Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Chính Sách Thu Hút Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Của Việt Nam Trong Bối Cảnh Suy Giảm Kinh Tế Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.04 KB, 68 trang )

Đề án môn học KTTM

LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta xây dựng nền kinh tế từ một xuất phát điểm thấp; đó là nền
nông nghiệp lạc hậu, lại chịu sự tàn phá của hai cuộc chiến tranh khốc liệt, cơ
sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn. Việc xây dựng đất nước được xác định là cơ
sở để bảo vệ tổ quốc. Trong những năm vừa qua nền kinh tế nước ta đã có
nhiều khởi sắc, song để xây dựng được một cơ cấu kinh tế lớn phải có được
nguồn vốn và khoa học công nghệ trình độ cao mà nếu chỉ dựa vào nguồn
vốn trong nước thì không thể đáp ứng một cách đầy đủ. Trước tình hình này,
Đảng và nhà nước ta đã xác định: ”huy động và sử dụng nguồn lực nước
ngoài là giải pháp quan trọng góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi
khó khăn”.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, việc thực hiện chủ
trương đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá trên cơ sở huy động
nguồn lực từ nước ngoài có kế hoạch, có trọng điểm là một điều tất yếu. Điều
đó có thể góp phần rút ngắn thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá; khắc
phục những khó khăn, yếu kém do các yếu tố khách quan và chủ quan của
nước ta mang lại.
Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta phát triển được là do có một
phần đóng góp không nhỏ của nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong đó vốn đầu
tư trực tiếp (FDI) đóng vai trò rất quan trọng. Chính vì thế, Đảng và nhà nước
ta đã đặc biệt chú trọng đến nguồn lực này để nhằm phát triển một nền kinh tế
toàn diện, bền vững. Để đảm bảo sự phát triển phù theo định hướng của Đảng
đồng thời phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta, Đảng và nhà nước
đã đưa ra rất nhiều chính sách nhằm thu hút, khuyến khích sự đầu tư từ nước
ngoài.Hoạt động đầu tư đã có nhiều khởi sắc.

1



Đề án môn học KTTM

Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1988 đã và đang thực
sự phát huy tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đầu tư ở nước ta
hiện nay.
Song, trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam có xu hướng giảm về cả khối lượng và đối
tác đầu tư. Để góp phần cải thiện tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiềp vào
nước ta, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của hoạt động đầu tư, em xin đưa ra
một số ý kiến về “ Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt
Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế hiện nay” với mong muốn đóng góp
phần nào vào công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đưa nước ta thoát khỏi
tình trạng lạc hậu, sớm trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm
2020 theo mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra.
Nội dung chủ yếu của đề tài này bao gồm:
Phần I: Cơ sở lý luận của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế hiện nay.
Phần II: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt
Nam hiện nay.
Phần III: Một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao khả năng
thu hút vốn FDI của Việt Nam trong thời gian tới.
Tuy nhiên, do sự hiểu biết còn hạn chế, mặc dù đã có sự nỗ lực cố
gắng song em khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của thầy để đề tài này được hoàn thiện hơn.

2


Đề án môn học KTTM


PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ HIỆN NAY

I.Tình hình trong nước và thế giới
1.Bối cảnh suy giảm kinh tế thế giới hiện nay
1.1.Tình hình chung
Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay chúng ta thường được nghe
nhiều đến các thuật ngữ suy thoái kinh tế hay khủng hoảng kinh tế. Thực ra
các thuật ngữ này đã có từ lâu và đã được định nghĩa, giải thích rất rõ ràng
trên rất nhiều các sách báo, công trình nghiên cứu. Theo từ điển kinh tế học
hiện đại ( David. W. Pearce, NXB Chính Trị Quốc Gia - Trường ĐH KTQD,
1999) thì suy thoái kinh tế (recession) là giai đoạn giảm sút của chu kỳ
thương mại xảy ra sau một đỉnh điểm và kết thúc tại điểm thấp nhất của chu
kỳ. Còn khủng hoảng kinh tế (slump) là một giai đoạn đi xuống hoặc suy
thoái trong chu kỳ kinh doanh. Bất kỳ giai đoạn thu hẹp nào của chu kỳ kinh
doanh đều có thể gọi là khủng hoảng kinh tế, nhưng thường thì thuật ngữ này
được dùng để mô tả những trường hợp nghiêm trọng nhất. Nền kinh tế toàn
cầu đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất từ sau cuộc Đại
Suy Thoái năm 1929 – 1933.
Trước hết là cuộc khủng hoảng tài chính vào tháng 8/2007 do sự bùng
nổ trong thị trường nhà đất của Mỹ đã nhanh chóng lan nhanh và bất ngờ làm
tổn hại đến thị trường và các hệ thống tài chính. Cú sốc này đã làm giảm tính
thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng, làm suy giảm vốn tự có của một
số ngân hàng lớn và thúc đẩy tái định giá rủi ro đối với một loạt các công cụ.
Giá cổ phiếu giảm do dự báo kinh tế thế giới ngày càng yếu kém, thị trường
chứng khoán, tiền tệ luôn luôn biến động.
Sự kiện sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ trung tuần
tháng 9/2008 như khởi đầu của hàng loạt khối ung nhọt bị vỡ. Đến nay đã có
hơn 29 ngân hàng lớn nhỏ của Mỹ bị phá sản. Ngành tài chính Mỹ suy sụp,

dẫn tới sự chao đảo của tài chính toàn cầu. Quốc đảo Iceland là quốc gia đầu
tiên trên thế giới tuyên bố phá sản vì khủng hoảng tài chính.
Từ lĩnh vực tài chính, cuộc khủng hoảng lan rộng ra toàn bộ nền kinh tế
thế giới. Sức mua giảm, đơn đặt hàng giảm, sản xuất công nghiệp đình đốn, tỷ
lệ thất nghiệp tăng. Ba ông lớn về sản xuất ô tô của Mỹ là GM, Ford và
Chrysler đã phải cầu cứu đến sự giúp đỡ về tài chính của chính phủ để cầm
3


Đề án môn học KTTM

cự. Các tên tuổi lớn của ngành ô tô thế giới như Toyota, Hyundai… đã phải
cắt giảm nhân lực trên 40% và đóng cửa nhiều nhà máy trên toàn thế giới.
Hàng loạt các nền kinh tế mạnh như Nhật Bản, Mỹ, Đức… đều tăng
trưởng âm, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc giảm liên tục ở
mức kỷ lục: 2.2% trong tháng 11 và 2.8% trong tháng 12/2008 so với cùng kỳ
năm ngoái. Các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Malaysia… chịu ảnh hưởng
ít hơn nhưng có dấu hiệu chững lại.
Những biến động và xáo trộn trong nền kinh tế toàn cầu khiến IMF dự
báo rằng kinh tế thế giới chỉ tăng trưởng khoảng 3.8 % trong năm 2009, trong
những năm tiếp theo có thể phục hồi nhưng rất chậm. Sự khác biệt về tăng
trưởng giữa các nước phát triển và các nền kinh tế mới sẽ tiếp tục diễn ra.
Nền kinh tế Mỹ tiếp tục lâm vào suy thoái nhẹ và có dấu hiệu phục hồi dần
vào đầu năm 2010. Tỷ lệ tăng trưởng ở châu Âu được dự báo là sẽ chững lại
dưới mức tiềm năng, do ảnh hưởng ngoại lai của hoạt động thương mại, thắt
chặt tài chính và chu kỳ suy thoái của thị trường nhà đất ở nhiều nước.
1.2.Tác động đến FDI của Việt Nam
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang lâm vào suy thoái, biến động khó
lường như hiện nay dòng vốn FDI đăng ký cũng trở nên rất khó dự báo. Tuy
nhiên theo đánh giá từ các nhà tài trợ, chính sách thắt chặt tiền tệ, chính sách

tỷ giá đã bước đầu phát huy tác dụng, giải pháp thắt chặt tài khoá nếu thực
hiện kiên quyết sẽ phát huy tác dụng chậm hơn vào cuối năm nay và đầu năm
sau. Triển vọng đầu tư trung hạn và dài hạn của Việt Nam hiện vẫn chưa được
coi là tốt, ước dòng vốn đăng ký trong hai năm tới sẽ giảm đáng kể so với
năm 2008 nhưng vẫn sẽ giữ ở mức cao, khoảng trên 20 tỷ USD/ năm, đưa
tổng số vốn đăng ký của 5 năm 2006 – 2010 có thể lên tới mức 135 tỷ USD,
vượt 2.4 lần kế hoạch đề ra cho cả giai đoạn này.
Việc những năm tiếp theo khó có thể duy trì được tốc độ thu hút FDI
cao như năm 2007 và năm 2008, không có nghĩa là môi trường đầu tư, kinh
doanh của Việt Nam kém hơn các năm trước. Trong giai đoạn tới cần tập
trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng là công nghệ cao, phát triển
cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực… sẽ tạo động lực và góp phần
quan trọng cho tăng trưởng kinh tế - xã hội và thu hút mạnh FDI.
Mặc dù được đánh giá rất cao về tiềm năng thu hút FDI, Việt Nam vẫn
còn nhiều việc phải làm để tiếp tục duy trì hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài,
đồng thời thúc đẩy giải ngân các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Trong bối cảnh đặc biệt hiện nay, giải ngân vốn FDI là quan trọng hàng đầu
và là công việc khó khăn trong giai đoạn còn lại của kế hoạch 5 năm 2006 –
2010.
4


Đề án môn học KTTM

Với quy mô vốn đăng ký rất lớn trong nửa đầu kỳ kế hoạch, trong bối
cảnh thuận lợi, vốn giải ngân trong 2 năm tới của kỳ kế hoạch có thể đạt 13 –
14 tỷ USD/ năm. Với tổng số vốn giải ngân từ năm 2006 đến hết năm 2008 là
23.6 tỷ USC, đạt 94.4% mục tiêu đặt ra cho cả kỳ kế hoạch 5 năm 2006 –
2010. Việc thực hiện vượt mức mục tiêu ban đầu đặt ra là hoàn toàn khả thi.
2.Bối cảnh trong nước

2.1.Tình hình kinh tế xã hội
Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu,
nhưng năm 2007 kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 8.2% và năm 2008 là 6.5
%, tuy có giảm sút so với năm 2007 nhưng thu hút đầu tư nước ngoài tăng rất
mạnh đạt 64 tỷ USD, một kỷ lục chưa từng có từ trước đến nay. Gia nhập
WTO sẽ làm tăng cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài cho các sản phẩm.
Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng 21.9 % so với năm 2006,
năm 2008 tăng 29.5 % so với năm 2007. Mặt hàng xuất khẩu cũng đa dạng
hơn, hàng dệt may và giày dép trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn
nhất, do thuế đã được giảm và Mỹ đã xoá bỏ hạn ngạch đối với mặt hàng này.
GDP tiếp tục tăng trưởng khoảng 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái và dự
kiến cả năm GDP đạt mức tăng trưởng 7%. Tổng thu ngân sách đạt 60,6% dự
toán năm (con số tương ứng năm 2007 là 46,1%), trong đó: thu nội địa đạt
56,7%, thu từ dầu thô đạt 64,3%, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất
nhập khẩu đạt 67,8%. Tổng chi ngân sách đạt 51,8% dự toán năm.
Mức chi vượt quá 50% dự toán chủ yếu là do chính sách cải cách tiền
lương khu vực quản lý nhà nước và hệ thống quốc phòng, an ninh. FDI đăng
ký trong 6 tháng đầu năm 2008 đạt 31,6 tỷ USD, gấp 3,7 lần cùng kỳ năm
trước, vượt 48% so với mức FDI 21,3 tỷ USD của cả năm 2007.
Dự kiến FDI đăng ký cả năm 2008 có thể lên đến 45 tỷ USD (gấp hơn
2 lần so với năm 2007. CPI tháng 6/2008 tăng 2,14% và là mức tăng thấp nhất
trong nửa đầu 2008 nhưng so với tháng 6/2007, CPI đã tăng 26,8% và là mức
cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Đà thâm hụt cán cân thương mại đã chậm lại. Nhập siêu trong những
tháng gần đây đã giảm, dự kiến sẽ còn tiếp tục giảm trong thời gian tới. Các
chính sách tiền tệ thắt chặt một cách quyết liệt nhằm mục tiêu hàng đầu là
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
5



Đề án môn học KTTM

Quyết định nâng lãi suất cơ bản được đánh giá là một bước tiến tích
cực trong việc chống lạm phát. Các biện pháp can thiệp của NHNN trong thời
gian qua với chủ trương không phá giá đồng tiền đã góp phần hạn chế nhập
siêu, cải thiện cán cân thương mại, ổn định tâm lý người dân và các nhà đầu
tư, khả năng bình ổn tỷ giá khá vững chắc…
Về dự báo kinh tế Việt Nam tầm vĩ mô, với những thông tin thực tế và
cách đánh giá của mình, nhóm nghiên cứu đưa ra những dự báo khá sáng sủa
cho cả năm 2008 như tăng trưởng thực tế đạt 6,8 – 7%, lạm phát ở mức 24% 26%, tăng trưởng tín dụng dưới 30% và nên ở mức 25%, giải ngân thực tế
nguồn vốn FDI sẽ vượt mục tiêu đã đặt ra, nhập siêu khoảng 20 - 22 tỷ USD,
dự trữ ngoại hối từ 19 – 21 tỷ USD, tỷ giá USD không biến động quá mức,
nhiều khả năng tỷ giá dao động khoảng 17.000 -17.200 VNĐ/USDthị trường
chứng khoán ổn định hơn, VnIndex có thể đạt 500 -550 điểm…
2.2.Tác động đến FDI của Việt Nam
Thứ nhất, FDI vào Việt Nam đã chậm lại so với cùng kỳ năm trước,
cả về lượng vốn đăng ký và lượng vốn thực hiện. Lượng vốn đăng ký tháng 4
chỉ đạt 342 triệu USD, giảm 52% so với tháng 3 và giảm 87% so với cùng kỳ
năm trước. Tính chung bốn tháng mới đạt 6.357 triệu USD, giảm 17% so với
cùng kỳ năm trước.
Số vốn FDI thực hiện trong quý I giảm 32% so với cùng kỳ. Như vậy, việc gia
nhập WTO, làn sóng FDI đầu tư vào Việt Nam đã tăng tốc trong hai năm đầu tiên (năm
2007 FDI đăng ký đạt 21.348 triệu USD, thực hiện đạt 8.030 triệu USD; năm 2008 tăng
mạnh tương ứng là 64.100 triệu USD và 11.500 triệu USD), nhưng do tác động tiêu cực
của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã làm cho làn sóng này bị
chậm lại. Nói bị chậm lại là so với năm 2008, dự báo triển vọng cả năm sẽ vẫn cao hơn
năm 2007.
Thứ hai, lượng vốn đăng ký bổ sung của các dự án được cấp phép từ các năm trước
cao hơn lượng vốn đăng ký mới (3,87 tỷ USD so với 2,48 tỷ USD). Điều đó chứng tỏ các
nhà đã đầu tư tại Việt Nam vẫn nhận thấy kết quả tích cực và triển vọng khả quan của việc

đầu tư và làm ăn tại Việt Nam. “Lòng tin vào nơi đầu tư” có ý nghĩa không kém gì “nguồn
vốn”, bởi “nguồn vốn” có thể khó khăn đối với nhà đầu tư này, nhưng không khó khăn đối
với nhà đầu kia, có thể khó khăn đối với nước này, nhưng không khó khăn đối với nước
kia; còn “lòng tin vào nơi đầu tư” thì lại có sức hút để các nhà đầu tư không gặp khó khăn
về vốn có thể chuyển nơi đầu tư.
Thứ ba, tỷ trọng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực có sự khác biệt lớn so với trước
đây. Lượng vốn đầu tư vào khu vực dịch vụ chiếm tới 93,8%, với 9.965 triệu USD; còn

6


Đề án môn học KTTM
khu vực công nghiệp chỉ có 392 triệu USD, chỉ chiếm 6,2%. Đây là kết quả tích cực của
việc mở cửa đối với khu vực dịch vụ rộng hơn sau cam kết khi gia nhập WTO.
Trong khu vực dịch vụ, phần lớn lượng vốn đã được thu hút vào lĩnh vực bất động
sản lên đến 5.785 triệu USD, chiếm tới 97% tổng vốn đăng ký đầu tư vào khu vực dịch vụ
và chiếm 91% tổng vốn đầu tư đăng ký vào nước ta trong bốn tháng qua. Cũng từ đó có
thể dự báo về khả năng ấm lại của thị trường bất động sản trong một vài năm tới sau một
thời gian bị đóng băng về giao dịch và giá cả.
Tuy nhiên, lượng vốn đăng ký đầu vào khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
trong bốn tháng hầu như không có. Chiều hướng ngày một ít vốn đầu tư nước ngoài vào
khu vực nông, lâm nghiệp- thủy sản có thể do khả năng sinh lời và thời gian thu hồi vốn
chậm của khu vực này. Điều đó cũng đòi hỏi các nguồn vốn trong nước cần được tăng
mạnh hơn cho khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, không những để bù đắp cho chiều
hướng trên, mà còn ngăn chặn sự sụt giảm tỷ trọng tổng vốn đầu tư xã hội cho khu vực này
(giảm gần như liên tục từ 14,1% năm 1999 xuống còn 6,5% năm 2007, thấp rất xa so với
tỷ trọng trên 20% chiếm trong GDP).
Thứ tư, tính đến cuối năm 2008, tổng lượng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp của Mỹ
vào Việt Nam đạt gần 5 tỷ USD, đứng thứ 9 trong các nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực
tiếp vào Việt Nam (sau Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Quần đảo

Virgin thuộc Anh, Hồng Công, Thái Lan), thì chỉ trong 4 tháng này đã vượt lên đứng thứ
nhất, với 3,82 tỷ USD, chiếm tới 60% tổng số và cao hơn tổng lượng vốn đăng ký tính từ
1988 đến cuối năm 2007 (3.480 triệu USD), vượt qua Hàn Quốc, Hồng Công,
Singapore,...Các nhà đầu tư Mỹ có sự vượt lên mạnh mẽ như vậy hẳn phải có nhiều lý do,
trong đó Việt Nam được lựa chọn hẳn có sự hấp dẫn nhất định...

II.Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các hình thức của FDI
1. Khái niệm

Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu
tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà
đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền
kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng
trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó. Hội nghị Liên
Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về
FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc
thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho
7


Đề án môn học KTTM

các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận
được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cở phần, thu nhập tái
đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là
người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước
khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của
nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng
thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.

Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam
chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định
của luật này”
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có
tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu
thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ
định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các QG
nào đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những
trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn
10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi
nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là
việc nhà đầu tư ở một nươc khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào
vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát
một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của
mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu
hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng
và giáy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và
kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu,
giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có
nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư
bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham
gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư.
2. Đặc điểm

8


Đề án môn học KTTM

- Tìm kiếm lợi nhuận: FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích
hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận: theo cách phân loại ĐTNN của UNCTAD,
IMF và OECD, FDI là đầu tư tư nhân. Do chủ thể là tư nhân nên FDI có mục
đích ưu tiên hàng đầu là lợi nhuận. Các nước nhận đầu tư, nhất là các nước
đang phát triển cần lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng
cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp
lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của
nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận
của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu
trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của luật pháp từng
nước để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận
đầu tư. Luật các nước thường quy định không giống nhau về vấn đề này. Luật
Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%, Việt Nam theo luật hiện
hành là 30% (điều 8 Luật ĐTNN 1996), trừ những trường hợp do Chính phủ
quy định thì nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn với tỉ lệ thấp hơn nhưng
không dưới 20% (Điều 14 mục 2 Nghị định 24/2000 NĐ-CP), còn theo qui
định của OECD (1996) thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền
biểu quyết của doanh nghiệp, mức được công nhận cho phép nhà đầu tư nước
ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp.
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ
quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng
được phân chia dựa vào tỷ lệ này. Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt
Nam, trong doanh nghiệp liên doanh, các bên chỉ định người của mình tham
gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vào vốn

pháp định của liên doanh. Ví dụ công ty liên doanh phần mềm Việt –Nhật
VIJASGATE có vốn điều lệ 500000USD, trong “điều lệ doanh nghiệp” của
công ty có ghi rõ: bên VN góp 200000USD tương đương 40%, bên Nhật Bản
góp 300.000USD tương đương 60%, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên phân
chia theo tỷ lệ vốn góp, số người tham gia hội đồng quản trị cũng theo tỷ lệ
4/6. Trong các trường hợp đặc biệt, quyền lợi và nghĩa vụ các bên không
9


Đề án môn học KTTM

phân chia theo tỷ lệ vốn góp và điều này được ghi rõ trong điều lệ doanh
nghiệp, nó phụ thuộc vào ý chí của các chủ đầu tư. Ví dụ vốn góp theo tỉ lệ
40/60 nhưng quyền lợi và nghĩa vụ theo tỷ lệ 50/50.
- Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh
doanh chứ không phải lợi tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn
lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như
công nghệ cho mình, do đó sẽ tự đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
Vì thế, hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có
những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế
nước nhận đầu tư.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận
đầu tư. Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công
nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Ví dụ trong lĩnh vực
bưu chính viễn thông của Việt Nam, hầu hết công nghệ mới trong lĩnh vực
này có được nhờ chuyển giao công nghệ từ nước ngoài.
- Điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác là quyền

kiểm soát, quyền quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì ưu điểm của hình thức này là tính
ổn định và hiệu quả sử dụng vốn của FDI cao hơn các hình thức khác do nhà I
trực tiếp sử dụng vốn. Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang các
hình thức đầu tư khác nếu thấy sự bất ổn của nền kinh tế nước nhận đầu tư.
Do đó mức độ ổn định của dòng vốn đầu tư đối với host country cao hơn.
Nhược điểm là host country bị phụ thuộc vào kinh tế ở khu vực FDI.
- Đối với nhà đầu tư: Chủ động nên có thể nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư, lợi nhuận thu về cao hơn. Có thể chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ
sản phẩm, khai thác nguồn nguyên liệu, nhân công giá rẻ và những lợi thế
khác của nước nhận đầu tư, tranh thủ những ưu đãi từ các nước nhận đầu tư.
Tuy nhiên hình thức này mang tính rủi ro cao vì anh ta hoàn toàn chịu trách
10


Đề án môn học KTTM

nhiệm về dự án đầu tư. Hoạt động đầu tư chịu sự điều chỉnh từ phía nước
nhận đầu tư. Không dễ dàng thu hồi và chuyển nhượng vốn.

3.Vai trò
 FDI bổ sung vốn cho nền kinh tế
Từ thế kỷ trước, nhà kinh tế học Paul Samuelson đã đưa ra lý thuyết
“vòng luẩn quẩn của sự chậm tiến và cú huých từ bên ngoài”. Theo lý thuyết
này, đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, do khả năng tích luỹ vốn
hạn chế. “Những nước dẫn đầu trong chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất
20% thu nhập quốc dân vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp
lạc hậu thường chỉ có thể tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa,
phần nhiều trong khoản tiết kiệm nhỏ bế này phải dùng để cung cấp nhà cửa
và những công cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên”.

Trong cuốn “Những vấn đề hình thành vốn ở các nước chậm phát
triển”, R.Nurkes đã trình bày có hệ thống việc giải quyết vấn đề vốn . Theo
ông, xét về lượng cung người ta thấy khả năng tiết kiệm ít ỏi, tình hình đó là
do mức độ thấp của thu nhập thực tế. Mức thu nhập thực tế phản ánh năng
suất lao động thấp, đến lượt mình, năng suất lao động tháp phần lớn do tình
trạng thiếu tư bản gây ra. Thiếu tư bản lại là kết quả của khả năng tiết kiệm ít
ỏi đưa lại. Và thế là cái vòng được khép kín. Trong cái “vòng luẩn quẩn của
sự nghèo đói” đó, nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn. Do vậy, mở cửa cho đầu
tư trực tiếp nước ngoài được ông xem là giải pháp thực tế nhất đối với các
nước đang phát triển.
Samuelson cũng cho rằng, để phát triển kinh tế phải có cú huých từ bên
ngoài nhằm phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” đó, phải có đầu tư của nước ngoài
vào các nước đang phát triển. Theo ông, nếu có quá nhiều trở ngại đối với
việc đi tìm nguồn tiết kiệm trong nước để tạo áôn thì tại sao không dựa nhiều
hơn vào các nguồn bên ngoài? “Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với
chúng ta rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi
nhuận cao cho mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư
bằng cách đầu tư vào những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao”.
FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luồn
vốn ổn định hơn so với các luồng vốn đầu tư quốc tế khác, bởi FDI dựa trên
quan điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng và không tạo ra nợ
cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do vậy, ít có khuynh hướng thay đổi khi
có tình huống bất lợi.
11


Đề án môn học KTTM

 FDI cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển
Có thể nói công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát

triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng
được khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là một
trong những mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy
nhiên, để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải
có một trình độ phát triển nhất định của khoa học - kỹ thuật.
Lênin cũng đã từng khẳng định: “Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa
được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không
có một tổ chức nhà nước có khoa học khiến cho hàng triệu người phải tuân
theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất
và phân phối sản phẩm thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”.
Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi là nguồn quan trọng để phát
triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai
khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và sự phát
triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ
nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các
nhà đầu tư nước ngoài.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực hiện
chủ yếu bởi các TNC, dưới các hình thức chuyển giao trong nội bộ giữa các
chi nhánh của một TNC và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC.
Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC sang
nước chủ nhà (nhất là các nước đang py_ được thông qua các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mà bên nước ngoài nắm
phần lớn cổ phần dưới các hạng mục chủ yếu như tiến bộ công nghệ, ứng
dụng công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất
lượng, công nghệ quản líy, công nghệ Marketing. Theo số liệu thống kê của
trung tâm nghiên cứu TNC của Liên hợp quốc, các TNC đã cung cấp khoảng
95% trong số các hạng mục công nghệ mà các chi nhánh của TNC ở các nước
đang phát triển nhận được trong năm 1993.
Cùng với hình thức chuyển giao trên, chuyển giao công nghệ giữa các chi
nhánh của các TNC cũng tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây.

Trong giai đoạn 80-96 các TNC đã thực hiện khoảng 8254 hợp đồng chuyển
giao công nghệ theo kênh này, trong đó 100 TNC lớn nhất thế giới chiếm
bình quân khoảng 35%.
Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các
TNC còn góp phần làm tăng năng lực ngiên cứu và phát triển (R&D) công
12


Đề án môn học KTTM

nghệ của nước chủ nhà. Đến năm 1993 đã có 55% chi nhánh của các TNC lớn
và 45% chi nhánh của các TNC vừa và nhỏ thực hiện các hoạt động R&D ở
các nước đang phát triển. Trong những năm gần đây, xu hướng này còn tiếp
tục tăng nhanh ở các nước đang phát triển châu á
Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài )nhất là ở
các doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp trong nước học được cách
thiết kế, chế tạo từ công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều
kiện sử dụng của mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng
của FDI đối với việc phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển.
 FDI giúp phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài là thu được lợi
nhuận tối đa, củng cố chỗ đứng và duy trì thế cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Do đó, họ đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các
nước tiếp nhận đầu tư. Số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp
FDI ngày càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, các hoạt
động cung ứng dịch vụ và gia công cho các dự án FDI cũng tạo ra thêm nhiều
cơ hội việc làm. Trên thực tế, ở các nước đang phát triển, các dự án FDI sử
dụng nhiều lao động đã tạo nhiều việc làm cho phụ nữ trẻ. Điều này không
chỉ Mang lại cho họ lợi ích về thu nhập cao mà còn góp phần quan trọng vào

sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở các nước này.
FDI cũng có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nước
chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Các cá
nhân làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội học
hỏi, nâng cao trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ và kỹ năng quản lý
tiên tiến. Các doanh nghiệp FDI cũng có thể tác động tích cực đến việc cải
thiện nguồn nhân lực ở các công ty khác mà họ có quan hệ, đặc biệt là các
công ty bạn hàng. Những cải thiện về nguồn nhân lực ở các nước tiếp nhận
đầu tư còn có thể đạt hiệu quả lớn hơn khi những người làm việc trong các
doanh nghiệp FDI chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp trong nước
hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp mới.
Đầu tư nước ngoài còn có vai trò đáng kể đối với tăng cường sức khoẻ và
dinh dưỡng cho người dân nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào
ngành y tế, dược phẩm, công nghệ sinh học và chế biến thực phẩm.
 FDI giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu
13


Đề án môn học KTTM

Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất
khẩu, những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai
thác có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nước đang phát
triển tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng
vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Bởi thế, khuyến
khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong
chính sách thu hút FDI của các nước này. Thông qua FDI các nước tiếp nhận
đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới, vì hầu hết các hoạt động FDI
đều do các TNC thực hiện. ở tất cả các nước đang phát triển, các TNC đều
đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu do vị thế và uy tín của

chúng trong hệ thống sản xuất và thương mại quốc tế. Đối với các TNC, xuất
khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua sử dụng các yếu tố đầu vào
rẻ, khai thác được hiệu quả theo quy mô sản xuất (không bị hạn chế bởi quy
mô thị trường của nước chủ nhà) và thực hiện chuyên môn hoá sâu từng chi
tiết sản phẩm ở những nới có lợi thế nhất, sau đó lắp ráp thành phẩm.
 FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự
phát triển nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng
của hoạt động kinh tế đối ngọi, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày
càng nhiều vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi
mỗi qgh phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân
công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù
hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động FDI. Ngược lại, chính FDI lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà, vì nó làm xuất hiện nhiều lĩnh
vực và ngành nghề kinh tế mới và góp phần nâng cao nhanh chóng trình độ
kỹ thuật và công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, phát triển năng suất lao động
của các ngành này. Mặt khác, dưới tác động của FDI, một số ngành nghề
được kích thích phát triển, nhưng cũng có một số ngành nghề bị mai một và
dần bị xoá bỏ.
4.Các hình thức FDI
1). Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh với nươc ngoài gọi tắt là liên doanh là hình
thức được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới
từ trước đến nay. Nó công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một
cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác
14



Đề án môn học KTTM

Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất
quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý,
hệ thống tài chính, luật pháp và bản sác văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng
góp của các bên về vốn, quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi
nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm
cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ
bản và nghiên cứu triển khai.
Đối với nước tiệp nhận đầu tư:
-Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hoá sản phẩm,
đổi mới Công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho ngưòi lao động
làm việc và học tập kinh nghiệm quản lí của nước ngoài
-Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo các vấn đề liên quan đến dự án
đầu tư, thường xuất hiện mẫu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp;
đối tác nước ngoài thương quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi lcú liên
doanh phải chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.; thay đổi nhân sự ở công ty
mẹ có ảnh hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh.
Đối với nhà dầu tư nước ngoài:
-Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại;
được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lình vực bị cấm hoặc
hạn chế đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập
được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà. Không mất thời gian
và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ.
Chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư
-Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất
nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đtư, định giá tài
sản góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong nước;
không chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội kinh
doanh khó giải quyết khác biệt vè tập quán, văn hoá.

2). Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh
trong hoạt động đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh
doanh có tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ
đầu tư và nước sở tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản
lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về
môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh
tế luật pháp, văn hoá, mức độ cạnh tranh…
15


Đề án môn học KTTM

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là 1 thực thể
pháp lý độc lập hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành lập dưới dạng
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Đối với nước tiếp nhận:
-Ưu điểm: nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù DN bị lỗ;
giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập trung thu
hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những linh vực khuyến khích xuất
khảu; tiếp cận được thị trường nước ngoài
-Nhược điểm: khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài đê
nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh nghiệp trong
nước.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
-Ưu điểm: chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp thực hiện được
chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh dự án đầu tư; được quyền

chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
chung của tập đoàn
-Nhược điểm: chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải chi phí
nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào
những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với
các cơ quan quản lý Nhà nước nước sở tại.
3). Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và
phân hia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà
không thành lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giứa đại diện có
thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ
việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong qúa
trình kinh doanh các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo
dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả
kinh doanh: hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro
mà phân chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả
thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh
doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật
nước sở tại. quyền lợ và nghĩa vụ của các bên hơp doanh được ghi trong hợp
đồng hợp tác kinh doanh.
Đối với nước tiếp nhận:
16


Đề án môn học KTTM


-Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu cnghệ, tạo ra thị trường
mới nhưng vấn đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền đièu hành
dự án
-Nhược điểm: khó thu hút đầu tư ,chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh
vực dễ sinh lời
Đối với nước đầu tư:
-Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của dối tác nước sở tại
vào được những linh vực hạn chế đầu tư thâm nhập được nhưng thị trường
truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc
nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ; không bị tác động
lớn do khác biệt về văn hoá; chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
-Nhược điểm: không được trực tiếp quản lý điều hành dự án, quan hệ hợp tác
với đối tá nước sở tại thiếu tính chắc chắn làm các nhà đầu tư e ngại.
4). Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một
số mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhan để thực hiện xây dựng cơ
sở hạ tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây
dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành
một công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là
nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh
nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp
đồng BOT còn có BTO, BT.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với
cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâgn cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh
trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó
chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây
dựng chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng
có điểm khác là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà

đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chinh phủ nước
chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong
một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về
công trình đã xây dựng và chuyển giao.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà
thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đã
bỏ ra và một tỉ lệ lợi nhuận hợp lí.
Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đòng BOT, BTO, BT mặc
17


Đề án môn học KTTM

dù hợp đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đòng là các cơ quan
quản lí nhà nước ở nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn các doanh nghiệp
FDI khác, chủ yếu áp dụng cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; được
hưởng các ưu đãi đầu tư cao hơn sơ với các hình thức đầu tư khác và điểm
đặc biệt là khi hết hạn hoạt đọng, phải chuyển giao không bồi hoàn công trình
cơ sở hạn tầng đã được xây dựng và khai thác cho nước sở tại
Đối với nước chủ nhà:
-Ưu điểm: thu hút được vốn đầu tư vào những dự án co9ư sở hạ tầng đòi hỏi
vốn đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời
nhanh chóng có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các
nguồn lực trong nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế.
-Nhược điểm: khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lí và khó kiểm soát công trình.
Mặt khác, nhà nước phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà
đầu tư.
Đối với đầu tư nước ngoài:

-Ưu điểm: hiệu quả sử dụng vốn được bảo đảm; chủ động quản lí, điều hành
và tự chủ kinh doanh lợi nhuận, hông bị chia sẻ và được nhà nước sở tại đảm
bảo, tránh những rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát.
-Nhược điểm: việc đàm phán và thực thi hợp đồng BOT thương gặp nhiều
khó khăn tốn kém nhiều thời gian và công sức.
5). Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company)
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lí được
thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển.Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở
mức đủ để kiểm soát hoạt động quản lí và điều hành công ty đó thông qua
việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hợp đồng quản trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ
giới hạn hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và
giám sát hoạt động quản lí của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì
quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo rất
nhiều thuận lợi:
-Cho phép các nhà đầu tư huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư khác
nhau mà còn tạo điểu kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các
công ty trực thuộc trong việc tiêps thị, tiệu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu
nhập và các nghiệp vụ tài chính.
-Quản lí các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống
nhất và chịu trách nhiệm về vịec ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược
điều phối các hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.
18


Đề án môn học KTTM

-Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục
đầu tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các

công ty con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
-Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối
ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển (R&D)…
6). Hình thức công ty cổ phần
Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn)là doanh
nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp cổ đông có thể là
tổ chức cá nhân với số lượng tối đa không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu
cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là nó có quyền
phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác
Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và
giám đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia gimá sát quản lý
hoạt dộng của công ty cổ phần. Đại hôi cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền
biểu quyết là co quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần
Ở một số nước khác, công ty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài
được thành lập theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI
(doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt
động, mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước cổ phần hoá.
7). Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn
nước ngoài ở chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong
khi công ty con thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty
con thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách
nhiẹm của chi nhánh theo quy định của một số nước, không chỉ giới hạn trong
phạm vi tài sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của
công ty mẹ ở nước ngoài.
Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản

chi phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước
ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi phí qunả lý của
công ty mẹ ở nước ngoài vào phàn thu nhập chịu thuế ở nước sở tại
Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập
công ty con. Do không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi
nhánh không phải tuân thủ theo các quy định về thành lập công ty, thường chỉ
19


Đề án môn học KTTM

thông qua việc đăng kí tại các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà
8). Hình thức công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp
danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề
nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ
của công ty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không
được phát hành bất kì loại chứng khoán nào. Các thành viên hợp danh có
quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lsy công ty, còn thành viên
góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty
nhưng không được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân
danh công ty.
Khác với doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài hình thức đầu tư này Mang đặc trưng của công ty đối nhân tiền về thân
nhân trách nhiệm vô hạn, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ. Hình thức đầu tư này trước
hết rất phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ, nhưng vì có những ưu điểm rõ rêt
nên cũng được các doanh nghiệp lớn quan tâm.
Việc cho ra đời hình thức công ty hợp danh ỏ các nước nhăm tao thêm

cơ hội cho nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư cho phù hợp với yều cầu, lợi
ích của họ. Thực tế cho thấy một số loại hình dịch vụ như tư vấn pháp luật,
khám chữa bệnh, thiết kế kiến trúc.. đã và đang phát triển nhanh chóng. Đó là
những dịch vụ mà người tiêu dùng không thể kiểm tra được chất lượng cung
ứng trước khi sử dụng, nhưng lại có ảnh hưởng đến sức khởe tính mạng và tài
sản của người tiêu dùng khi sử dụng. Việc thành lập công ty hợp danh là hình
thức thức đầu tư phù hợp trong việc phát triển và cung cấp các dịch vụ nêu
trên. Trong đó những người có vốn đóng vai trò là thành viên góp vốn và chịu
trách nhiệm hữu hạn còn các nhà chuyên môn là thàn viên hợp danh tổ chức
điều hành, cung ứng dịch vụ và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản
của họ.
9). Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A)
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung
vào các lĩnh vự công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các
nước phát triển.
Mục đích chủ yếu :
-Khai thác lợi thế của thị trươg mới mà hoạt động thương mại quốc tế hay đầu
tư mới theo kênh truyền thống không Mang lại hiệu quả mong đợi. Hoạt động
M&A tạo cho các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng hoạt động ra thị
20


Đề án môn học KTTM

trường nước ngoài.
-Bằng con đường M&A, các TNC có thể sáp nhập các ty của mình với nhau
hình thnàh một công ty khổng lồ hoạt độg trong nhiều lĩnh vự hay các công ty
khác nhau cùng hoạt động trông một lĩnh vực có thể sáp nhập lại nhằm tăng
khả năng cạnh tranh toàn cầu của tập đoàn
-Các công ty vì mục đích quốc tế hoá sản phẩm muốn lấp chỗ trống trong hệ

thống phân phối của họ trên thị trường thế giới
-Thông qua con đường M&A các ty có thể giảm chi phí từng lĩnh vực nghiên
cứu và phát triển sản xuất, phân phối và lưu thông.
-M&A tao điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và
cơ cấu ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó, hình thức này đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển công nghiệp ở mọi quốc gia.
Hoạt động phân làm 3 loại:
-M&A theo chiều ngang xảy ra khi 2 công ty hoạt động trong cùng 1 lĩnh vực
sx kinh doanh muốn hình thành 1 công ty lớn hơn để tăng khả năng cạnh
tranh, mở rộng thị trường của cùng 1 loại mặt mà trước đó 2 công ty cùng sản
xuất.
-M&A theo chiều dọc diễn ra khi 2 công ty hoạt động ở 2 lĩnh vự khác nhau
nhưng cùng chịu sự chi phối của 1 công ty mẹ, laọi hình M&A này thường
xảy ra ở các công ty xuyên quốc gia
-M&A theo hướng đa dạng hoá hay kết hợp thường xảy ra khi các ty lớn tiến
hành sáp nhập với nhau với mục tiêu tối thiểu hoá rủi ro và tránh thiệt hại khi
1 công ty tự thâm nhập thị trường.
So với đầu tư truyền thống, từ quan điểm của nước tiếp nhận đầu
tư:Về bổ sung vốn đầu tư trong khi hình thức đầu tư truyền thống bổ ngày
một lượng vốn FDI nhất định cho đầu tư phát triển thì hình thức M&A chủ
yếu chuyển sở hữu từ các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà cho các
công ty nước ngoài. Tuy nhiên, về dài hạn, hình thức này cũng thu hút mạnh
được nguồn vốn từ bên ngoài cho nước chủ nhà nhờ mở rộng quy mô hoạt
độn của doanh nghiệp.
-Về tạo việc làm, hình thức đầu tư truyền thống tạo ngay được việc làm cho
nước chủ nhà, trong khi hình thức M&A không những không tạo được việc
làm ngay mà còn có thể làm tang thêm tình trạng căng thẳng về việc làm
(tăng thất nghiệp) cho nước chủ nhà. Tuy nhiên về lâu dài, tình trạng này có
thể được cải thiện khi các doanh nghiệp mở rông quy mô sản xuất.
-Về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đầu tư truền thống tác động trực tiếp

dến thay dổi cơ cấu knh tế thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới
trong khi đó M&A không có tác động trong giai đoạn ngắn hạn
-Về cạnh tranh và an ninh quốc gia, trong khi đầu tư truyền thống thúc đẩy
cạnh tranh thì M&A không tác động đáng kể đến tình trạng cạnh tranh về mặt
21


Đề án môn học KTTM

ngắn hạn nhưng về dài hạn có thể làm tăng canh tranh độc quyền. Mặt khác,
M&A có thể ảnh hưởng đến an ninh của nước chủ nhà nhiều hơn hình thức
đầu tư truyền thống vởi vì tài sản của nước chủ nhà được chuyển cho người
nước ngoài.

III. Mục tiêu, quan điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến
khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.Mục tiêu
1.1. Mục tiêu Chương trình thu hút ĐTNN 2006-2010
Các chỉ tiêu chủ yếu về ĐTNN giai đoạn 2006-2010 cần đạt được là:
- Vốn ĐTNN thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so
với giai đoạn 2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt
khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001–2005), trong đó vốn
cấp mới đạt 41 tỷ USD và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi
năm đạt khoảng 11 tỷ USD.
- Doanh thu: khoảng 163,4 tỷ USD
- Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu
thô); nhập khẩu đạt 103,tỷ USD.
- Nộp ngân sách nhà nước: đạt khoảng 8,4 tỷ USD.
- Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành

công nghiệp chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ
khoảng 35%.
- Chú trọng thu hút đầu tư từ các nước G7 có công nghệ cao, đảm bảo
phát triển bền vững.
1.2. Định hướng thu hút vốn đầu tư trong một số ngành
(1) Ngành Công nghiệp-Xây dựng
- Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin,
điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các
nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu
hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.
- Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công
nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành
công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất
trong nước. Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều
22


Đề án môn học KTTM

kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở
rộng quy mô và thị trường tiêu thụ.
(2) Ngành Dịch vụ
- Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan
trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh
vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế
khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chínhviễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác.
Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành
nghề kinh doanh có điều kiện đối với ĐTNN có tính tới các yếu tố hội nhập
và toàn cầu hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút ĐTNN
bằng việc xem xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ,

khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể
là:
- Khuyến khích mạnh vốn ĐTNN vào các ngành du lịch, y tế, giáo dụcđào tạo. Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân
hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá.
- Khuyến khích ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng
các phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng
không, đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước… nhằm
góp phần nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu
tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.
(3) Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp
Theo Luật Đầu tư năm 2005, nuôi trồng, chế biến nông, lâm thuỷ sản,
làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới là
một trong những lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư. Phù hợp chiến lược phát
triển ngành, thu hút ĐTNN định hướng theo ngành hàng, sản phẩm chủ yếu
như sau:
- Về trồng trọt và chế biến nông sản, ĐTNN tập trung vào các dự án
xây dựng các vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu như lúa gạo, cây
lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè... theo hướng thâm canh, nâng cao
chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đổi mới thiết bị các xưởng chế biến.
- Về chăn nuôi và chế biến sản phẩm chăn nuôi, ĐTNN tập trung thu
hút vào các dự án sản xuất giống lợn, bò và gia cầm có chất lượng cao tại các
vùng có điều kiện thuận lợi về lao động, đất đai, đảm bảo vệ sinh môi trường
khi phát triển chăn nuôi với quy mô lớn, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư sản
xuất thức ăn gia súc có chất lượng cao.
23


Đề án môn học KTTM

- Về trồng rừng - chế biến gỗ, ĐTNN tập trung vào các dự án sản xuất

giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng
nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản.
1.3. Định hướng thu hút vốn đầu tư theo vùng
Trong thời gian tới, dự báo vốn ĐTNN vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào
những địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng
kinh tế trọng điểm. Để tăng cường thu hút ĐTNN tại những vùng có điều kiện
kinh tế xã hội còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển
giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi của đối với ĐTNN tại các vùng đó đòi
hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường
giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà
nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân.
Tập trung thu hút đầu tư, lấp đầy các KCN-KCX-KCNC, khu kinh tế
đã được Chính phủ phê duyệt góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng. Tận dụng những khu vực đất trống, đồi trọc, ít giá trị
nông nghiệp để phát triển KCN, xây dựng nhà máy, hạn chế xây dựng KCNKCX-KCNC trên đất canh tác nông nghiệp truyền thống.

2. Quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà Nước
Khi nghiên cứu về FDI quốc tế đối với những nước đang trong thời kỳ
tiếp nhận từ nước ngoài là chủ yếu, còn đầu tư ra nước ngoài mới bắt đầu với
quy mô nhỏ như nước ta, thì việc đặt ra vấn đề “Chiến lược FDI tất nhiên phải
phù hợp và phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam”
cần được lưu ý đến đặc điểm của nguồn vốn quốc tế này.
Lý thuyết đầu tư quốc tế có rất nhiều, nhưng lợi nhuận cận biên là một
căn cứ quan trọng để nhà đầu tư lựa chọn nước và dự án đầu tư. Họ có thể
thực hiện dự án đã được lựa chọn nếu có sự gặp nhau - hài hòa giữa lợi ích
của nhà đầu tư với lợi ích của nước nhận đầu tư. Không ai ép buộc được nhà
đầu tư nếu họ không thu được lợi nhuận cần có. Do vậy, có hai cách tiếp cận
vấn đề đối với việc thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia.
Cách thứ nhất, Chính phủ xét thấy dự án đầu tư không phù hợp với
Chiến lược đó về địa bàn, ngành và lĩnh vực thì từ chối tiếp nhận FDI.

Cách thứ hai, Chính phủ với tư cách là người điều hành kinh tế vĩ mô,
áp dụng những biện pháp khuyến khích đầu tư trong nước, sử dụng vốn đầu
tư từ ngân sách nhà nước để thực hiện những dự án thuộc ngành, lĩnh vực và
24


Đề án môn học KTTM

địa bàn mà hiện tại chưa hấp dẫn đối với FDI, chấp nhận dự án do nhà đầu tư
nước ngoài đề nghị để bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững; tất nhiên có
chọn lọc chứ không phải bằng mọi giá. Phần lớn các nước đang phát triển áp
dụng cách thứ hai, vì có lợi cho việc thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội
trong điều kiện nguồn lực trong nước còn có hạn.
Hơn 20 năm vừa qua, nước ta cũng lựa chọn dự án FDI theo cách tiếp
cận thứ hai. Ví dụ, miền núi, vùng sâu, vùng xa, các dự án đầu tư thuộc lĩnh
vực xã hội có tỷ suất lợi nhuận thấp hoặc phi lợi nhuận thì Chính phủ phải
đầu tư từ nguồn vốn ngân sách, phát hành trái phiếu, vốn ODA và các nguồn
vốn viện trợ khác; phải chấp nhận FDI ở các thành phố lớn, các tỉnh có điều
kiện hạ tầng kỹ thuật bảo đảm; dù làm tăng thêm chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các vùng.
Cũng có những lo ngại chính đáng về đầu tư khai thác tài nguyên, vì
“không gì tai hại và thiệt thòi cho nền kinh tế và các thế hệ mai sau bằng việc
xúc tài nguyên đi bán thô với giá rẻ…”. Nhưng cũng cần thấy được chủ
trương đúng đắn của Chính phủ đối với một vài loại tài nguyên, điển hình là
dầu khí, không những trước đây, mà hiện tại vẫn tiếp tục ký các hợp đồng
thăm dò và khai thác dầu khí với các nhà đầu tư quốc tế, bởi trên thực tế điều
đó là cần thiết để Petro Việt Nam tiếp cận nhanh hơn công nghệ thăm dò, khai
thác của các tập đoàn hùng mạnh của thế giới.
Trên thực tế, FDI ngành dầu khí đã đóng góp đáng kể cho xuất khẩu,
thu ngân sách, chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực quản lý. Có lẽ

vấn đề đối với lĩnh vực dầu khí nằm ở chỗ khác. Nước ta đã có hơn hai thập
kỷ xuất khẩu dầu thô, nhưng chưa có công nghiệp lọc và hóa dầu nên giá trị
gia tăng của ngành này khá thấp, phần lớn nguyên liệu được sản xuất từ dầu
mỏ vẩn phải nhập khẩu; mà đáng ra nếu thực hiện đúng Chiến lược phát triển
đất nước thì nhà máy lọc dầu đầu tiên đã đi vào vận hành từ năm 1998, sau đó
vài ba năm đã có khu có khu công nghiệp hóa dầu chí ít cũng cung ứng được
một nửa nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp.
Chính phủ đã phân cấp toàn diện cho chính quyền tỉnh, thành phố đối
với FDI, đó là chủ trương đúng đắn; tuy vậy, vấn đề gắn với chủ trương đó là
tạo ra các điều kiện bảo đảm để nâng cao hiệu năng quản lý nhà nước trong
hoạt động FDI.
Hiện đang có nhiều dự án lớn không chỉ có tầm quan trọng đối với các
địa phương, mà còn đối với cả nước, đòi hỏi phải được các chuyên gia đủ
trình độ thẩm định dự án để bảo đảm lợi ích quốc gia trong việc thu hút FDI.
25


×