chậm
nộp BHXH hoặc vi phạm quy định của BHXH...
3.3. Phương thức đóng và mức đóng BHXH
Về phương thức đóng góp, BHXH có thể căn cứ vào mức lương cá nhân
và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp hoặc căn cứ vào mức thu nhập cơ
bản của người lao động được cân đối chung trong nền kinh tế quốc dân để xác
định mức đóng. Việc lựa chọn căn cứ nào là tuỳ thuộc vào quy định mỗi quốc
gia nhưng phải đảm bảo rằng mức đóng góp của mỗi bên phải đủ để cân đối
thu - chi cho quỹ BHXH.
Về mức đóng góp BHXH, tuỳ theo quy định của từng nước, mà mức
đóng góp của các bên khác nhau. Thực chất, mức đóng đó chính là phí
BHXH, là yếu tố quyết định sự cân đối thu - chi quỹ BHXH nên việc xác định
phải được tính toán một cách rất khoa học. Một cách chung nhất, phí BHXH
được xác định theo công thức:
P = f1 + f2 + f3
Trong đó: P - là phí BHXH;
f1 - là phí thuần tuý trợ cấp BHXH;
f2 - là phí dự phòng;

f3 - là phí quản lý.
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
phí BHXH. Phí này được xác đinh để đảm bảo chi trả cho cả các chế độ ngắn
hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, việc đóng và hưởng
BHXH xảy ra trong thời gian ngắn (thường là một năm), do đó số đóng góp
BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH
dài hạn, có quá trình đóng và hưởng tương đối độc lập với nhau và diễn ra
trong khoảng thời gian nhất định, cho nên sự cân bằng giữa đóng và hưởng
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

20

GVHD: TS.Phạm Thị

phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài.
Cũng chính vì thế mà ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm
bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Như vậy, việc xác định phí BHXH là rất phức tạp và phải dựa vào nhiều
yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cầu nguồn lao
động, việc xác định và dự báo tuổi thọ bình quân, xác suất xảy ra rủi ro…
3.4. Sử dụng quỹ BHXH
Theo mục đích của BHXH, quỹ BHXH phải đảm nhận cho những khoản
chi chủ yếu như sau:
- Chi trả các trợ cấp BHXH: đây là khoản chi chủ yếu nhất của quỹ

BHXH. Tuỳ theo quy định của từng nước, các chế độ BHXH có thể khác
nhau. Theo ILO, có 9 loại trợ cấp sau:
Trợ cấp chăm sóc y tế: chi trợ cấp chi phí khám chữa bệnh phát sinh;
Trợ cấp ốm đau: chi bù đắp phần thu nhập bị mất hoặc giảm do nghỉ ốm;
Trợ cấp thất nghiệp: chi bù đắp phần thu nhập bị mất do bị mất việc làm;
Trợ cấp thai sản: đây là chế độ đặc biệt bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
người phụ nữ, do đó quỹ BHXH được sử dụng chi bù đắp phần thu nhập bị
mất do nghỉ thai sản, mức trợ cấp ít nhất phải bằng thu nhập lúc đang đi làm;
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: chi trợ cấp cho chi phí y tế
phát sinh và phần thu nhập bị mất do bị giảm hoặc mất sức lao động sau TNLĐ
và BNN;
Trợ cấp gia đình: chi trả cho các chi phí liên quan đến việc nuôi dạy con
cái, hoặc trợ cấp cho các gia đình gặp khó khăn do các rủi ro ngẫu nhiên gây
ra. Điều kiện được hưởng trợ cấp và mức hưởng theo quy định từng nước;
Trợ cấp khi tàn phế: chi trợ cấp cho phần thu nhập bị giảm hoặc mất của
người lao động khi không may bị tàn phế, bao gồm cả chi phi nhằm hỗ trợ các
phương tiện giúp đỡ người tàn phế trong cuộc sống;
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

21

GVHD: TS.Phạm Thị

Trợ cấp tuổi già: chi trợ cấp cho phần thu nhập không còn do tuổi già

không thể lao động nữa;
Trợ cấp mất người nuôi dưỡng: chi trợ cấp cho con cái người lao động
khi con chưa trưởng thành nhưng bố hoặc mẹ đã mất, trợ cấp cho người thân
khác mà người lao động có trách nhiệm chăm lo, phụng dưỡng.
Các trợ cấp này được xác định theo những căn cứ kinh tế - xã hội và các
điều kiện sinh học của mỗi nước trong những giai đoạn nhất định và được pháp
luật quy định.
- Chi phí quản lý: đây là khoản chi cho các hoạt động thường xuyên của
tổ chức BHXH, bao gồm: Chi lương cho đội ngũ làm công tác BHXH trong
toàn hệ thống, Chi phí nghiệp vụ BHXH, Chi phí hành chính (điện, nước, văn
phòng phẩm…), Chi cho nghiên cứu phát triển BHXH, Chi phí mua sắm, sửa
chữa nhỏ…
- Chi phí đầu tư: khoản chi này để đảm bảo các hoạt động đầu tư phần
nhàn rỗi của quỹ BHXH được diễn ra bình thường và đạt hiệu quả cao. Về
mặt kế toán, khoản chi này được trích ra trong tổng thu được từ lợi nhuận đầu
tư.
- Chi dự phòng: đây là khoản dự trữ có thể phát sinh trong năm ngoài dự
liệu.
- Chi phí khác có liên quan đến hoạt động BHXH.
4.

Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

4.1. Lịch sử phát triển Bảo hiểm xã hội Việt nam
Ngay sau khi thành lập nước Việt nam dân chủ Cộng hoà, Nhà nước đã
ban hành sắc lệnh nhằm thực hiện BHXH đối với công nhân, viên chức Nhà
nước. Nhưng đến năm 1961, chế độ BHXH mới thực sự thực hiện trên cơ sở
thành lập Quỹ BHXH thống nhất sau khi Chính phủ ban hành Điều lệ tạm
thời về chế độ BHXH kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/11/1961 với 6 loại
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung


Bảo hiểm 47b


Luận văn tốt nghiệp
Định

22

GVHD: TS.Phạm Thị

trợ cấp: ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất.
Hệ thống này chỉ bảo đảm bảo hiểm cho khoảng 60-70 vạn người trên tổng số
17 triệu người của miền Bắc Việt Nam (theo số liệu năm 1962). Từ năm
1975, chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước.
Sau Đại hội VII của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước dần đi vào chiều
sâu, trong đó việc đổi mới BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới
là một yêu cầu bức bách nhằm thực hiện các chính sách xã hội. Việc đổi mới
được đánh dấu bằng việc tách một bộ phận cấu thành BHXH - chế độ chăm
sóc y tế khi ốm đau thành một quỹ độc lập: quỹ Bảo hiểm Y tế. Ngày
15/08/1992, Nghị định 299/HĐBT về việc ban hành Điều lệ BHYT được thực
thi. Ngày 22/06/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm
thời các chế độ BHXH, mở đầu cho cuộc cải cách sâu rộng, toàn diện về
BHXH.
Việc cải cách thực sự đi vào thực tiễn từ tháng 01/1995, khi Bộ Luật Lao
động có hiệu lực, trong đó có Chương XII về BHXH. Để hướng dẫn thực hiện
Bộ Luật Lao động, hàng loạt các văn bản pháp quy về BHXH được ban hành
như:
- Nghị định 12/CP ngày 16/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành
Điều lệ BHXH;

- Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập
BHXH Việt Nam;
- Quyết định 606/TTg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam;
- Nghị định 93/1998/NĐ-CP ngày 12/11/1998 của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH.
Trong đó Chính phủ có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu
BHXH bao gồm người SDLĐ đóng 15% quỹ tiền lương và NLĐ đóng 5%
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung

Bảo hiểm 47b


×