Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.64 KB, 122 trang )

LUẬN VĂN:

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội
trên địa bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan
Cảnh sát điều tra


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ và phòng ngừa, ngăn chặn người chưa
thành niên phạm tội là một việc làm không chỉ có ở Việt Nam mà tất cả các quốc gia
trên thế giới cũng đặc biệt quan tâm, nghiên cứu và thực hiện. Bởi thế hệ trẻ là tương
lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì một
ngày mai tươi sáng, "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai".
Với vai trò quan trọng như vậy, nên trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) ghi nhận "…Nhà nước,
xã hội và gia đình chăm lo, chăm sóc, giáo dục trẻ em…". Thể chế hóa điều đó có
hệ thống các ngành luật, văn bản pháp luật, nghị quyết, chỉ thị đề cập đến như Luật
bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Luật hình sự năm 1999, Luật tố tụng
hình sự năm 2003, chương trình hành động quốc gia 12/91... Nhìn lại một chặng
đường dài đã qua, Nhà nước ta đã và đang tiến hành rộng rãi việc chăm sóc giáo
dục trẻ em, tạo dựng một môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh. Nhiều trường
học, lớp học với những mô hình đào tạo đa dạng, phong phú, kết hợp với việc học hỏi
kinh nghiệm của các quốc gia tiên tiến trên thế giới, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả
đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong phạm vi cả nước nói chung cũng như ở địa bàn tỉnh Hà
Tây nói riêng vẫn tồn tại một thực trạng rất lo ngại, đó là tình hình vi phạm pháp luật,
đặc biệt là tình hình phạm tội do người chưa thành niên thực hiện, với tính chất, mức
độ, hành vi nguy hiểm cho xã hội ngày càng tăng. Chẳng hạn, các tội liên quan đến ma
túy, giết người, cướp của, hiếp dâm, tống tiền... cùng với việc sử dụng vũ khí nóng, tụ


tập thành các băng ổ nhóm hoạt động theo kiểu xã hội đen, gây nên tâm lý hoang
mang lo sợ trong nhân dân và khó khăn cho công tác điều tra, khám phá tội phạm
của lực lượng Công an nhân dân. Nhất là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
người chưa thành niên phạm tội.


Các biện pháp ngăn chặn là một chế định pháp lý quan trọng trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn
là sự đảm bảo cho quá trình phát hiện nhanh chóng, chính xác, xử lý nghiêm minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không cho người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm,
trốn tránh pháp luật, cản trở đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, nó đụng chạm đến quyền và lợi ích chính đáng của
công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, bí mật đời tư, thư
tín,…Thực tế những năm qua, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) cũng còn hạn chế nhất định, mà hậu quả dẫn đến là bỏ lọt tội
phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN, xâm phạm đến các
quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, nắm vững những biện pháp ngăn chặn như: bắt
người, tạm giữ, tạm giam… Qui định trong Chương V và Chương XXXII " Thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên" BLTTHS năm 2003, là điều cần thiết, giúp cho
các điều tra viên nói chung và các điều tra viên Công an tỉnh Hà Tây vận dụng tốt vào
thực tiễn hoạt động công tác. Tránh được những vi phạm đáng tiếc xảy ra, đồng thời
nâng cao được hiệu quả trong việc ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài "Áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà
Tây của cơ quan Cảnh sát điều tra " làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội là
vấn đề được nhiều nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam nghiên cứu, tiếp cận theo
những góc độ khác nhau. ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cũng có một số
công trình như "Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam…đúng pháp

luật" của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, Nhà xuất bản Pháp lý (1990),
Cuốn "Các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam" của Nguyễn
Mai Bộ, Nhà xuất bản Công an nhân dân (1997). Một số công trình khoa học như
Luận án tiến sĩ của TS Trịnh Văn Thanh và một số luận văn thạc sĩ như ThS. Trần


Mạnh Hùng…cũng tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến các biện pháp ngăn
chặn. Ngoài ra, còn có một số công trình, bài viết đăng trên tạp chí Công an nhân
dân, Tạp chí Kiểm sát… đề cập đến; các bài viết này mới chỉ khai thác được một số
khía cạnh về cách thức, phương pháp áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Các công
trình khoa học mới chỉ nghiên cứu một cách tổng thể trên phạm vi rộng mà chưa đề
cập đến những khó khăn vướng mắc và những giải pháp về việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên từng địa phương cụ thể
và với những đặc trưng riêng của từng tỉnh.
Thực tế, một số tài liệu có tính chất hướng dẫn như Pháp lệnh Tổ chức điều
tra hình sự năm 2004, Giáo trình "Chiến thuật điều tra hình sự" của Học viện Cảnh
sát nhân dân đã nêu rõ hơn về việc áp dụng này, song việc áp dụng ở từng địa
phương còn phụ thuộc nhiều vào các hướng dẫn cụ thể, ý kiến chỉ đạo hoặc các tài
liệu rút kinh nghiệm thông qua điều tra vụ án.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề "áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan
cảnh sát điều tr " cần tiếp tục được nghiên cứu, để làm tiêu chí, làm cơ sở, kinh
nghiệm áp dụng chung cho các tỉnh khác trong phạm vi cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT)
từ năm 2001 đến 6/2005, nhằm phát hiện những khó khăn vướng mắc, sơ hở, thiếu
sót trong quá trình chỉ đạo, phối hợp thực hiện nhiệm vụ của cơ quan CSĐT tỉnh Hà
Tây. Từ đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng các

biện pháp ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội ở địa bàn tỉnh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài


- Nghiên cứu làm rõ nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn và việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội của cơ
quan CSĐT trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
- Khảo sát, đánh giá việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội, được quy định trong BLTTHS của cơ quan CSĐT tỉnh
Hà Tây.
- Rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại, thiếu sót, khó khăn, vướng mắc
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp ngăn chặn và khắc phục tình trạng đã xảy ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn dưới góc độ
khoa học pháp lý nhằm hoàn thiện việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan CSĐT.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội nhưng chủ yếu là các tội xâm phạm về trật tự xã hội
và ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Tây từ năm 2001 đến 6/2005.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các tội phạm do người chưa thành niên
phạm tội thực hiện cùng với chính sách hình sự của Nhà nước đối với người chưa
thành niên phạm tội.



Đồng thời, trên cơ sở những thành tựu đạt được của các khoa học như Luật
quốc tế, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Xã hội học, khoa học Điều tra hình sự…
* Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã kết hợp nhiều phương pháp: phân tích,
so sánh, tổng hợp, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến của các cán bộ làm công tác
nghiên cứu, đồng nghiệp hoạt động thực tiễn, tham khảo các tài liệu về tố tụng hình
sự của một số nước trên thế giới để đánh giá, hệ thống hóa hoạt động áp dụng biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội.
6. Những vấn đề mới của đề tài
Làm rõ những lý luận về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự của Việt Nam hiện nay. Đề tài đã tổng hợp, đánh giá, tìm ra những ưu
điểm, hạn chế, nguyên nhân tồn tại, thiếu sót cũng như các kết quả đạt được trong
quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trên địa
bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan CSĐT. Đồng thời, đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội, theo quy định của BLTTHS và các chiến thuật, nghiệp vụ để bảo đảm các
biện pháp đó.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật tố
tụng hình sự về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội. Đồng thời nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao niềm tin của nhân dân với Đảng,
Nhà nước và lực lượng Cảnh sát nhân dân nói chung, cơ quan CSĐT tỉnh Hà Tây
nói riêng.
Ngoài ra, đề tài còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong
các trường Công an nhân dân, các cán bộ nghiên cứu, cán bộ đang làm nhiệm vụ
trực tiếp đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.



8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương 8 tiết.


Chương 1
Nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn và việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội của cơ quan Cảnh sát điều
tra

1.1. Nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự
1.1.1. Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước và pháp luật ra đời là một tất yếu khách
quan của lịch sử. ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, cũng đều có kiểu nhà
nước, kiểu pháp luật tương ứng. Cho dù ở bất kỳ nhà nước nào đi chăng nữa, thì
mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật luôn luôn khăng khít và tác động qua lại
lẫn nhau. Nhà nước dùng pháp luật để quản lý xã hội, để duy trì xã hội trong vòng
trật tự và ổn định. Còn pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, thể hiện
bản chất giai cấp sâu sắc của nhà nước, Như Mác - ăngghen đã từng khẳng định:
"Nó thực chất là bạo lực có tổ chức của một giai cấp nhất định với giai cấp khác.
Chính bạo lực có tổ chức của giai cấp thống trị với giai cấp khác tạo nên bản chất
của nhà nước, đó là một tính chất của quyền lực chính trị nhằm trấn áp giai cấp bị
thống trị". Những biện pháp trấn áp của giai cấp thống trị với giai cấp khác, tầng
lớp khác được thể hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ngoài những đặc điểm chung của nhà
nước còn có sự khác biệt. Đó là nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, là nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Để bảo vệ thành quả
cách mạng đã giành được trong cuộc đấu tranh giai cấp, xây dựng xã hội mới, Nhà
nước XHCN Việt Nam một mặt là một tổ chức chính trị hành chính, một cơ quan

cưỡng chế nhưng đồng thời là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của toàn thể nhân
dân lao động. Bộ máy cưỡng chế hành chính của nhà nước XHCN Việt Nam là bộ


máy của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để trấn áp các phần tử
chống đối lại sự nghiệp đổi mới, giữ vững an ninh trật tự, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam đã qui định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân và vì dân".
Thực hiện được điều đó, nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có những biện
pháp cưỡng chế, có những bộ máy đặc biệt, để cưỡng chế tất cả các hành vi xâm hại
đến các quyền và lợi ích hợp pháp nói trên một cách kiên quyết và mạnh mẽ. Mỗi
ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam đều có tính cưỡng chế của nhà nước.
Song tính cưỡng chế trong tố tụng hình sự vẫn là nghiêm khắc nhất. Vậy cưỡng chế
trong tố tụng hình sự được hiểu như thế nào?
Có quan điểm cho rằng, trong điều kiện phát triển kinh tế theo cơ chế thị
trường hiện nay, cũng cần đặt vấn đề kinh tế để xem xét. Nếu cứ áp dụng các biện
pháp ngăn chặn như hiện nay (ví dụ tạm giam) thì số bị can, bị cáo ở các trại tam
giam sẽ tăng lên, gây quá tải trong nhà giam, nhà nước phải chi phí tốn kém cho các
hoạt động đi kèm như chế độ ăn, ở, sinh hoạt, chế độ tạm giữ, canh gác, cơ sở thiết
bị vật chất cũng tăng lên. Nên chăng cần có những biện pháp quản lý, giám sát nào
đó mà vẫn đạt được mục tiêu ngăn chặn tội phạm?
Có quan điểm lại cho rằng, phòng ngừa tội phạm cũng là biện pháp ngăn
chặn tội phạm trong tố tụng hình sự. Đây là quan điểm hình thức, từ ngữ, chưa thấy
rõ bản chất phòng ngừa từ xa của công tác phòng chống tội phạm. Hiện nay chúng
ta đang tổ chức cuộc "Vận động toàn dân tham gia quản lý, giáo dục, cảm hóa
những người lầm lỗi tại cộng đồng" và thực hiện "Chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm". Vấn đề này thực hiện như thế nào?
Một số quan điểm khác lại lấp lửng, biến hóa, tùy tiện, đặc biệt trong hoạt
động tạm giữ hành chính và tố tụng. Quan điểm này đã được nhiều báo cáo tổng kết

chấn chỉnh, một số địa phương cấp huyện sử dụng nó như là một hoạt động cứu
cánh cho việc điều tra vụ án. Đó chính là vấn đề hình sự hóa các quan hệ pháp luật


dân sự, hành chính, kinh tế và ngược lại, hoặc lấy cưỡng chế thay cho hoạt động
điều tra thu thập chứng cứ.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài báo viết lên những thông tin về hoạt động áp
dụng các biện pháp ngăn chặn dưới dạng mượn dư luận để gây sức ép hoặc coi áp
dụng biện pháp ngăn chặn như là một hình thức trừng phạt người có hành vi phạm
tội... Cách hiểu đó, họ chưa thấy hết được mục đích, căn cứ, đối tượng của việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn.
Theo Từ điển nghiệp vụ phổ thông ngành công an thì: "Các biện pháp ngăn
chặn trong phòng, chống tội phạm là biện pháp chủ động đối phó kịp thời không để
cho bọn phản cách mạng và bọn tội phạm khác thực hiện âm mưu phạm tội của
chúng". Khái niệm cho thấy, biện pháp ngăn chặn được thể hiện chủ yếu là tính chủ
động tấn công, phòng ngừa tội phạm mà chưa nêu ra các chủ thể một cách rõ ràng,
đối tượng bị áp dụng và những căn cứ nào dùng để giải quyết vụ án hình sự.
Theo tác giả Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên:
Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế cần
thiết trong tố tụng hình sự do các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và trong một số trường hợp được
pháp luật quy định, có thể áp dụng đối với cả những người chưa bị khởi
tố (người bị bắt trong trường hợp quả tang hoặc trong trường hợp khẩn
cấp) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cho họ
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Về nội dung, khái niệm này cơ bản là đầy đủ nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh vì khi
bắt người phạm tội quả tang, không nhất thiết chỉ có Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm
sát (VKS), Tòa án mà bất kỳ người nào trông thấy cũng có quyền bắt...
Từ sự phân tích trên, chúng tôi rút ra khái niệm về các biện pháp ngăn chặn

như sau:


Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự
được áp dụng đối với bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự để kịp thời
ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, cũng như không cho họ có
những hành động làm cản trở hoạt động điều tra, xét xử hoặc thi hành án hình sự.
1.1.2. Căn cứ áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn của cơ
quan Cảnh sát điều tra
- Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS 2003, căn cứ áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong hoạt động điều tra vụ án bao gồm ba căn cứ sau:
+ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Có nghĩa là không để cho tội phạm xảy ra, chặn đứng được hành vi chuẩn bị
phạm tội, không cho nó diễn ra trong thực tế hoặc buộc những hành vi phạm tội phải
dừng lại, không để cho người phạm tội thực hiện hành vi đến cùng. Căn cứ này cho
chúng ta thấy sự ràng buộc kết nối giữa BLTTHS với lý luận về tội phạm trong luật
hình sự là rất chặt chẽ. Bởi trong các giai đoạn thực hiện tội phạm thì có giai đoạn
chuẩn bị và trách nhiệm hình sự cũng được đặt ra ở một số tội phạm nhất định.
BLTTHS quy định việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp là một chế định tương
ứng với việc xác định giai đoạn chuẩn bị thực hiện tội phạm trong luật hình sự. Đó
chính là tính logíc phù hợp giữa luật nội dung với luật hình thức. Trong hoạt động
điều tra, vận dụng căn cứ này vào việc bắt khẩn cấp, quy định tại điểm a khoản 1điều
81 BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng.
+ Khi có căn cứ chứng tỏ bị can sẽ gây khó khăn cho việc điều tra
Mục đích của CQĐT là tái xác lập lại sự việc phạm tội đã xảy ra trong thực
tế một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và toàn diện, làm cơ sở cho việc giải
quyết vụ án. Do vậy, các hoạt động điều tra để xác định người thực hiện hành vi
phạm tội là điều cần thiết. Song thực tế những người thực hiện hành vi phạm tội lại
tìm mọi cách để cản trở quá trình xác định sự thật của vụ án. BLTTHS quy định căn



cứ này cho phép CQĐT được tiến hành áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
những đối tượng là bị can, có biểu hiện ra bên ngoài như họ có thể bỏ trốn, tiêu hủy
chứng cứ, thông cung, mua chuộc, khống chế, đe dọa người làm chứng, người bị
hại. Đây cơ sở, căn cứ để áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
+ Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội
Cơ sở để áp dụng căn cứ này là những biểu hiện ra bên ngoài của bị can
thông qua các dấu hiệu về nhân thân của đối tượng trước khi áp dụng biện pháp
ngăn chặn, đặc điểm nhân thân của đối tượng chẳng hạn như phần tử phản cách
mạng, những tên lưu manh côn đồ hung hãn, những kẻ chuyên sống bằng con
đường phạm tội... Hành vi của các đối tượng này thường thể hiện là các hành vi đe
dọa người làm chứng, người tố giác tội phạm... Và nguy cơ của sự đe dọa, trả thù đó
có khả năng xảy ra. Trong thực tiễn, điều tra viên phải đánh giá một cách khách
quan, phải có tài liệu chứng minh điều đó, để hạn chế đến mức thấp nhất sự thiếu vô
tư, không dám tin tưởng vào trình độ, chuyên môn của mình mà ra các quyết định
áp dụng một cách tràn lan. Trường hợp nào thấy cần thiết áp dụng thì tiến hành và
ngược lại, đó là sự thể hiện bản lĩnh nghiệp vụ dám tin tưởng, dám chịu trách nhiệm
trước các quyết định của mình khi áp dụng biện pháp ngăn chặn.
- Căn cứ hủy bỏ hay thay thế biện pháp ngăn chặn
Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn thực chất là vấn đề mềm hóa
cách xử sự trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự, nó có lợi cho đối tượng hoặc
tăng tính nghiêm khắc khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đồng thời làm cơ sở
cho việc vận dụng chính sách nhân đạo, chiến thuật nghiệp vụ của cơ quan CSĐT.
+ Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
là việc các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không tiếp tục áp dụng
biện pháp ngăn chặn đối với người đang bị áp dụng một biện pháp ngăn chặn cụ
thể. Tại Điều 94 BLTTHS quy định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn được tiến hành
trong các trường hợp sau:



Thứ nhất, khi vụ án bị đình chỉ
khi cơ quan tiến hành tố tụng có tài liệu, chứng cứ, chứng tỏ có căn cứ quy
định tại Điều 107 BLTTHS những trường hợp không khởi tố vụ án hình sự hoặc
trường hợp người bị hại có đơn yêu cầu không khởi tố vụ án hình sự theo quy định
tại Điều 105 BLTTHS hoặc đã hết thời hạn điều tra mà vẫn không chứng minh
được bị can đã thực hiện tội phạm Điều 164 BLTTHS.
Thứ hai, khi CQĐT thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không còn
cần thiết nữa
Là việc CQĐT xem xét những yêu cầu phục vụ cho việc điều tra như thu
thập tài liệu đã đầy đủ, ý thức khai báo, thái độ thành khẩn của bị can… thì CQĐT
sẽ ra quyết định hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn.
+ Thay thế biện pháp ngăn chặn
là việc CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay thế cho biện pháp
ngăn chặn đang được áp dụng (Có thể ít nghiêm khắc hơn nhưng cũng có thể sẽ
nghiêm khắc hơn).
Thay thế biện pháp ngăn chặn phải thỏa mãn những điều kiện sau:
 Yêu cầu giải quyết vụ án.
 Thái độ chấp hành của bị can đối với biện pháp ngăn chặn đang được áp
dụng.
Đảm bảo được các điều kiện này, CQĐT sẽ tiến hành thay thế biện pháp
ngăn chặn. Cho phép CQĐT tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc sử dụng chiến
thuật tác động lên thái độ, tâm lý, ý thức của bị can khi tiến hành điều tra vụ án.
1.1.3. ý nghĩa, tầm quan trọng của việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn của cơ quan Cảnh sát điều tra
Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng
chế của Nhà nước thể hiện tính mệnh lệnh quyền uy trong phương pháp điều chỉnh


của luật tố tụng hình sự. áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất

lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể:
- áp dụng đúng đắn biện pháp ngăn chặn sẽ đảm bảo cho quá trình giải
quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, không có sự oan sai xảy ra.
- áp dụng các biện pháp ngăn chặn là đảm bảo quan trọng trong việc tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các quy định về căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn là nhằm đạt được mục tiêu ngăn chặn và phòng chống tội phạm.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách tùy
tiện, thiếu căn cứ. Do đó, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành đúng
trình tự, thủ tục và phải thận trọng trong hoạt động này.
Ví dụ: Khi bắt người phải có đại diện của chính quyền xã phường thị trấn
hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và phải có
người láng giềng chứng kiến.
- áp dụng biện pháp ngăn chặn góp phần bảo vệ trật tự xã hội và chế độ
XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân và các
quan hệ xã hội khác cần được bảo vệ đồng thời trấn áp một cách kiên quyết tội phạm
xảy ra vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
1.1.4. Nguyên tắc cần tuân thủ khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn
của cơ quan Cảnh sát điều tra
áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động mà CQĐT phải thực hiện
trách nhiệm của mình trong việc ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội
trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Do vậy, việc áp dụng các
biện pháp này theo quan điểm của chúng tôi cần tuân thủ một số nguyên tắc sau
đây:
- Nguyên tắc pháp chế XHCN
Đây là nguyên tắc xuyên suốt, bao trùm toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự,
nó thể hiện rõ nét bản chất của chế độ xã hội, là yêu cầu thiết thực được ghi nhận tại


Điều 112 Hiến pháp 1992: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". Tại Điều 3 BLTTHS qui định: "Mọi

hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng phải tiến hành theo quy định của bộ luật này" Trên cơ sở đó,
CQĐT khi áp dụng phải dựa vào pháp luật hiện hành, các văn bản pháp luật có liên
quan để viện dẫn vào thực tiễn, nếu phát hiện những thiếu sót sơ hở của pháp luật
thì CQĐT có trách nhiệm đề nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Chính vì vậy,
CQĐT cần phải quán triệt một số vấn đề sau:
+ Chỉ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khi đã có đầy đủ các căn cứ
do pháp luật quy định.
Trong Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự và BLTTHS đã quy định: Tổ chức
CQĐT, quyền và nghĩa vụ của điều tra viên, thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT, trong hoạt
động áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các quyết định phải do người có thẩm quyền
ký, người thi hành lệnh phải thực hiện các yêu cầu về thủ tục đã được quy định để tránh
những sai phạm, việc bỏ qua không tuân thủ một quy định nào đó do luật quy định đều
là sự xa rời, vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN.
Ví dụ: Tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS quy định về các căn cứ để bắt người
trong trường hợp khẩn cấp, khoản 1 Điều 88 quy định về các căn cứ để áp dụng
biện pháp tạm giam, Điều 303 quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành
niên… Cho nên việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đòi hỏi phải đúng trình tự,
thủ tục, thẩm quyền và do luật định.
+ CQĐT cần phải chấp hành tốt các quy định có liên quan đến việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, phối hợp với các cơ quan tổ chức xã hội khác cùng tham
gia vào việc áp dụng để đảm bảo các biện pháp ngăn chặn có hiệu quả như việc giao
trách nhiệm cho chính quyền địa phương bảo quản tài sản của bị can nếu bị can bị
bắt giam hoặc tham gia quản lý đối tượng khi họ bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi
nơi cư trú…


Trong hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn, CQĐT, người tiến hành
tố tụng vi phạm pháp luật, gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường nhằm bảo
đảm quyền lợi của công dân đồng thời thông qua đó gắn trách nhiệm đối với người

tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân
áp dụng các biện pháp ngăn chặn là tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền nhất
định ở đối tượng bị áp dụng nhưng không phải vì thế mà vi phạm các quyền khác của
họ được hưởng. Làm tốt vấn đề này, CQĐT cần lưu ý một số vấn đề sau:
+ Trước khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần phải xem xét kỹ việc áp
dụng này có vi phạm vấn đề gì không?
+ Trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đòi hỏi phải thường xuyên
kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết về những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy
bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có sự vi phạm pháp luật hoặc xét
thấy không cần thiết nữa.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 303 BLTTHS thì CQĐT chỉ có thể bắt tạm
giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội trong những trường hợp phạm tội
nghiêm trọng do cố ý, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Còn các trường hợp
khác thì sẽ không áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ.
ý nghĩa của nguyên tắc này là chỉ được thực hiện đối với những người có đủ
điều kiện do luật định, tránh tình trạng vì lợi ích cá nhân hoặc thiếu vô tư trong quá
trình áp dụng dẫn đến oan sai. Vì vậy, CQĐT khi tiến hành, đòi hỏi phải nghiêm
minh, đúng pháp luật, phải đảm bảo uy tín của mình đồng thời đảm bảo các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên.
1.1.5. Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam


Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS 2003 thì các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, phạt tiền hay tài sản có giá trị để đảm bảo.
1.1.5.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người

Bắt người là biện pháp ngăn chặn có vị trí quan trọng trong quá trình điều
tra, xử lý vụ án hình sự. Đây là biện pháp có tính chất cưỡng chế nghiêm khắc của
nhà nước, nhằm tước bỏ quyền tự do thân thể của một người và hạn chế một số
quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do vậy, việc bắt người trong pháp luật tố tụng hình
sự của Nhà nước ta từ trước cho đến nay luôn luôn được xây dựng theo hướng kế
thừa có chọn lọc và từng bước hoàn thiện.
BLTTHS 2003 quy định về bắt người bao gồm: Bắt bị can, bị cáo để tạm
giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người trong trường hợp phạm tội
quả tang, bắt người đang bị truy nã.
* Việc bắt bị can để tạm giam
Tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 qui định các biện pháp và căn cứ áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, Điều 80 quy định về việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, để xác định được đối tượng cần bắt
tạm giam, nhằm tước bỏ điều kiện thực hiện phạm tội, gây khó khăn, cản trở cho
hoạt động điều tra, do tính chất mức độ nguy hiểm của chính bị can, đòi hỏi CQĐT
phải áp dụng một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc đó là bắt bị can để tạm giam.
Đối tượng bị bắt phải là bị can của vụ án, qua công tác điều tra, đã xác định
được người thực hiện hành vi phạm tội, có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm và
đã bị CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Tuy nhiên, không phải bất kỳ bị can nào
cũng bị bắt để tạm giam.
Theo quy định tại điều 88 BLTTHS 2003, việc bắt bị can, bị cáo để tạm
giam được áp dụng trong những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.


- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS qui định
hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hay cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà

áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây: Bị can, bị cáo bỏ
trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra,
truy tố xét xử; Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ
cho rằng nếu không tạm giam họ sẽ nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam là:
Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp, Chánh án,
Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao và tòa quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức
vụ chánh tòa, phó chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này lệnh bắt phải
được sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành.
Thủ tục bắt bị can để tạm giam:
Phải theo đúng quy định tại Điều 80 BLTTHS. Lệnh bắt của người có thẩm
quyền phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh; Họ tên, địa chỉ
người bị bắt, lý do bắt, lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và phải có đóng
dấu.
Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ
của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Biên bản về việc bắt phải ghi rõ ngày, tháng năm, địa điểm bắt, nơi lập biên
bản, tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật bị tạm giữ, những khiếu
nại của người bị bắt, phải đọc lệnh bắt cho người bị bắt và người chứng kiến cùng


nghe, người thi hành lệnh bắt, người bị bắt và người chứng kiến cùng ký vào biên bản;
nếu có ý kiến thắc mắc thì có quyền ghi vào biên bản.
Việc bắt bị can để tạm giam tại nơi cư trú phải có đại diện chính quyền địa
phương nơi người đó cư trú, hoặc làm việc và người láng giềng chứng kiến. Bắt bị
can tạm giam không được bắt vào ban đêm (thời gian ban đêm được tính từ 10h
đêm hôm trước đến 6h sáng hôm sau) trừ những trường hợp được quy định tại Điều
81 và Điều 82 BLTTHS.

* Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS quy định trong những trường hợp sau đây thì
được bắt khẩn cấp:
- Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
- Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt
trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đó bỏ trốn.
- Khi thấy có dấu vết tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực
hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
Được quy định tại khoản 2 Điều 81 BLTTHS gồm: Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng CQĐT các cấp; Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và
tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới, người chỉ huy
tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
Cũng được áp dụng như thủ tục bắt bị can để tạm giam nhưng có một số
điểm khác:


+ Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần có sự phê chuẩn của
VKS cùng cấp trước khi thi hành, sau khi bắt người, việc bắt người phải được báo
cáo cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu có liên quan đến việc bắt khẩn
cấp để xét phê chuẩn. Trong thời gian 12h kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn
và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn. Nếu VKS quyết định không phê chuẩn thì người ra
lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
+ Trường hợp bắt khẩn cấp được bắt người vào bất kỳ lúc nào không kể ban
ngày hay ban đêm (khoản 3 Điều 80 BLTTHS)
* Việc bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã

- Bắt người phạm tội quả tang:
Là việc bắt khi người đó đang thực hiện tội phạm, hoặc ngay sau khi thực
hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đang bị đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm
là hành vi phạm tội rõ ràng, khi trông thấy thì ai cũng biết đó là tội phạm mà không
cần phải điều tra xác minh. Tại khoản 2 Điều 82 BLTTHS quy định những trường
hợp phạm tội quả tang bao gồm:
+ Người đang thực hiện tội phạm:
Là người đang thực hiện hành vi, được mô tả trong một cấu thành tội phạm
cụ thể, hành vi đang diễn ra mà chưa kết thúc, có thể đã gây ra hậu quả tác hại
nhưng cũng có thể chưa gây ra hậu quả tác hại.
+ Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện:
Đây là trường hợp liền kề ngay với hành vi phạm tội, đối tượng đang có
hành vi cất dấu công cụ, phương tiện, xóa dấu vết phạm tội, quá trình vừa kết thúc
hành vi phạm tội thì bị phát hiện và bị bắt giữ.
+ Đang bị đuổi bắt:


Là trường hợp người phạm tội bị phát hiện khi đang di chuyển khỏi nơi
thực hiện tội phạm và những người tham gia vào việc bắt giữ đang dượt đuổi. Trong
quá trình này có sự giám sát liên tục và không bị gián đoạn về thời gian.
- Bắt người đang bị truy nã:
Là bắt những người mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã bao
gồm đối tượng gây án bỏ trốn, trốn trại cải tạo, trại tạm giam, nhà tạm giữ hoặc trốn
trong khi đang dẫn giải, trốn thi hành án. Đặc điểm nổi bật là đối tượng đã bị các cơ
quan có thẩm quyền xác định được nhưng họ trốn tránh gây cản trở cho công tác
điều tra, truy tố hay thi hành bản án hình sự. Tuy nhiên, có trường hợp hành vi lẩn
trốn của họ là hành vi được mô tả trong tội trốn khỏi nơi giam giữ.
Thẩm quyền, thủ tục bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã:
Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt, tước vũ khí và giải ngay người bị bắt
đến cơ quan công an, VKS hay ủy ban nhân dân nơi gần nhất, các cơ quan này phải

lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến CQĐT có thẩm quyền.
* Việc bắt một số đối tượng đặc biệt
Việc bắt người là đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, ngoài việc
tuân theo Điều 80, 81, 82 BLTTHS, còn phải đảm bảo một số thủ tục được quy định
ở các văn bản khác (Điều 99 Hiến pháp 1992, Điều 58 Luật tổ chức Quốc hội
25/12/2001, Điều 44 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân 26/11/2003).
1.1.5.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm
giữ
Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan có
thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội
quả tang.
- Đối tượng bị tạm giữ: Là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
hay phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hay đối với người bị bắt theo
quyết định truy nã. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp trên đều bị tạm giữ


mà chỉ khi cần có đủ thời gian đề CQĐT có thẩm quyền kiểm tra, xác minh tính
chất, mức độ, hành vi phạm tội, nơi cư trú, những tình tiết trong lời khai của người
bị bắt… Thì mới áp dụng biện pháp tạm giữ để đảm bảo cho hoạt động điều tra.
- Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ: Theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định
những người có quyền tại khoản 2 Điều 81 BLTTHS và chỉ huy trưởng vùng cảnh
sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.
- Thủ tục tạm giữ: Tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS qui định: Trong thời hạn
12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ quyết định tạm giữ phải được gửi cho VKS
cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS
ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và phải trả tự do ngay cho người bị tạm
giữ. Việc tạm giữ phải có lệnh viết tay của cơ quan có thẩm quyền, quyết định này
phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ
một bản, người bị tạm giữ có quyền được biết lý do về việc bị tạm giữ, có quyền
được trình bày lời khai, đưa ra yêu cầu, khiếu nại về việc tạm giữ và được giải thích

quyền và nghĩa vụ, do vậy khi tạm giữ người, cơ quan có thẩm quyền, người tiến
hành tố tụng phải tạo điều kiện cho người bị tạm giữ được thực hiện những quyền
và nghĩa vụ của họ.
- Thời hạn tạm giữ: Theo quy định tại Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm
giữ không được quá 3 ngày kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt. Trong trường hợp
khẩn cấp, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 3
ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ lần hai nhưng cũng không quá 3 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị
gia hạn và tài liệu liên quan đến việc tạm giữ, VKS phải ra quyết định phê chuẩn
hay không phê chuẩn.
Trong thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự
do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn bị tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam.
Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.


1.1.5.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm
giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do CQĐT, VKS,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng
mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ để cho rằng người đó có
thể bỏ trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
Đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất so với các biện pháp ngăn
chặn khác. Biện pháp này tước bỏ quyền tự do thân thể đồng thời còn hạn chế một số
quyền khác như quyền ứng cử, quyền bầu cử…của người bị áp dụng.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam (được qui định tại Điều 88
BLTTHS 2003, đã trình bày cụ thể ở phần bắt bị can, bị cáo).
- Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: Những người có thẩm quyền ra lệnh tạm
giam được quy định tại Điều 80 BLTTHS có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm

giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 BLTTHS phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày
nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến
việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn. VKS phải hoàn trả hồ sơ cho CQĐT ngay sau khi kết thúc việc xét phê
chuẩn.
- Thủ tục tạm giam: Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm
quyền. Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải báo ngay cho gia
đình người bị tạm giam biết.
- Thời hạn tạm giam: (Điều 120 BLTTHS) thời hạn tạm giam bị can để điều
tra không quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội
phạm nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng.


Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn
cho việc điều tra và không có căn cứ để thay thế hay hủy bỏ biện pháp tạm giam thì
chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, CQĐT phải có văn bản để nghị VKS
gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần
không quá 1 tháng.
+ Đối với tội phạm nghiêm trọng được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ
nhất không quá 2 tháng, lần thứ hai không quá 1 tháng.
+ Đối với tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ
nhất không quá 3 tháng, lần thứ hai không quá 2 tháng.
+ Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 3
lần, mỗi lần không quá 4 tháng.
Thẩm quyền gia hạn tạm giam của VKS được quy định như sau: VKSND cấp
huyện, VKS quân sự khu vực có quyền gia hạn đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Trong

trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì VKS cấp
tỉnh,VKS cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội ít nghiêm trọng, gia
hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt
nghiêm trọng (điểm a khoản 3 Điều 120 BLTTHS).
Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản
2 điều 120 BLTTHS đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc điều tra và không có căn cứ để
hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp tạm giam thì VKSND cấp huyện, VKS quân sự khu
vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội nghiêm trọng. VKSND cấp tỉnh,
VKS quân sự quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp Trung ương thì việc gia
hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của VKSNDTC, VKS quân sự Trung ương.


Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn
lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều 120 BLTTHS đã hết mà vụ án có
nhiều tình tiết phức tạp và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm
giam thì Viện trưởng VKSNDTC có thể gia hạn lần thứ ba.
Trong trường hợp cần thiết, đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện
trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần nữa nhưng không quá 4 tháng.
Như vậy, thời hạn tạm giam tối đa là: Đối với tội ít nghiêm trọng là
3 tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng là 6 tháng, đối với tội phạm rất nghiêm tọng
là 9 tháng, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng, đối với tội xâm
phạm an ninh quốc gia là 20 tháng.
Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì
CQĐT phải kịp thời đề nghị VKS hủy bỏ tạm giam để trả tự do cho người bị tạm
giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho
người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Chế độ tạm giam, tạm giữ: Qui định tại Điều 89 BLTTHS, Chế độ tạm

giam, tạm giữ khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt.
Nơi tạm giam, tạm giữ, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và
các chế độ khác được thực hiện theo đúng những quy định của chính phủ. Hiện nay
chúng ta đang áp dụng "Quy chế tạm giữ, tạm giam" theo Nghị định số
89/1998/NĐ-CP ngày 07/01/1998.
Các biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản đối với người bị tạm giữ,
tạm giam: Nếu người bị tạm giữ, tam giam đang có con chưa thành niên dưới 14
tuổi và thân nhân là người bị tàn tật, già yếu không có người chăm sóc thì cơ quan
ra lệnh tạm giữ, tạm giam, giao những người đó cho người thân thích hoặc chính
quyền sở tại chăm nom. Trường hợp người bị tạm giam, tạm giữ có nhà hoặc tài sản
khác mà không có người trông nom thì cơ quan ra lệnh tạm giữ, tạm giam phải áp


×