Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

BÀI tập môn tài CHÍNH TIỀN tệ (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.33 KB, 34 trang )

BÀI TẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Câu 1: khái niệm ,đặc điểm, nội dung của thu ,chi ngân sách nhà nước ?
Câu 2: phân cấp quản lý,chu trình quản lý ngân sách nhà nước?
Câu 3 : đặc điểm của chuyển giao rủi ro bằng bảo hiểm ? lợi thế và hạn chế so với
các phương pháp khác?
Câu 4: phân tích các vai trò kinh tế xã hội của bảo hiểm?
Câu 5 : tại sao một số nghiệp vụ bảo hiểm lại được quy định là bắt buộc,theo luật
kinh doanh bảo hiểm CHXHCNVN hiện nay có những loại bắt buộc nào?
Câu 6 : tại sao bên cạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, vẫn phát triển hệ thống bảo
hiểm kinh doanh ?
Câu 7:tìm hiểu sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam.
Sự đóng góp và vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại với sự phát triển của
nền kinh tế
Câu 8:tín dụng góp phần hình thành phát triển ngành kinh tế tối ưu như thế nào?
Câu 9 :thực hiện chính sách tiền tệ như thế nào?

BÀI LÀM
Câu 1 :
THU NSNN
-khái niệm : thu NSNN là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tâpj chung
một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu
cầu của Nhà nước
-đặc điểm :


 thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia
các nguồn tài chính quốc gia giữa nhà nước với các chủ thê trong xã hội: đối
tượng phân chia là nguồn tài chính quốc gia ,là kết quả lao động sản xuất
trong nước dưới hình thức tiền tệ
 Về nội dung ,thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức


giá trị, nảy sinh khi nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài
chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước
 Thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của phạm trù giá
trị như lãi suất, thu nhập,giá cả… từ đó tác động đến mức thu,đồng thời đặt
ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN.
-nội dung :
Thu NSNN bao gồm :
+ Thuế, lệ phí, phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp
luật.
+ Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước như :
• Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế
• Tiền thu hồi vốn của nhà nước tại các cơ sở kinh tế
• Thu hồi tiền cho vay của nhà nước(cả gốc và lãi).
+ Thu từ các hoạt động sự nghiệp.
+ thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên ,tài sản thuộc sở hữu nhà nước
+ thu từ vay nợ và viện trợ khong hoàn lại của chính phủ các nước, các tổ
chức các cá nhân nước ngoài, từ đóng góp tự nguyện của các tổ chức ,cá
nhân trong và ngoài nước .
+ thu khác : thu từ phạt , tịch thu, tịch biên tài sản…
ví dụ :
THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO LĨNH VỰC NĂM 2011
(Kèm theo Quyết định số 3212 /QĐ-BTC ngày 08/12/2010
của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc công bố công khai số liệu dự toán NSNN năm 2011)
+ Đơn vị tính: Tỷ đồng
STT

Chỉ tiêu
TỔNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Dự toán

năm 2011
595,000

I

Thu nội địa

382,000

1

Thu từ doanh nghiệp nhà nước

129,560


2

Thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu)

72,865

3

Thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh

80,380

4


Thuế sử dụng đất nông nghiệp

5

Thuế thu nhập cá nhân

28,902

6

Lệ phí trước bạ

12,397

7

Thu phí xăng, dầu

11,731

8

Các loại phí, lệ phí

8,012

9

Các khoản thu về nhà, đất


a

Thuế nhà đất

1,373

b

Thu tiền thuê đất

2,744

c

Thu tiền sử dụng đất

d

Thu bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước

32

34,715

30,000
598

10 Thu khác ngân sách

2,670


11 Thu quỹ đất công ích, hoa lợi công sản tại xã

736

II

Thu từ dầu thô

69,300

III

Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu

138,700

1

Tổng số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu

180,700

Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu
Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu (tổng số thu)
2

80,400
100,300


Hoàn thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu

-42,000

IV Thu viện trợ không hoàn lại

5,000

+
+

(Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Tài chính

Phân loại thu NSNN:
– Phân loại theo nội dung kinh tế :
+ Nhóm thu thường xuyên ,có tính chất bắt buộc, gồm thuế, phí, lệ
phí với nhiều hình thức cụ thể do luật định.
+ Nhóm thu không thường xuyên ,bao gồm khoản thu từ hoạt động
kinh tế nhà nước ,thu tử hoạt động sự nghiệp,thu tiền bán hoặc cho
thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước và các khoản thu như trên.
→cách phân loại trên giúp thấy rõ được sự phát triển của nền kinh
tế ,tính hiệu quả của nền kinh tế


– Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN:
+ Thu trong cân đối NSNN : bao gồm các khoản thu thường xuyên
và thu không thường xuyên .
+ Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: khi số thu ngân sách không đáp ứng
nhu cầu chi tiêu trong và nhà nước phải đi vay :vay từ các tầng lớp
dân cư ,các tổ chức kinh tế xã hội trong nước ,vay nước ngoài

→cách phân loại trên cho phép đánh giá sự lành mạnh của NSNN
và rất có ý nghĩa trong tổ chức điều hành NSNN.
-nhân tố ảnh hưởng tới thu NSNN:
+ Thu nhập GDP bình quân đầu người
Thu nhập GDP bình quân đầu người là nhân tố quyết định đến mức
động viên của NSNN,nếu không xét đến chỉ tiêu này sẽ ảnh hưởng tiêu
cực đến các vấn đề tiết kiệm,tiêu dùng và đầu tư của các tổ chức kinh
tế,các tầng lớp dân cư.
+ Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế
Tỷ suất doanh lợi lớn thì nguồn tài chính càng lớn,đây là nhân tố quyết
định đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN
+ Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên
kinh nghiệm của các nước cho thấy ,nếu tỷ trọng xuất khẩu dầu mỏ và
khoáng sản chiếm trên 20% kim ngạch xuất khấu thì tỷ suất thu NSNN sẽ
cao và có khả năng tăng nhanh
+ Mức độ trang trải các kkhoanr chi phí của nhà nước
Nhân tố này phụ thuộc vào
• Quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của

• Những nhiệm vụ kinh tế mà nhà nước đảm nhận trong từng thời kì
• Chính sách sử dụng kinh phí của nhà nước
+ Tổ chức bộ máy thu nộp


Tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ ,đạt hiệu quả cao ,chống được thất thu
do trốn, lậu thuế sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỷ suất thu NSNN mà
vẫn đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của NSNN.
CHI NSNN
-khái niệm : chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo
thực hiện các chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.

Có hai quá trình trong chi NSNN là :
+ Quá trình phân phân phối :là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để
hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng.
+ Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ
NSNN mà không trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào
sử dụng
-đặc điểm của chi NSNN :
+ Chi NSNN gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế ,chính
trị,xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ
+ Chi NSNN gắn với quyền lực nhà nước .
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định quy mô, nội dung ,cơ cấu
chi NSNN và phân bổ nguồn vốn ngân sách cho các mục tiêu quan trọng
nhất .
Chính phủ là cơ quan hành pháp ,có nhiệm vụ quản lý, điều hành các khoản
chi NSNN.
+ Hiệu quả chi NSNN khác với hoạt động sử dụng vốn của các doanh
nghiệp ,nó được xem xét trên tầm vĩ mô và là hiệu quả kinh tế, xh, an ninh,
quốc phòng … mà các khoản chi ngân sách đảm nhận.
+ Chi NSNN là những khoản chi không hoàn trả trực tiếp.Các khoản cấp phát
cho các hoạt động văn hóa ,xã hội giúp đỡ người nghèo … không phải trả
hoặc hoàn lại cho nhà nước
→đặc điểm này giúp phân biệt các khoản chi NSNN với các khoản tín dụng
+ Chi NSNN là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn liền
với sự vận đông các phạm trù giá trị khác như giá cả, tiền lương, tín dụng,
thuế, tỷ giá hối đoái …


-nội dung chi NSNN : do tính đa dạng và phức tạp nên chi NSNN có hiều khoản
mục khác nhau, gồm:
+ Chi đầu tư phát triển : bao gồm chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ;chi

cho chương trình, mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước; chi hỗ trợ các doanh
nghiệp nhà nước, góp vốn liên doanh, liên kết, chi bổ sung dự trữ nhà nước.
+ Chi sự nghiệp kinh tế
+ Chi cho y tế;
+ Chi cho giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học;
+ Chi cho văn hóa, thể dục, thể thao;
+ Chi về xã hội;
+ Chi quản lý nhà nước, đảng, đoàn thể;
+ Chi cho an ninh, quốc phòng
+ Chi khác : như chi viện trợ, cho vay, trả nợ gốc và lãi.
Ví dụ:
CHI NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG THEO LĨNH VỰC NĂM 2011
(Kèm theo Quyết định số 3212 /QĐ-BTC ngày 08/12/2010
của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc công bố công khai số liệu dự toán NSNN năm 2011)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
STT

Chỉ tiêu

A Tổng số chi cân đối ngân sách trung ương

Dự toán
năm 2011
425,500

I Chi đầu tư phát triển

78,800

1 Chi đầu tư xây dựng cơ bản


72,220

2 Chi xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch
3 Góp vốn cổ phần các tổ chức tài chính quốc tế
Chi cho vay chính sách (hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, nhà ở cho
4 người nghèo, cho vay hộ đồng bào nghèo vùng ĐBSCL, xuất khẩu lao động 62
huyện nghèo…).
5 Bù chênh lệch lãi suất tín dụng ưu đãi

160
20
820
4,500

6 Hỗ trợ các hoạt động công ích, quốc phòng

200

7 Chi bổ sung dự trữ quốc gia

880

II Chi trả nợ và viện trợ

86,000

1 Chi trả nợ

85,000


2 Chi viện trợ
III Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nước

1,000
224,300


Trong đó:
1 Chi giáo dục - đào tạo, dạy nghề

22,600

2 Chi y tế

10,200

3 Chi dân số và kế hoạch hoá gia đình

880

4 Chi khoa học, công nghệ

4,870

5 Chi văn hoá thông tin

1,970

6 Chi phát thanh, truyền hình, thông tấn


940

7 Chi thể dục thể thao

480

8 Chi lương hưu và bảo đảm xã hội

59,450

9 Chi sự nghiệp kinh tế

17,380

10 Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường
11 Chi quản lý hành chính

1,100
23,860

12 Chi trợ giá mặt hàng chính sách

450

13 Chi khác

350

IV Chi điều chỉnh tiền lương

V Dự phòng

27,000
9,400

B Chi từ các khoản thu quản lý qua NSNN

46,024

C Chi từ nguồn vay ngoài nước về cho vay lại

28,640

Tổng số (A+B+C)

500,164

-phân loại :
+ Căn cứ vào mục đích chi tiêu, nội dung chi NSNN được chhi thành hai
nhóm:
• Chi tích lũy là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực
cho nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế, là các khoản chi đấu tư
phát triển và các khoản chi tích lũy khác.
• Chi tiêu dùng là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu
dùng trong tương lai, gồm :chi cho các hoạt động sự nghiệp, chi quản
lý hành chính nhà nước,chi quốc phòng an ninh và chi tiêu dùng khác.
→ưu điểm : tạo điều kiện cho việc phân tích, đánh giá kết quả chi NSNN gắn với
quá trình phân phối GDP, giải quyết mối quan hệ cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng
trong từng giai đoạn
→nhược điểm :



o Không thể hiện được mối quan hệ giữa tai chính của nhà nước và việc thực
hiện các chức năng quản lý nhà nước , từ đó khó tìm ra phương án phân phối
phù hợp với từng thời kỳ.
o Một số khoản chi không xác định rõ tích chất để xếp vào chi tích lũy hay
tiêu dùng
VÍ dụ : các khoản chi cho giáo dục, y tế, bù giá…
+ Căn cứ theo yếu tố thời hạn và phương thức quản lý chi NSNN được chia
thành 4 nhóm
• Nhóm chi thường xuyên, bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt
động thường xuyên của nhà nước ,và cơ bản mang tính chất tiêu dùng
VD các khoản chi lương và tiền công, chi mua sắm hàng hoá và dịch
vụ, chi chuyển giao thường xuyên
• Nhóm chi đầu tư phát triển , bao gồm các khoản chi làm tăng cơ sở
vạt chất của đất nước và góp phần làm tăng trưởng kinh tế , và mang
tính chất tích lũy
VD chi đầu tư cơ sở hạ tầng , chi hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước, chi
Các dự án chương trình quốc gia
• Nhóm chi trả nợ và viện trợ,bao gồm các khoản chi đẻ nhà nước thực
hiện nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước và vay nước ngoài
khi đến hạn và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế .
• Chi dự trữ và các khoản chi NSNN để bổ sung quỹ dự trữ nhà
nước,quỹ dự trữ tài chính.
-các nhân tố ảnh hưởng tới chi NSNN
+ Chế độ xã hội :chế độ xã hội quy định bản chất của nhà nước và nhiệm vụ
kinh tế xã hội của nhà nước, vì thế chi NSNN chịu ảnh hưởng rất lớn từ
nhân tố chế độ xã hội.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất: vừa tạo ra khả năng và điều kiện cho
việc hình thành nội dung ,cơ cấu chi một cách hợp lý,vừa đặt ra yêu cầu thay

đổi nội dung cơ, cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.
+ Khả năng tích lũy của nền kinh tế : nhân tố này càng lớn thì khả năng chi
đầu tư phát triển kinh tế càng lớn.
+ Mô hình tổ chức bộ máy nhà nước,và những nhiệm vụ kinh tế, xã hội mà
nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ.


Câu 2:
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN NHÀ NƯỚC
Khái niệm
Phân cấp quản lý nhà nước là giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền nhà
nước trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề
của hoạt động NSNN
Các yêu cầu trong phân cấp quản lý NSNN :
– Đảm bảo tính thống nhất của NSNN: phân cấp quản lý để phát huy quyền
dân chủ, tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền trong khai thác
bồi dưỡng huy động nguồn thu; tính toán chặt chẽ ,sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả các khoản chi NSNN không phải là sự cắt khúc NSNN. Mọi cấp
chính quyền đều phải chấp hành thống nhất theo luật định.
– Phân cấp quản lý NSNN phải phù hợp với phân cấp các lĩnh vực khác
của nhà nước: để tạo ra sự đồng bộ trong thực hiện và quản lý các ngành ,
lĩnh vực của nhà nước,
– Nội dung của phân cấp quản lý nhà nước phải phù hợp với hiến pháp và
luật pháp quy định chức năng , nhiệm vụ , quyền hạn và trách nhiệm của
các cấp chính quyền , đảm bảo mỗi cấp ngân sách có các nguồn thu các
khoản chi , quyền và trách nhiệm về ngân sách tương xứng nhau .
Chế độ phân cấp quản lý NSNN theo luật được thực hiện theo nguyên
tắc:
– Nguồn thu và nhiệm vụ chi cho mỗi cấp chính quyền được ổn định theo
luật .

– Xác đỉnh rõ các mối quan hệ giữa ngân sách cấptrên và ngân sách cấp
dưới ,quan hệ giữa trung ương và địa phương .
– Quy định rõ trách nhiệm quyền hạn của các cơ quan chính quyền nhà
nước trong lĩnh vực NSNN .
– Ổn định tỷ lệ điều tiết và bổ sung từ 3 đến 5 năm.
Nội dung phân cấp quản lý NSNN:
– Giải quyết các mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong
việc ban hành chính sách ,chế độ thu chi , chế độ quản lý NSNN : qua đó
xác định rõ quyền hạn ban hành các chính sách , chế độ ,tiêu chuẩn định


mức , phạm vi mức độ , quyền hạn của mỗi cấp trong ban hành các chính
sách ,chế độ NSNN
– Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ chi ,
nguồn thu và cân đối NSNN : cần xác định rõ nhiệm vụ kinh tế , chính
trị của mỗi cấp chính quyền ,khả năng tạo ra nguồn thu trên từng địa bàn
mà chính quyền đó quản lý ,đồng thời nghiên cứu, sử dụng các biện pháp
điều hòa thích hợp .
– Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách : ch
trình ngân sách là quá trình lập chấp hành và quyết toán ngân sách ; cần xác
định trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc lập ,chấp
hành và quyết toán ngân sách ,mức vay nợ trong dân các khoản phụ thu bổ
sung cho ngân sách cấp dưới ,thời hạn lập xét duyệt, báo cáo NSNN ra hội
đồng nhân dân và gửi lên cấp trên sao cho vừa nang cao trách nhiệm của
chính quyền trung ương vừa phát huy tính năng động sáng tạo của chính
quyền cơ sở .
Nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN
– Phân cấp quản lý NSNN phải được tiến hành đồng bộ với phân câp quản lý
kinh tế và tổ chức bộ máy hành chính.→giải quyết mối quan hệ vật chất giữa
các cấp chính quyền

– Đảm bảo thể hiện vai trò chủ đạo của NSTW và vị trí độc lập của NSĐP
trong hệ thống NSNN thống nhất.
+ NSTW trên thực tế là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận
nguồn thu của quốc gia và thực hiện các khoản chi chủ yếu của quốc
gia.
+ Vị trí độc lập của NSĐP được thể hiện: các cấp chính quyền có quyền
lập,chấp hành và quyết toán ngân sách của mình trên cơ sở chính
sách,chế độ ban hành . Mặt khác các cấp chính quyền phải chủ
động,sáng tạotrong việc động viên khai thác các thế mạnh của địa
phương để tăng nguồn thu, bảo đảm thu, chi thực hiện cân đối ngân
sách.
– Đảm bảo công bằng trong phân cấp quản lý ngân sách
Ví dụ Phân định nguồn thu giữa NSTƯ và ngân sách tỉnh.


Ngân sách trung ương

Ngân sách địa phương

1.thuế GTGT hàng nhập
1.tiền cho thuê đất2.tiền cho
khẩu2.thuế xuất, nhập
thuê và bán nhà thuộc sở hữu
khẩu3.thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ
Nhà nước3.lệ phí trước bạ4.thu
một số mặt hàng, dịch vụ)4.thuế
từ hoạt động xổ số kiến
thu nhập doanh nghiệp của đơn
thiết5.viên trợ không hoàn lai
vị hạch toán toàn nghành5.thu từ

của nước ngoài trực tiếp cho địa
Các khoản dầu khí6.thu nhập từ vốn góp
phương6.các khoản phí, lệ phí
thu 100% của nhà nước, tiền thu hồi vốn
theo quy định7.các khoản đóng
của nhà nước từ các cơ sở kinh
góp tự nguỵện của cá nhân, tổ
tế7.các khoản do Chính phủ vay,
chức trong và ngoài nước8.thu
viện trợ không hoàn lại của
kết dư NSĐP9.thu bổ sung từ
Chính phủ các nước8.các khoản
NSTƯ10.các khoản thu khác
phí, lệ phí theo quy định9.thu kết
theo quy định.
dư NSTƯ10.các khoản thu khác.
1.thuế GTGT (trừ thuế GTGT
Các khoản hàng nhập khẩu và hoạt động sổ
thu phân
xố kiến thiết)2.thuế thu nhập
chia theo tỷ doanh nghiệp (trừ các đơn vị
lệ phần
hạch toán toàn ngành và hoạt
trăm giữa động xổ số kiến thiết)3.thuế thu
NSTƯ và
nhập đối với người có thu nhập
ngân sách cao4.thuế chuyển thu nhập ra
tỉnh.
nước ngoài5.thu từ sử dụng vốn
ngân sách của các DNNN.

1.thuế chuyển quyền sử dụng
đất2.thuế nhà đất3.thuế sử dụng
Các khoản
đất nông nghiệp4.thuế tài
thu phân
nguyên5.thuế tiêu thụ đặc biệt
chia giữa
với hàng sản xuát trng nước thu
tỉnh,
vào vàng mã, kinh doanh vũ
huyện, xã
trường, mát xa,…tỷ lệ phân chia
do UBND tỉnh quy định.
Ví dụ : phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh.
Lĩnh vực

Ngân sách trung ương

Ngân sách tỉnh


NSTƯ đảm nhận các công
1.Chi xây dựng cơ bản- trình hạ tầng cơ sở không
Các công trình kinh tế có khả năng thu hồi vốn
then chốt quan trọng.- do trung ương quản
Các công trình hạ tầng lý.Các xí nghiệp trong và
cơ sở2.Chi vốn lưu
ngoài nước do trung ương
động.3.Chi trả nợ (trong quản lý.Hầu hết NSTƯ
và ngoài nước).4.Chi dự đảm nhận chi trả nợ nước

trữ Nhà nước.
ngaòi.Hầu hêt NSTƯ đảm
nhiệm.
1.C hi quản lý Nhà
nước.2.Chi sự nghiệp
kinh tếnông nghiệp,
thuỷ lợiLâm nghiệpGiao
thôngKiến thiết thị
chính.3.Chi sự nghiệp
giáo dục phổ thôngChi
hoạt động thường xuyên
giáo dụcChi chương
trình mục tiêu4.Chi sự
nghiệp đào tạoCác
trường đại học.Các
trường trung học5.Chi y
tế6.Chi nghiên cứu khoa
học7.Chi văn hoá thông
tin8.Chi thể dục, thể
thao9.Chi quốc phòng,
an ninh10.Chi hỗ trợ
Đảng, đoàn, hội11.Chi
trợ cấp ngân sách
xã12.Chi khác

NSĐP đảm nhận các công
trình hạ tầng cơ sở do địa
phương quản lý.Các xí
nghiệp do địa phương
quản lý.Trả nợ trong

nước, địa phương đảm
nhận phần huy động xây
dựng cơ sở hạ tầng.

Toàn bộ bộ máy quản lý
Nhà nước của trung
Toàn bộ bộ máy Nhà
ươngDuy trì bảo vệ đê
nước của địa phươngBảo
điều trung ươngDuy tu, tu vệ đê điều, hỗ trợ làm
bổ các đường giao thông, thuỷ lợi, thuỷ nôngSửa
các công trình kiến thiết chữa các đường giao
do trung ương quản
thông địa phươngChi toàn
lý.Một số công trình quan bộ các trường tự tiểu học
trọng như xoá mù chữ,
trở lên, kể cả mẫu
giáo dục miền núi…Các giáo.Các trường trung
trường đại học đa
học, dạy nghềCơ sở chữa
ngànhMột số trường
và khám bệnh do địa
PTTH khu vựcCác cơ sở y phương quản lýNghiên
tế chữa bệnh trung
cứu ứng dụng Các sự
ươngNghiên cứu khoa học nghiệp văn hoá quần
cơ bảnCác sự nghiệp văn chúng do địa phương
hoá quần chúng do trung quản lýDân quân du kích
ương quản lýToàn bộ hoạt và tuyển quânCác tổ chức
động chính quyCác tổ

thuộc địa phươngTuỳ
chức thuộc trung
thuộc vào phân bổ của
ươngTuỳ thuộc khả năng NSTƯ
của NSTƯ

CHU TRÌNH QUẢN LÝ NSNN:
Năm ngân sách và chu trình NSNN


-Thời điểm bắt đầu năm ngân sách ở nước ta là từ ngày mồng 1 tháng 1 và kết thúc
là 31 tháng 12 hàng năm;ở các nước mốc tính năm ngân sách là khoonh giống nhau
-Dự toán ngân sách gắn với năm ngân sách ,khi năm ngân sách này kết thúc thì lại
bắt đầu năm ngân sách mới nên hoạt động ngân sách có tính chu kỳ, hình thành
nên chu kỳ ngân sách liên tục.
-chu trình NSNN có 3 khâu nối tiếp nhau là :
+lập ngân sách được thực hiện trước khi năm ngân sách bắt đầu(ở nước ta thời gian
lập dự toán ở cơ sở là từ tháng 6,bộ tài chính tổng hợp và trình chính phủ trong
tháng 10,quốc hội quyết định dự toán ngân sách trước ngày 15/11 năm trước)
+ chấp hành ngân sách trùng với năm ngân sách
+quyết toán ngân sách : sau khi năm ngân sách kết thúc phải đánh giá tình hình
chấp hành ngân sách được gọi là khâu quyết toán ngân sách .

-Trong một chu trình ngân sách có đồng thời cả ba khâu đó :chấp nhận ngân sách
của chu trình hiện tại,quyết toán ngân sách của chu trình trước và lập ngân sách
của chu trình sau
Nội dung của chu trình quản lý NSNN
*Lập ngân sách nhà nước : là công việc khởi đầu và có ý nghĩa quyết định đến toàn
bộ các khâu của chu trình
– Hình thành ngân sách bao gồm các công việc : lập ngân sách , phê chuẩn

ngân sách và thông báo ngân sách
– Thực chất đây là việc dự toán các khoản thu chi của ngân sách trong một
năm ngân sách
– Yêu cầu khi lập NSNN
+ Bảo đảm việc xây dựng dự toán thu chi ngân sách nhà nước dựa
trên hệ thống chế độ ,chính sách và tiêu chuẩn định mức đúng đắn
phù hợp với thực tiễn kinh tế xã hội đang vận động.
+ Đảm bảo thu chi ngân sách tiến hành đúng trình tự và thời gian quy
định .


+ Đảm bảo mối quan hệ đúng đắn giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch
giá trị thông qua việc thiết lập dự toán thu chi của ngân sách nhà
nước trogng bối cảnh cung cầu giá cả có sự biến động.
– Căn cứ lập NSNN
+ Phải dựa vào phương hướng, chủ trương nhiệm vụ phát triển kinh tế
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng của đảng và nhà nước lập ra.
+ Phải dựa vào chỉ tiêu của của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của
nhà nước trong niên độ để lập.
+ Phải dựa vào hệ thống chính sách ,chế độ, tiêu chuẩn định mức thu
chi của NSNN để lập dự toán NSNN.
+ Phải căn cứ vào kết quả phân tích việc thực hiện dự toán ngân sách
trong thời gian qua để bổ sung những kinh nghiệm cần thiết cho
việc lập dự toán kỳ kế hoạch.
– Phương pháp và trình tự lập
Ở cấp tổng hợp:

Ở cấp cơ sở làm nghĩa vụ đối với NSNN:



Lập ngân sách là công việc quan trọng ,xong việc hình thành ngân sách còn
phải tực hiện xét duyệt ,phê chuẩn và thông báo ngân sách .Quá trinh đó được thực
hiện theo trình tự sau:


*Chấp hành ngân sách nhà nước :sau khi ngân sách được phê chuẩn và năm ngân
sách bắt đầu,việc thực hiện ngân sách ngân sách được triển khai.
với nội dung là tổ chức thu ngân sách nhà nước và bố trí cấp kinh phí của NSNN
cho các nhu cầu đã được phê chuẩn.
-Tổ chức chấp hành dự toán thu: để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước đã được
hoạch định vói các biện pháp cụ thể :
+ Xác lập hoàn thện hệ thống chính sách, chế độ động viên thích hợp ,vừa đảm
bảo khuyến khích sản xuất kinh doanh ,vừa đảm bảo mức động viên của nhà
nước.
+ Tăng cường tuyên truyền chính sách , chế độ thu chi dể mọi thành viên thấy
rõ trách nhiệm của mình.
+ Kiện toàn bộ máy thu theo nguyên tắc thống nhất, nâng cao hiệu lực ,đảm
bảo gọn nhẹ ,hiệu quả cao.
+ Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ của quản lý thu; xử lý
mối quan hệ của các cơ quan chức năng liên quan đến công tác thu nộp
NSNN.
-tổ chức chấp hành dự toán thu chi :để đảm bảo đầy đủ kịp thời nguồn kinh phí của
nhà nước cho các hoạt động trong kế hoạch sao cho tiết kiệm và hiệ quả ;với yêu
cầu sau:
+ Thực hiện cấp phát kinh phí trên cơ sở hệ thống các định mức , tiêu chuẩn
+ Đảm bảo cấp phát kinh phí theo kế hoạch đã được phê duyệt.
+ Đảm bảo thực hiện nguyên tắc trực tiếp, nghĩa là mọi khoản kinh phí chi trả
từ ngân sách phải do kho bạc trực tiếp thanh toán /
+ Đổi mới phương thức cấp phát của ngân sách nhà nước theo hướng nhanh
gọn, dễ kiểm tra

-Xây dựng dự toán thu-chi quý tháng : thực chất là kế hoạch tiến độ thực hiện
nhiệm vụ của dự toán thu chi năm, từ đó đánh giá được khả năng hoàn thành dự
toán ngân sách nhà nước, những mặt yếu kém ,để tìm cách khắc phục.
*Quyết toán ngân sách nhà nước :để thấy được kết quả toàn diện về hoạt động kinh
tế -xã hội,hoạt động ngân sách của nhà nước từ đó rút ra kinh nghiệm cần thiết
trong điều hành ngân sách nhà nước;với yêu cầu chính xác trung thực kịp thời


+ Xét lại toàn bộ chế độ hiện hành về kế toán và quyết toán ngân sách
+ Đổi mới quá trình lập, báo cáo ,phê chuẩn quyết toán và tổng quyết ngân
sách nhà nước;thực hiện quyết toán từ cơ sở ;gắn chặt cơ quan chi,cơ quan
cấp phát ,cơ quan quản lý trong quá trình.
+ Nâng cao vai trò của quốc hội trong xem xét phê chuẩn quyết toán và tổng
quyết toán ngân sách nhà nước.
Câu 3:
Hoán chuyển rủi ro
Sử dụng phương pháp này, hậu quả tài chính của rủi ro xảy ra cho cá nhân hay
tổ chức được chuyển giao cho các cá nhân hoặc tổ chức khác cùng gánh chịu. Một
số hình thức hoán chuyển rủi ro có thể kể đến như sau:
+ Hoán chuyển rủi ro một chiều. Ví dụ: trong việc mua bán sản phẩm nông
nghiệp còn non với điều kiện giao hàng trong tương lai, trong trường hợp này rủi
ro tăng và giảm giá được chuyển từ người sản xuất (người bán nông sản non) sang
người mua non hàng hoá…
+ Hoán chuyển rủi ro theo nguyên tắc tương hỗ, số lớn bù số ít. Với phương
pháp này, rủi ro xảy ra cho một số ít thành viên trong một cộng đồng thì hậu quả
tài chính sẽ được chia nhỏ và chuyển cho số lớn thành viên cộng đồng cùng gánh
chịu. Chuyển giao rủi ro trên cơ sở phân tán, tương hỗ số lớn bù số ít đã được vận
dụng trong nhiều hoạt động, tổ chức mà điển hình là cứu trợ và bảo hiểm.
* Cứu trợ bao gồm các biện pháp liên quan đến khắc phục hậu quả rủi ro có
cơ sở cho việc thực thi là lòng từ thiện nhân đạo của con người, các hình thức

quyên góp ủng hộ, cứu tế…vẫn được tiến hành thường xuyên và mang ý nghĩa xã
hội rất lớn.
* Bảo hiểm là hình thức chuyển giao rủi ro được thực hiện bởi các tổ chức
chuyên nghiệp hoá việc chuyển giao rủi ro. Ở Việt Nam hiện nay, các tổ chức đó
chính là hệ thống Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và
các tổ chức kinh doanh bảo hiểm.

-Các phương pháp rui ro:


+ Tránh rủi ro: là không làm một việc gì đó quá mạo hiểm ,không chắc chắn
Ưu điểm là sẽ tránh được các rủi ro không mong muốn
Nhược điểm:làm cho người ta lúc nào cũng sợ sệt không giám làm việc gì và
kết quả là không thu được kết quả tốt.
+ Ngăn ngừa hạn chế rủi ro: các công ty ,cá nhân dùng những biện pháp để đề
phòng, ngăn ngừa ,hạn chế rủi ro và hậu quả của nó vd: biện pháp an toàn
lao động , hệ thống chống trộm...
Nhược điểm không ngăn ngừa được hết các rủi ro...
+ Tự khắc phục rủi ro: các cá nhân ,công ty dự trữ một khoản tiền nhất định
để khi có rủi ro xảy ra thì dùng khoản tiền đó để bù đắp ,khắc phục hậu
quả(tự bảo hiểm)
Nhược điểm :
• Không phải tổ chức hay cá nhân nào cũng có sẵn tiền để dự trữ
• Tiền dự trữ này không đủ để bù đắp cho những tổn thất lớn xảy ra
• Sẽ gây đọng vốn lớn trong xã hội nếu tổ chức ,cá nhân nào cũng dự
trữ như vậy.
+ Chuyển giao (hoán chuyển) rủi ro:một công ty hay một cá nhân khi tự nhận
thấy mình không thể tự chịu đựng được một hay nhiều rủi ro lớn có tính chất
thảm họa thì phải tìm cách san sẻ bằng cách chuyển nhượng rủi ro cho các
công ty khác ,khi chấp nhận rủi ro thì các công ty khác đó phải bồi thường

thiệt hại do rủi ro đã thỏa thuận gây lên, còn người chuyển nhượng rủi ro
phải trả một khoản tiền . Đây được gọi là biện pháp bảo hiểm .
Ưu điểm :
• Phạm vi bù đắp rộng lớn
• Có thể bù đắp được những rủi ro có tính chất thảm họa
• Không gây đọng vốn trong xã hội
Nhược điểm: người chuyển giao rủi ro không được hoàn trả lại phần phí đã
đóng khi không xảy ra rủi ro
Nhưng cơ bản đây là biện pháp phát triển mạnh mẽ nhất cho đến nay.
Câu 4:


Vai trò trong kinh tế xã hội của bảo hiểm
Tác dụng của bảo hiểm thể hiện rõ trên nhiều phương diện. Ngoài việc giúp bù đắp
thiệt hại, khắc phục tổn thất, bảo hiểm còn sử dụng hiệu quả những khoản tiền
nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đầu tư vào những lĩnh vực khác. Cũng nhờ
bảo hiểm mà ngân sách nhà nước hàng năm có nguồn đóng góp không nhỏ, mọi
người có được tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống, công tác đề phòng
và hạn chế tổn thất được tăng cường…
*Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất
Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất là tác dụng chủ yếu của bảo hiểm và
cũng xuất phát chính từ nhu cầu này mà bảo hiểm đã ra đời. Nói đến bảo
hiểm là nói đến khả năng bồi thường khi có tổn thất xảy ra, và vai trò của
các công ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục
khả năng vật chất, tài chính như trước khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi thường cho
người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm con người. Khi có tổn thất xảy
đến với đối tượng được bảo hiểm thì nhiệm vụ cơ bản của bảo hiểm là khắc
phục những hậu quả đó, ổn định đời sống và quá trình sản xuất – kinh
doanh.
Việc mua bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức cho phép họ chuyển rủi ro sang

các công ty bảo hiểm. Các cá nhân khắc phục được khó khăn về tài chính, dễ
dàng ổn định cuộc sống hơn, các tổ chức kinh doanh bảo toàn vốn, tài sản,
giữ cho chu kỳ sản xuất – kinh doanh không bị gián đoạn dẫn đến phá sản
khi gặp thiệt hại quá nặng nề. Chi phí bồi thường của các công ty bảo hiểm
thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng chi phí hoạt động kinh doanh, khoảng
60 – 80%. Thậm chí, chi phí bồi thường còn có thể lớn hơn, nhất là với
những rủi ro do thiên tai có sức tàn phá lớn trên diện rộng. ở Mỹ, từ năm
1949 đến năm 1994, trung bình mỗi năm có tới 25 vụ thảm họa thiên nhiên,
gây tổn thất 1,6 tỉ USD/năm (theo thời giá năm 1983), trong đó, lớn nhất là
cơn bão Adrew và trận động đất Northridge đều có 15,5 tỉ USD tài sản được
bảo hiểm. Trong vụ nổ máy bay Concorde, các công ty bảo hiểm đã phải bồi
thường một số tiền là khoảng 350 triệu USD, trong đó khoảng 260 triệu
USD là để bồi thường cho gia đình các hành khách và phi hành đoàn bị thiệt
mạng và 30 triệu USD bảo hiểm máy bay. (Nguồn: Báo Doanh nghiệp số
8/2000)


Nguồn: , 30/10/2003
* Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Bên cạnh khả năng giải quyết các hậu quả của rủi ro, bảo hiểm còn góp
phần thực hiện một nội dung trong các biện pháp kiểm soát rủi ro. Đó là đề
phòng và hạn chế tới mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Nhờ đó,
những thiệt hại đáng tiếc về người và tài sản được giảm thiểu và những hậu
quả về kinh tế – xã hội cũng được chủ động phòng tránh. Dựa trên cơ sở các
rủi ro xảy ra hàng năm, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm tiến hành nghiên
cứu các rủi ro, thống kê các tai nạn, tổn thất, từ đó xác định các nguyên nhân
chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại. Những nghiên cứu này giúp các
công ty bảo hiểm có thể đề ra được các biện pháp kiểm soát ngăn ngừa rủi ro
hữu hiệu nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra.
Việc các công ty bảo hiểm tích cực thực hiện các biện pháp phòng tránh rủi

ro không chỉ để giảm bớt chi phí bồi thường nhằm nâng cao lợi nhuận cho
mình, mà quan trọng hơn, nó góp phần giảm bớt những hậu quả đáng tiếc về
vật chất cũng như tinh thần khi xảy ra tổn thất. Khi xây dựng các qui tắc,
điều khoản, biểu phí… cũng như trong quá trình triển khai nghiệp vụ, kể từ
khi đánh giá rủi ro, ký kết hợp đồng, quản lý hợp đồng cho đến lúc giám
định tổn thất, giải quyết bồi thường, các tổ chức bảo hiểm luôn chú ý đến
việc tăng cường áp dụng các biện pháp phòng tránh cần thiết. Việc đó không
chỉ nhằm bảo vệ đối tượng bảo hiểm mà còn góp phần bảo đảm an toàn cho
tính mạng, sức khoẻ con người, của cải vật chất của toàn xã hội.
Các công ty bảo hiểm cũng luôn đôn đốc các cá nhân, tổ chức tham gia mua
bảo hiểm tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản của chính mình. Đồng
thời, họ cũng tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp nhân dân chấp hành
nghiêm chỉnh luật lệ an toàn giao thông, an toàn lao động… Do bảo hiểm


không có nghĩa là đổ hết trách nhiệm cho người bảo hiểm nên ở các cơ quan,
xí nghiệp thường có các qui tắc, qui định cho an toàn lao động, các qui định
về phòng cháy chữa cháy, các thiết bị chống trộm, báo cháy…
*Sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đầu tư
vào những lĩnh vực khác
Trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh, người ta luôn phải tính đến
những rủi ro có thể gặp phải, và luôn muốn chủ động trong các tình huống
xấu nhất. Việc tự khắc phục rủi ro đòi hỏi các cá nhân, tổ chức phải bỏ ra
một khoản tiền lớn lập quỹ dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng các quỹ dự
phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có khả năng sinh lợi lớn nếu đem đầu
tư. Do vậy, người ta có thể đóng cho các công ty bảo hiểm một khoản nhỏ
hơn thay vì bỏ một khoản tiền lớn lập quỹ, và có thể dùng tiền đó nâng cao
đời sống hoặc đầu tư kinh doanh. Bảo hiểm đã trở thành lựa chọn tối ưu
trong môi trường đầy rủi ro hiện nay, đảm bảo mức độ an toàn tương đối về
khả năng tài chính khi xảy ra rủi ro mà vẫn không gây đọng vốn.

Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế
thị trường. Một nền kinh tế muốn tăng trưởng thì phải có một thị trường vốn
phát triển lành mạnh, các kênh thu hút vốn đa dạng để có thể đáp ứng tối đa
nhu cầu về vốn. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, muốn tăng tốc
nền kinh tế thì tỉ lệ tích lũy vốn trong nước thường phải chiếm khoảng 30%
GDP. Ngày nay, các công ty bảo hiểm là một kênh huy động vốn không thể
thiếu của nền kinh tế và đang ngày càng được khai thác một cách hiệu quả,
do phạm vi hoạt động rộng, các loại hình bảo hiểm phong phú. Thông qua
các hợp đồng bảo hiểm, các công ty bảo hiểm đã tập trung lượng tiền phân
tán rải rác thành những quĩ tiền tệ khá lớn. Quĩ bảo hiểm đã trở thành một
định chế tài chính trung gian quan trọng trên thị trường vốn. Đặc biệt, thông
qua loại hình bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm đã khuyến khích các tầng lớp
nhân dân tăng cường tiết kiệm và qua đó đã thu hút được một khối lượng lớn
vốn nhàn rỗi để đầu tư. Tổng giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm của
Pháp năm 1998 lên đến 4.267,5 tỷ FFR, chiếm trên 20% tổng giá trị đầu tư
trong nước. ở Đài Loan năm 1995, riêng các công ty bảo hiểm nhân thọ đã
đầu tư vào nền kinh tế 39 tỷ USD, chiếm 15% tổng thu nhập quốc dân.
Trong các tổ chức tài chính trung gian, các công ty bảo hiểm nhân thọ có
tổng giá trị tài sản lên tới hàng nghìn tỷ USD, chỉ đứng sau các ngân hàng
thương mại. ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển, nhìn chung,
các công ty bảo hiểm là những chủ thể tham gia tích cực vào hoạt động đầu
tư trên thị trường tài chính. (Nguồn: Tạp chí Tài chính số 2/2001).
*Tăng thu cho ngân sách nhà nước
Qua quá trình phát triển lâu dài, bảo hiểm tự thân nó đã trở thành một ngành
kinh doanh độc lập, có hạch toán thu chi, lỗ lãi rõ ràng. Vì vậy, các công ty


bảo hiểm phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước như mọi doanh
nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế. Hàng năm, thông qua việc nộp
thuế, bảo hiểm đã đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách Nhà nước.

Bên cạnh đó, bảo hiểm cũng góp phần tiết kiệm cho ngân sách thông qua
việc thực hiện tốt khâu phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giúp bảo vệ tối đa tài
sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại đáng tiếc. Điều này
giúp Nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp cho những tổn
thất như phải xây dựng lại đường xá, cầu cống, nhà xưởng, công trình…
Ngoài ra, một thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút
các cá nhân và tổ chức mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước,
góp phần tiết kiệm một lượng ngoại tệ lớn cho ngân sách Nhà nước.
*Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống
Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng
cao thì người ta càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi
trường kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi
ro mới. Những rủi ro do thiên nhiên như bão lũ, hạn hán, sóng thần, cháy rừng
tự nhiên… đang trở nên hết sức phức tạp, khó dự đoán do môi trường thế giới
đang thay đổi theo chiều hướng xấu. Chiến tranh, xung đột, khủng bố, đình
công… không những không giảm bớt mà lại ngày càng diễn biến phức tạp ở
nhiều nơi trên thế giới. Trong tình hình như vậy, bảo hiểm chính là một giải
pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong
cuộc sống
Câu 5:
Điều 8. Bảohiểm bắt buộc.
1.Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện bảohiểm,
mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham giabảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện.
Bảohiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ
lợiích công cộng và an toàn xã hội.
2.Bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
a)Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự
củangười vận chuyển hàng không đối với hành khách;
b)Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật;

c)Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm;
d)Bảo hiểm cháy, nổ.
3.Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Chính phủ trình
Uỷban Thường vụ Quốc hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác.


Một số nghiệp vụ bảo hiểm được quy định là bắt buộc vì:
Đối tượng phải mua bảo hiểm làm việc với các hoạt động nguy hiểm có thể dẫn
đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự
thường là đối tượng của sự bắt buộc này .Nghĩa là bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng
đối với một số loại bảo hiểm nhất định nhằm bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn
xã hội.
Câu 6:
Các loại bảo hiểm phi lợi nhuận gồm ba loại: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm phi lợi nhuận được thực hiện bởi các cơ quan nhà
nước như cơ quan bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế quốc gia trực thuộc cơ
quan bảo hiểm xã hội, tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, không nhằm mục
đích kinh doanh thu lợi nhuận mà là chính sách của nhà nước nhằm đảm bảo các
chế độ phúc lợi xã hội và đảm bảo ổn định tình hình kinh tế chính trị của quốc
gia. Bảo hiểm phi lợi nhuận đảm bảo rủi ro về con người và các khoản tiền gửi tại
các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Bảo hiểm phi lợi nhuận có mức phí và mức
bồi thường chi trả theo luật định không phải trên sự thoả thuận của người bảo
hiểm và người được bảo hiểm như đối với bảo hiểm thương mại.
→loaị bảo hiểm này chỉ bảo hiểm trên một phương diện nào đó như : đảm
bảo rủi ro về con người và các khoản tiền gửi tại các ngân hàng, các tổ chức tín
dụng, trên thực tế thì rủi ro lại xảy ra trên mọi lĩnh vực
Bảo hiểm thương mại được thực hiện bởi các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm
mục đích cung cấp cho xã hội một loại hàng hoá, dịch vụ “an toàn”, trên cơ sở đó
nhà bảo hiểm tìm kiếm một khoản lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm. Bảo hiểm
thương mại không chỉ đảm bảo cho các rủi ro về con người hay những khoản tiền

gửi tại ngân hàng, các tổ chức tín dụng mà còn đảm bảo cả và rủi ro về tài sản
(nhà cửa, hàng hoá, phương tiện sản xuất kinh doanh…) và trách nhiệm (trách
nhiệm chủ tàu biển, trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm công cộng, trách
nhiệm sản phẩm…). Bảo hiểm thương mại có mức phí, mức bồi thường chi trả
phụ thuộc vào thoả thuận theo nhu cầu và khả năng của bên mua bảo hiểm (trừ
một số loại bảo hiểm bắt buộc theo luật kinh doanh bảo hiểm quy định).


→loai hình bảo hiểm này có phạm vi bảo hiểm rộng và đa dạng hơn đáp ứng
được nhu cầu bảo hiểm của mọi người trong xã hội và trên các lĩnh vực.Tuy
nhiên người tham gia bảo hiểm lại phải mất một khoản phí.

Câu 7: sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Việt Nam, vào thời kỳ Bắc thuộc và từ thế kỷ XIX trở về trước, là một nước nông
nghiệp lạc hậu nên chưa hề có khái niệm về ngân hàng. Sự đô hộ hàng ngàn
năm của phong kiến phương Bắc đã làm cho nước ta hầu như không có sự
tiếp xúc với bên ngoài, thương mại ít phát triển cả trong và ngoài nước. Do
đó, nghề kinh doanh tiền tệ cũng kém phát triển, mang nặng tính phân tán,
chủ yếu là hoạt động đổi tiền và cho vay nặng lãi.
Khoảng giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Việt Nam trở thành
thuộc địa và từ đó, các thương giá người Pháp bắt đầu chiếm lĩnh thị trường Việt
Nam (các nhà máy đường, nhà máy sợi, nhà máy dệt,…). Trong bối cảnh ngày
càng phát triển thị trường, trên lãnh thổ Việt Nam lần đầu tiên xuất hiện hệ thống
ngân hàng hiện đại, gồm có ngân hàng Đông Dương với tư cách là ngân hàng phát
hành và một số ngân hàng thương mại của người nước ngoài và của người Việt
Nam như ngân hàng Pháp – Hoa, ngân hàng Hồng Kông – Thượng Hải, Địa ốc
ngân hàng,… để hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh thương mại.
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng bắt đầu được xây dựng từng

bước. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ đây có thể chia làm
hai thời kỳ.
Từ năm 1951 đến năm 1987, chúng ta có hệ thống ngân hàng một cấp. Lúc này, hệ
thống ngân hàng Nhà nước Việt Nam mà tiền thân là ngân hàng quốc gia Việt Nam
được thành lập vào năm 1951 – giai đoạn cuói của cuộc chiến tranh chống Pháp và
trong điều kiện nền kinh tế tiểu nông lạc hậu. Chức năng chủ yếu của ngân hàng
quốc gia Việt Nam là: phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hiện chính
sách tín dụng và quản lý tiền tệ. Chức năng này được thực hiện thông qua một mô
hình tổ chức gọn, nhẹ, phù hợp với điều kiện thời chiến gồm 3 cấp quản lý: trung
ương, liên khu, tỉnh và thành phố.


Sau thời gian này, do sự thay đổi của nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, hệ
thống ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được mở rộng và hoàn thiện về cơ chế tổ
chức và hoạt động nghiệp vụ. Tuy nhiên cho đến năm 1987, hoạt động của ngân
hàng Việt Nam vẫn mang tính chất lưỡng tính. Nó vừa thực hiện chức năng quản
lý và điều tiết lưu thông tiền tệ, vừa thực hiện chức năng của các ngân hàng trung
gian và được tổ chức thống nhất từ trung ương xuống cơ cở. Mặc dù đã góp phần
không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước song ngân hàng Nhà
nước Việt Nam cũng đã bộc lộ những hạn chế của nó, đặc biệt trong thập kỷ 80,
vừa không thể kinh doanh theo đúng nghĩa đồng thời lại không làm tròn chức năng
quản lý Nhà nước các hoạt động tiền tệ ngân hàng, nó đã làm cho nền kinh tế Việt
Nam trong những năm 80 rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, vừa thiếu tiền
mặt, vừa lạm phát.
Vì thế, cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, từ cơ chế quản lý hành
chính và trực tiếp sang việc sử dụng các biện pháp kinh tế theo cơ chế thị trường,
từ năm 1988 đến nay, hệ thống ngân hàng đã được cải cách từng bước. Hệ thống
ngân hàng hai cấp ra đời.
Bước sơ khai của hệ thống ngân hàng 2 cấp được thể hiện trong Nghị định 53 ngày
26-3-1988. Theo đó hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm: ngân hàng Nhà nước

và các ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng Nhà nước hoạt động với tư cách là
ngân hàng độc quyền phát hành, là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng
và là cơ quan quản lý dự trữngoại hối Nhà nước. Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước
tháng 5-1990 thực sự đánh dấu bước đổi mới căn bản trong hoạt động của hệ thống
ngân hàng Việt Nam và khẳng định lại sự đúng đắn của việc cải cách ngân hàng
trong Nghị định 53. Các ngân hàng thương mại, ngân hàng chuyên doanh, công ty
tài chính,… thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ – tín dụng. Đặc biệt các ngân
hàng thương mại phát triển mạnh và đa dạng. Chúng có vai trò là người môi giới
trung gian nhằm tập trung tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay các doanh
nghiệp và dân chúng.
Với một hệ thống gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương
mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hoàn toàn có
thể khẳng định rằng, cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung bao
cấp sang kinh doanh thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi
mới ngân hàng nói chung và sự tồn tại, phát triển của hệ thống ngân hàng thương
mại nói riêng đã thành công ở Việt Nam. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã thực sự làm đổi
mới hệ thống ngân hàng thương mại phù hợp với tình hình ngày càng phát triển về
kinh tế của đất nước.


×