Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Đồ án tốt nghiệp tìm kiếm thăm dò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.73 KB, 52 trang )

Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

MỞ ĐẦU
Sau khi hoàn thành chương chình lý thuyết trên giảng đường và được sự đồng
ý của bộ môn Tìm kiếm – Thăm dò và Khoa Địa chất, trường Đại học Mỏ – Địa
chất về việc cho phép sinh viên đi thực tập tốt nghiệp, tôi được nhà trường phân
công đi thực tập tốt nghiệp tại Công ty Than Quang Hanh thời gian từ ngày
24/02/2016 đến ngày 04/04/2016.
Trong thời gian thực tập và thu thập tài liệu đã giúp tôi nắm được những nội
dung cơ bản của công tác điều tra địa chất và các phương pháp Tìm Kiếm – Thăm
dò… Biết vận dụng kiến thức đã được học ở nhà trường để áp dụng vào thực tế ở cơ
sở sản xuất.
Trên cơ sở tài liệu thu thập được tại Công ty Than Quang Hanh – Tập Đoàn
công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam. Bộ môn Tìm kiếm – Thăm dò đã giao cho
tôi đồ án tốt nghiệp với đề tài: “Cấu trúc địa chất vùng Cẩm Phả, Quảng Ninh.
Thiết kế phương án thăm dò bổ sung đến mức -500m mỏ than Ngã Hai”.
Mục đích của đề tài là các định chính xác cấu trúc địa chất mỏ, chính xác hóa
chất lượng và trữ lượng than, điều kiện phân bố không gian của các vỉa, điều kiện
khai thác mỏ phục vụ kế hoạch khai thác ổn định, lâu dài.
Để thực hiện được mục đích trên cần giải quyết được các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ cấu trúc địa chất khu vực và cấu trúc địa chất của
các vỉa than.
- Nghiên cứ tính chất cơ lý của than và đã vây quanh đặc điểm phân bố của
khí metan và các chất khí dộc hại, cháy nổ khác, cùng với điều kiện khai thác
mỏ ở các khu vực cụ thể.
- Nâng cấp trữ lượng để phục vụ quy hoạch khai thác lâu dài và ổn định.
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ đã được nêu ở trên, các công tác tiến
hành được dự kiến như sau:
-



Công tác chỉnh lý bản đồ lộ vỉa tỷ lệ 1:5000.
Công tác trắc địa địa hình và trắc địa công trình.
Công tác thi công các công trình thăm đò.
Công tác địa vật lý lỗ khoan (đo karota)
Công tác địa chất thủy văn, địa chất công trình và nghiên cứu điều kiện
khai thác mỏ.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất
-

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Công tác mẫu.
Công tác tính trữ lượng.
Công tác phụ trợ khác.

Sau hơn 3 tháng với sự nỗ lực của bản thân, sự hướng dẫn tận tình của thầy
giáo TS. Khương Thế Hùng, sự chỉ bảo của các thầy cô giáo trong Bộ môn Tìm
kiếm – Thăm dò và sự chỉ bảo của các cán bộ phòng kỹ thuật Địa chất – Công ty
than Quang Hanh, tôi đã hoàn thành đồ án tốt nghiệp của mình đúng thời gian quy
định.
Bản đồ án được hoàn thành gồm các chương sau:
Mở đầu
Chương 1: Đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế nhân văn và lịch sử nghiên cứu
địa chất vùng
Chương 2: Đặc điểm địa chất và khoáng sản
Chương 3: Các phương pháp áp dụng, kỹ thuật và khối lượng công tác
Chương 4: Dự kiến phương pháp tính tài nguyên, trữ lượng khoáng sản

Chương 5: Tổ chức thi công và sự toán kinh phí
Kết luận
Hoàn thành đồ án này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhân được sự
giúp đỡ tận tình của TS. Nguyễn Tiến Dũng. Do thời gian và trình độ có hạn, nên đồ
án còn có những thiếu sót và khiếm khuyết nhất định. Tôi rất mong nhận được sự
góp ý của các thầy cô giáo, cũng như các bạn đồng nghiệp để nội dung đồ án được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Chương 1
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ NHÂN VĂN VÀ LỊCH SỬ
NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÙNG
1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ DIỆN TÍCH NGHIÊN CỨU
Vùng Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam. Là một bộ
phận của bể than Quảng Ninh kéo dài khoảng 25km, rộng khoảng 20km với diện
tích khoảng gần 500 km2.
Vùng nghiên cứu được giới hạn bởi hệ tọa độ địa lý:
20058’÷21012’ vĩ độ Bắc.
107010’÷107023’ kinh độ Đông.
Thành phố Cẩm Phả là một trung tâm lớn của tỉnh Quảng Ninh, kéo đài từ
Quang Hanh đến thị trấn Cửa Ông, là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, thương
mại của vùng. Ngoài ra, còn có thị trấn Mông Dương là một khu dân cư khá sầm
uất, Hầu như các công ty, xí nghiệp lớn trong vùng đều tập trung ở đây.
1.2. ĐẶC ĐIỂN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ NHÂN VĂN
1.2.1. Đặc điểm địa hình, mạng sông suối

a. Đặc điểm địa hình
Vùng Cẩm Phả có địa hình khá phức tạp, ở đây là nơi giao nhau của các cấu
tạo cánh cung Đông Bắc, nơi chuyển tiếp giữa địa hình đồi núi với đồng vằng ven
biển.
- Phía tây bắc là các gãy núi cao nhất của vùng. Độ cao thay đổi từ
500÷1000m, với sườn khá dốc (35÷450). Các dãy núi nối tiếp nhau kéo đài thành
một dải theo phương Tây bắc – Đông nam, điển hình là các đỉnh: núi Man (789m),
núi Mo (915m), núi Cánh diều (886m0), núi Khe Cốc (885m), cao nhất là đỉnh
Thiên Sơn (1094m).
- Kiểu địa hình núi thấp, phân bố rộng rãi nhất thường có đỉnh tròn sườn
thoải. Gồm các dải núi kéo dài từ Mông Dương, Cửa Ông, Cọc Sáu qua Đèo Nai
đến Khe Sim. Độ cao tuyệt đối của các đỉnh thay đổi từ 150m đến 500m. Chúng
chạy dài theo phương á vĩ tuyến và có đặc điểm chung là các sườn phía nam dốc
(20÷300), sườn phía bắc thoải hơn (15÷250).


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

- Dạng địa hình đồi phân bố rộng khắp trong vùng nghiên cứu. Chúng có dạng
bát úp với sườn khá thoải (10÷200), độ cao khoảng trên dưới 100m. Do địa hình
phân cắt mạnh nên trong vùng phát triển nhiều mạng sông suối theo nhiều hướng
khác nhau.
- Dạng địa hình núi đá vôi phân bố ở phía tây và nam vùng nghiên cứu. Đây
là dạng địa hình rất đặc trưng bao gồm 2 dải: Một dải phân bố ở địa bàn xã Vũ Oai,
kéo dài theo đường 18B; dải thứ 2 kéo dài theo quốc lộ 18 A thuộc quần sơn Đèo Bụt
hay những khối nằm riêng rẽ từ Hòn Gai đến Cẩm Phả và các đảo đá vôi nằm rải rác
trên vịnh Bái Tử Long với các kích thước và độ cao khác nhau.
- Ngoài ra, trong vùng còn có dải đồng bằng ven biển được hình thành do quá

trình bồi đắp các trầm tích Đệ Tứ. Dải đồng bằng này khá hẹp và chạy dài theo bờ
biển. Chúng là bộ phận chính của thành phố Cẩm Phả và các thị trấn Cửa Ông, Cọc
Sáu…
b. Mạng sông suối
+ Sông Mông Dương:
Sông Mông Dương bắt nguồn từ trung tâm của vùng nghiên cứu, chảy về phía
Đông rồi đổ ra vịnh Cửa Ông. Ở phần thượng lưu chế độ nước của sông chịu ảnh
hưởng theo mùa rõ rệt, phần hạ lưu phụ thuộc vào thủy triều. Mực nước vào mùa
mưa được dâng cao có thể lên tới 7÷8m, về mùa khô lòng sông bị thu hẹp vì cạn
nước, mực nước có nơi xuống thấp 0.5÷1m. Do quá trình khai thác than nên nước
sông bị ô nhiễm nặng, đất đá thải theo các dòng suối đổ ra sông làm cho nước sông
luôn luôn có màu đen. Sự bồi lắng làm cho lòng sông ngày càng bị nâng cao.
+ Sông Diễn Vọng:
Sông Diễn Vọng bắt nguồn từ trung tâm của vùng chảy theo hướng Tây rồi đổ
ra vịnh Cuốc Bê – Hòn Gai. Lưu vực của sông Diễn Vọng nhỏ hơn lưu vực của sông
Mông Dương, lòng sông bằng phẳng hơn và phần hạ lưu của sông lớn hơn. Mực
nước sông cũng phụ thuộc theo mùa và thủy triều.
Cả hai con sông đều có tác dụng tiêu thoát nước cho vùng mỏ nhưng giá trị
giao thông thấp. Chỉ có thể vận chuyển gỗ bằng bè và đi lại bằng thuyền nhỏ.
1.2.2. Đặc điểm khí hậu


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Cẩm Phả mằm trong vùng khí hậu Đông Bắc Bắc Bộ. Cũng như các vùng
đồng bằng duyên hải của vịnh Bắc Bộ, khí hậu của vùng Cẩm phả mang tính chất
nhiệt đới ven biển với hai mùa phân biệt rõ rệt.
a. Mùa mưa

Mùa mưa trong vùng bắt đầu từ tháng Tư đến tháng Mười với lượng mưa
trung bình hàng tháng khoảng 150mm. Nhiệt độ trung bình từ 20÷270C, thời tiết
tương đối nóng, các tháng nóng nhất là tháng Bảy, tháng Tám, có ngày nhiệt độ lên
tới 38÷390C, độ ẩm không khí từ 65÷80%, hướng gió chủ yếu là hướng Nam và
Đông Nam.
b. Mùa khô
Mùa khô bắt đầu từ thánh mười một đến tháng ba năm sau. Lượng mưa trung
bình hàng tháng thấp. Khoảng từ 50÷70mm. Thời tiết khá lạnh, nhiệt độ trung bình
15÷200C, các tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng một, tháng hai có năm thấp tới
30C. Độ ẩm không khí 40÷50%, hướng gió chủ yếu là Bắc và Đông Bắc.
1.2.3. Đặc điểm thảm thực vật
Cẩm Phả là vùng có khí hậu nhiệt đới ven biển nên thực vật trong vùng phát
triển phong phú và đa dạng. Cây cối bao phủ những diện tích rộng lớn với nhiêu loại
gỗ quý hiếm: lim, sến… và các loại cây làm thuốc nam. Sau thời gian khai thác than
nhiều khu rừng đã trở thành đồi trọc. Với phong trào trồng rừng bảo vệ moi trương.
Hiện nay một số nơi trong vùng đã được phủ xanh, diện tích đồi núi trọc đã dần dần
được thu hẹp.
1.2.4. Dân cư
Trước những năm 1980 dân cư của vùng thưa thớt. Tuy vậy, những năm gần
đây cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế, dân số trong vùng hiện nay khá
đông. Hầu hết dân số ở đây là người Kinh chiếm 95,2% dân số, còn lại đáng kể
là người Sán Dìu với 3,9%, các dân tộc khác sống xen kẽ rải rác trong địa bàn toàn
thành phố. Người Cẩm Phả phần lớn là công nhân ngành than, có nguồn gốc từ vùng
đông bắc Bắc Bộ.
1.2.5. Cơ sở hạ tầng:
Hạ tầng giao thông của Cẩm Phả phát triển tương đối hoàn chỉnh. Hiện thành
phố có tổng số trên 438km đường bộ, 7 cảng chuyên dụng và tổng hợp, 4 bến tàu, 5
bến xe; 40km đường sắt chuyên dụng. 100% các trục đường đô thị và các tuyến



Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

đường khu dân cư chính đều được trải nhựa, bê tông hóa đáp ứng tốt nhu cầu đi lại,
vận chuyển hàng hóa và hành khách công cộng.
Hệ thống các bệnh viện, trạm y tế tiếp tục được đầu tư cả về cơ sở vật chất và
trang thiết bị. Trên địa bàn thành phố hiện có 2 bệnh viện đa khoa hạng 2; 2 bệnh
viện chuyên khoa của Tỉnh; 1 trung tâm y tế, 16/16 phường, xã đạt chuẩn quốc gia
về y tế sớm trước lộ trình của Tỉnh đề ra 5 năm. Ngoài ra còn có 25 trạm y tế của
các cơ quan đơn vị doanh nghiệp và 200 cơ sở y tế tư nhân. 1 phòng y tế, 1 trung
tâm dân số kế hoạch hóa gia đình.
Về giáo dục, toàn thành phố Cẩm Phả hiện có 13 cơ sở giáo dục đào tạo bậc
đại học, cao đẳng, trung học và dạy nghề; 60/62 trường học từ mầm non đến THPT
được cao tầng hóa (đạt 96,77%); 83,73% số trường được công nhận đạt chuẩn quốc
gia. 100% cán bộ giáo viên có trình độ đạt chuẩn cho phép thành phố có thể cung
cấp các chương trình giáo dục cho khoảng gần 40.000 học sinh. Thành phố Cẩm
Phả cũng đã được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi,
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và THCS.
1.2.6. Tình hình kinh tế
Cẩm Phả là một trong ba vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Quảng Ninh. Vì
vậy, nền kinh tế quốc dân của Cẩm Phả nói chung phát triển khá đồng đề bao gồm:
công nghiệp, ngư nghiệp, du lịch, thương mại, lâm nghiệp và nông nghiệp. Trong
đó, nền kinh tế công nghiệp, thương nại đóng vai trò quan trọng và quyết định nền
kinh tế của vùng.
Ngành công nghiệp chính ở đây chủ yếu là khai thác than. với tổng tiềm năng
ước tính trên 3 tỷ tấn trong tổng số 8,4 tỷ tấn trữ lượng than của toàn tỉnh Quảng
Ninh. Đại đa số các Công ty, xí nghiệp khai thác than lớn trực thuộc Tập đoàn Than
và Khoáng sản Việt Nam đều nằm ở thành phố Cẩm Phả. Than sau khi khai thác
được sàng tuyển ở Công ty tuyển than Cửa Ông. Cảng Cửa Ông là thương cảng lớn,

nơi chế biến và tiêu thụ than xuất khẩu.
Về ngư nghiệp thành phố Cẩm Phả có nghề khai thác và nuôi trồng hải sản
với hơn 50 km bờ biển, nhưng chủ yếu là đánh bắt trong bờ, sản lượng thấp.
Ngành du lịch trong những năm gần đây phát triển mạnh. Vịnh Bái Tử Long
là một thắng cảnh nằm trong quần thể Vịnh Hạ Long vì vậy thu hút được nhiều
khách du lịch trong và ngoài nước.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Ngành lâm nghiệp của vùng nhìn chung không phát triển, chỉ đáp ứng được
phần nhỏ lượng gỗ cho các công ty mỏ phục vụ cho công tác khai thác than, chủ yếu
là phong trào trồng cây phủ xanh đất trống, đồi núi trọc.
Ngành nông nghiệp của vùng hầu như không phát triển, một số nơi trong
vùng nhân dân trồng trọt nhưng chỉ phục vụ cho nhu cầu tại chỗ.
1.3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU, ĐIỀU TRA ĐỊA CHẤT, TÌM KIẾM
THĂM DÒ VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VÙNG
1.3.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng tám (8-1945)
Giai đoạn này nước ta bị thực dân Pháp thống trị, người Pháp đã tiến hành
khai thác than và các khoáng sản khác trong vùng. Việc nghiên cứu địa chất được
tiến hành song song nhằm mục đích phục vụ việc vơ vét tài nguyên. Các tài liệu giai
đoạn này để lại phần lớn vị thất lạc hoặc không đầy đủ, tuy nhiên còn một số công
trình vẫn có giá trị tham khảo tốt.
Năm 1881, E.Fuchs và E. Saladin tiến hành khảo sát các trầm tích Hòn Gai và
tài liệu đầu tiên được công bố 1882.
Năm 1884, hội khai khoáng Trung và Bắc Kỳ ra đời và công trường khai thác
than đầu tiên đi vào hoạt động khởi đầu cho nghành công nghiệp khai thác than.
Năm 1887, Công ty than Bắc Kỳ của Pháp được thành lập và công tác khai

thác than được tiến hành nhanh hơn.
Năm 1903, công trình “Hóa đá thực vật trong tầng than Bắc Kỳ” của E.Zeiller
được ra đời và đây là công trình có giá trị lớn nhất trong thời kỳ này.
Năm 1925, Sở Địa Chất Đông Dương tiến hành lập các bản đồ địa chất tỷ lệ
1:500.000 và 1:100.000 ở nhiều vùng khác nhau.
Năm 1927, E.Patte hoàn thành bản đồ địa chất vùng đông Bắc Bộ tỷ lệ
1:200.000 và đây là công trình địa chất lớn nhất trong thời kỳ đó.
E.Fromaget (1937 – 1941) đã xếp các trầm tích chứa than Hòn Gai có tuổi
Nori. Ông cho rằng tầng chứa than Hòn Gai được thành tạo trong một chu kỳ trầm
tích hoàn chỉnh và đặc trưng cho tình chất biển thoái.
1.3.2. Giai đoạn sau cách mạng tháng tám đến nay
a. Thời kỳ 1945 – 1954


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Sau cách mạng tháng tám, cả nước dồn sức để tiến hành các cuộc chiến để
chống thực dân Pháp. Một số mỏ đã đi vào hoạt động nhưng quy mô mỏ nhỏ, công
tác nghiên cứu điạ chất và ngành công nghiệp mỏ chưa hình thành. Trong các vùng
tạm chiếm, thực dân Pháp chỉ chú trọng đến việc khai thác, vơ vét tài nguyên. Vì
vậy mà trong suốt thời kỳ này hầu như không có công trình nghiên cứu địa chất nào
được tiến hành trừ một vài công trình của người Pháp được công bố trên cơ sở tổng
hợp tài liệu từ trước.
b. Thời kỳ 1954 đến nay
Thời kỳ này miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, ngành Địa chất được
thành lập và đi vào hoạt động một cách có hệ thống, ban đầu là việc đánh giá lại các
mỏ cụ thể phục vụ khai thác, sau đó công tác nghiên cứu địa chất được tiến hành
một cách quy mô trên phạm vi cả nước. Vùng Cẩm Phả đã được nhiều công trình đề

cập đến, cụ thể:
Tác giả đầu tiên nghiên cứu vùng than là A.I. Pavlov với Báo cáo kết quả địa
chất lập vản đồ và tìm kiếm khoáng tỷ lệ 1:25.000 được thành lập năm 1960. Ông
đã xếp trầm tích chứa than vùng Cẩm Phả vào tuổi Nori, gọi chúng là điệp chứa than
Hòn Gai (T3-n hg) và chia điệp này thành 3 phụ điệp: dưới, giữa và trên. Pavlov cho
rằng tầng chứa than Hòn Gai nằm bất chỉnh hợp lên trên đá vôi bị bào mòn và sét
kết silic phân phiến thuộc Pecmi trên, mà hiện đất đá của hệ tầng này còn phân bố ở
phần phía nam của vùng. Theo ông, tầng chứa than được thành tạo trong điều kiện
lục địa – các vỉa than được hình thành tại chỗ và ngoại lai.
Năm 1964, V.M Tremnuc trong báo cáo: “Đồng danh các vỉa than Hòn Gai –
Cẩm Phả, đã phân chia tầng chứa than làm 2 phụ điệp: phụ điệp dưới (chứa than),
phụ điệp trên (trên than).
Năm 1968, Lê Đỗ Bình đã thành lập Bản đồ địa chất công nghiệp vùng than
Hòn Gai – Cẩm phả tỷ lệ 1:25.000.
Năm 1969, trong báo cáo lập bản đồ địa chất bể than Quảng Ninh tỷ lệ
1:200.000. Ông đã phân chia các phân vị địa tầng, nêu lên quy luật và điều kiện
thành tạo chứa than cũng như quy luật phân bố các vỉa than.
Năm 1974, các nhà địa chất Liên đoàn 9, Chủ biên Nguyễn Đình Long – Lê
Kính Đức đã tổng hợp các tài liệu địa chất bể than Quảng Ninh trong báo cáo “Đặc
điểm địa chất vể than Quảng Ninh” đã xếp điệp Hòn Gai vào tuổi Nori – Reti và
chia điệp Hòn Gai thành 3 phụ điệp.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Năm 1978, báo cáo thăm dò chi tiết khu Khe Tam, do Nguyễn Văn Cường
làm chủ biên.
Năm 1980, báo cáo thăm dò chi tiết khu Đông Lộ Trí do Hồ Minh Tân làm

chủ biên.
Năm 1983, Đặng Trần Bảng đã hoàn thành để tài “Phân nhóm mỏ địa chất
công nghiệp và mạng lưới công trình thăm đò chi tiết cho các khu mỏ thăm dò
thuộc bể than Quảng Ninh”. Ông cho rằng vùng Cẩm Phả chủ yếu thuộc nhóm mỏ
loại III.
Năm 1985, Trần Đức Lương và Nguyễn Xuân Bao đã thành lập bản đồ địa
chất Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 và cho rằng bể than Quảng Ninh có cấu trúc địa hào
chứa than.
Năm 1986, Vũ Văn Xoang và Pendiacop đã nghiên cứu cấu trúc địa chất vùng
Nam Cẩm Phả và chỉ ra triển vọng than ở các khu: Lộ Trí, Coc Sáu, Đèo Nai…
Năm 1996, Lê Hùng và nnk đã tiến hành đo vẽ lập bản đồ địa chất tờ Cẩm
Phả tỷ lệ 1:50.000, đây được xem là công trình địa chất tổng hợp có giá trị nghiên
cứu về địa chất khu mỏ Cẩm Phả. Trong đồ án chúng tôi chủ yếu tham khảo để trình
bày phần địa chất vùng Cẩm Phả, Quảng Ninh.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Chương 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN
2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Địa tầng
Theo tài liệu báo cáo kết quả đo vẽ bản đồ địa chất nhóm tờ Cẩm Phả tỷ lệ
1:50.000 của tác giả Lê Hùng (1996), thì vùng nghiên cứu có mặt các thành tạo
trầm tích tuổi từ Paleozoi đến Kainoizoi, các phân vị địa tầng được mô tả từ cổ đến
trẻ như sau:
GIỚI PALEOZOI
Hệ Ocdovic, Thống trên – Hệ Silua

Hệ tầng Tấn Mài (O3 – S tm)
Hệ tầng Tấn Mài được xác lập lần đầu tiên vào năm 1965 trong công trình
đo vẽ thành lập bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 do
A.E.Dovjikov làm chủ biên. Sau này được các nhà địa chất như: Trần Văn Trị (1977
– 1990), Nguyễn Công Lượng (1980), Lê Hùng (1996) sử dụng như một tài liệu
thống nhất.
Dựa vào đặc điểm thành phần thạch học, hệ tầng Tấn Mài được chia ra thành
hai phân hệ tầng:
+ Phân hệ tầng dưới – Hệ tầng Tấn mài (O3 – S tm1)
Phân hệ tầng Tấn Mài dưới phân bố ở trung tâm và phía tây bắc của vùng
nghiên cứu, chiếm khoảng 1/5 diện tích của vùng. Các thành tạo của hệ tầng này lộ
thành dải kéo dài theo phương Đông bắc – Tây nam từ Đồng Mỏ đến xã Hòa Bình.
Thành phần thạch học được đặc trưng bởi các đá phiến thạch anh – sericit, đá phiến
thạch anh sericit – mutcovit, đá phiến sericit xen các lớp quăczit. Đá có màu xám
lục, xám đen, khi bị phong hóa có màu nâu, nâu vàng, cấu tạo phân lớp mỏng hoặc
phân phiến. Đá thường bị ép nén, dập vỡ, phát triển nhiều vi uốn nếp. Trong đá có
các hiện tượng biến đổi clorit hóa, epidot hóa…
+ Phân hệ tầng trên – Hệ tầng Tấm Mài (O3 – S tm2)
Các thành tạo trầm tích của phân hệ tầng trên lộ ra thành hai dải nhỏ kéo đài
theo phương Đông bắc – Tây nam. Phân bố ở hai cánh của nếp lồi Thác Cát – Đồng


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Mỏ. Cánh tây bắc kéo dài từ hoành Bồ đến Tiên Yên, cánh đông nam phát triển theo
phương á vĩ tuyến từ Thác Cát đến Bắc Bàng Tẩy. Thành phần thạch học gồm: Cát
kết, cát kết dạng quăczit ngậm sạn, đá phiến sét – sericit, đá piến sét – clorit, đá
phiến thạch anh – sericit… Đá có cấu tạo phân lớp mỏng hoặc phân phiến, kiến trúc

vi vảy biến tinh. Các đá ở đây vị nén ép, vò nhàu mạnh mẽ. Các hiện tượng biến đổi
trong đá như clorit hóa, sericit hóa…
Các thành tạo này có quan hệ chỉnh hợp với phân hệ tầng Tấn Mài dưới (O 3
– S tm1) và bị các trầm tích của hệ tầng Đá Trắng (C 1 dt) và Hệ tầng Hà Cối (J 1-2 hc)
phủ bất chỉnh hợp lên trên. Chiều dày của phân hệ khoảng 500÷800m.
Hệ Cacbon, Thống dưới
Hệ tầng Đá Trắng (C1dt)
Các thành tạo trầm tích của hệ tầng Đá Trắng phân bố ở phía tây nam vùng
nghiên cứu kéo từ Thác Cát qua Đông nam về phí tây với diện lộ khoảng 15km 2. Hệ
tầng này do Lê Hùng (1996), xác lập trên cơ sở mặt cắt chuẩn tại Đá Trắng. Thành
phần thạch học gồm: Cuội sạn kết, cát kết dạng quăczit, cát kết, bột kết… Đá có
màu xám, xám đen, cấu tạo phân lớp. Trong đá có chưa phong hóa đá:
Foraminiferra, Acanthotilete...
Hệ tầng Đá Trắng có quan hệ bất chỉnh hợp với các thành tạo thuộc hệ tầng
Tấn Mài (O-S tm) và bị các trầm tích cacbonat của Hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs) nằm
chuyển tiếp kên trên. Tuổi của hệ tầng có nhiều quan điểm khác nhau, theo Lê Hùng
(1996) xếp vào tuổi Cacbon sớm (C1). Chiều dày hệ tầng khoảng 300÷430m.
Hệ Cacbon – Hệ Pecmi
Hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs)
Trong vùng nghiên cứu các thành tạo trầm tích của hệ tầng Bắc sơn phân bố
rải rác dưới các dạng khối nhỏ khu vực Núi Mỏ, Cái Hanh và một số nơi phần phía
nam vùng nghiên cứu dọc theo quốc lộ 18A.
Thành phần thạch học đặc trưng của hệ tầng này là các thành tạo trầm tích
cacbonat: đá vôi, đá vôi sinh vật … Đá có mày xám sẫm đến xám sáng, cấu tạo phân
lớp dày hoặc dạng khối, kiến trúc vi hạt ẩn tinh. Trong đá có chứa các di tích sinh
vật foraminifera, Fusulinida…bảo tồn kém.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất


Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Các thành tạo của hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs) nằm chinh hợp lên trên các
thành tạo trầm tích của hệ tầng Đá Trắng (C 1 dt), phần trên có quan hệ kiến tạo (đứt
gãy) với các thành tạo trầm tích lục nguyên của hệ tầng Hòn Gai (T 3n-r hg). Theo Lê
Hùng (1996) thì hệ tầng có tuổi Cacbon – Pecmi (C – P). Chiều dày hệ tầng khoảng
210÷650m.
GIỚI MEZOZOI
Hệ Triat, bậc Reti
Hệ tầng Hòn Gai (T3n-r hg)
Đây là hệ tầng chứa than lớn nhất trong vùng, chính vì thế mà hệ tầng Hòn
Gai (T3n-r hg) đã được nhiều nhà địa chất nghiên cứu và có nhiều cách phân chia
khác nhau. Tiêu biểu là các công trình của A.E.Dovjikov (1965), Lê Kính Đức
(1978), Trần Văn Trị (1990)… và gần đây nhất là Lê Hùng (1996). Hệ tầng được
phân chia ra làm ba phân hệ tầng.
+ Phân hệ tầng dưới (T3n-r hg1).
Trong diện tích nghiên cứu các thành tọa trầm tích của phân hệ tầng dưới
phân bố ở phía bắc và phía nam của địa hào Hòn Gai, lộ đạng dải kéo dài theo
phương á vĩ tuyến với chiều dài khoảng 17÷25km, rộng 0,7÷1km. Mặt cắt chuẩn
của phân hệ tầng này qua Dương Huy gồm 4 tập.
Tập 1: Gồm cuội kết đa khoáng, thành phần chủ yếu là thạch anh ít silic, cát
kết, chuyển lên là cuội sạn kết hạt thô màu xám, xám sáng, phân lớp dày. Chiều dày
tập 1 khoảng 50÷60m.
Tập 2: Gồm cát kết đa khoáng màu xám, xám nâu, rắn chắc phân lớp dày
chứa các thấu kính cuội sạn kết, bột kết chứa sét và vật chất than màu xám đen.
Chiều dày tập 2 khoảng 90m.
Tập 3: Gồm bột kết, cát kết hạt mịn màu xám nâu, các thấu kính sét than
màu xám đen chứa di tích thực vật bảo tồn xấu. Chiều dày tập 3 khoảng 102m.
Tập 4: Gồm cát kết hạt thô đến mịn xan kẽ với bột kết màu xám sáng chứa
các thấu kính cuội sạn kết. Chiều dày tập 4 khoảng 10÷50m. Trong đá có chứa các

hóa thạch bảo tồn xấu bao gồm: Neocolamites hoerensis, Taeniopteris
nilssonnioides Zeiller Cycadocarpodzum erdmani Nathorst.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Phân hệ tầng dưới có quan hệ dứt gãy với hệ tầng Bắc Sơn (C – P bs) và bị
các thành tạo của phân hệ tầng giữa – hệ tầng Hòn Gai (T 3n-r hg2) phủ chỉnh hợp lên
trên.
+ Phân hệ tầng giữa (T3n-r hg2).
Trong vùng nghiên cứu các thành tạo của phân hệ tầng này phân bố ở phần
phần phía nam. Chúng lộ ra thành một dải kéo dài theo phương á vĩ tuyến với chiều
dài khoảng 25km, chiều rộng 3÷6km và là phần trung tâm của địa hào Hòn Gai. Đây
là địa tầng chứa than chủ yếu của bể than Quảng Ninh, trên mặt cắt chuẩn ở Khe Hổ
- Dương Huy phân hệ tầng gồm 4 tập:
Tập 1: Gồm cát kết hạt nhỏ, hạt trung, bột kết, màu xám sẫm. Tập chứa từ
vỉa 6÷12 vỉa than, trong đó có từ 2÷6 vỉa có giá trị công nghiệp. Chiều dày tập 1
khoảng 300÷500m.
Tập 2: Gồm cát kết hạt nhỏ, hạt trung, bột kết màu xám, sét kết và sét than
màu đen. Phần dưới của tập có sạn kết, cuội kết xen kẽ nhau. Tập có chứa từ 3÷7 vỉa
than đạt giá trị công nghiệp. Hóa đá trong tập phong phú bảo tồn tốt bao gồm:
Pecopteis tonquienis; Bernoullia zeiller… Chiều dày tập 2 khoảng 400m.
Tập 3: Chủ yếu là các đá hạt thô gồm cuội kết, sạn kết, cát kết, màu xám đến
xám sáng. Các lớp cát kết hạt mịn, bột kết, sét kết, sét than có chiều dày không lớn.
Tập chứa nhiều vỉa than, trong đó có 6÷7 vỉa có giá trị công nghiệp. Trong tập có
chứa các hóa thạch bảo tồn tốt gồm: Sibericoncha sp, Euestheria sp… Chiều dày tập
3 khoảng 350m÷550m.
Tập 4: Thành phần chủ yếu gồm cuội sạn kết, cát kết, bột kết, chiều dày lớp

không ổn định theo phương. Tập chứa từ 7÷11 vỉa than, nhưng số vỉa than có giá trị
công nghiệp ít. Trong đá có chứa hóa thạch thực vật bảo tồn kém gồm: Otozamites
obtusus, Dictyphyllum nathorsti Zeiller… Chiều dày tập 4 khoảng 350m÷550m.
Như vậy phân hệ giữa – hệ tầng Hòn Gai có tổng chiều dày khoảng 1400÷1950m và
có chứa 22 vỉa than trong đó có 15÷20 vỉa đạt giá trị công nghiệp. Phân hệ tầng này
nằm chỉnh hợp với phân hệ tầng hệ tầng trên của Hệ tầng Hòn Gai.
+ Phân hệ tầng trên (T3n-r hg3).
Các thành tạo trầm tích thuộc phân hệ tầng Hòn Gai trên phân bố ở phía tây
nam của vùng nghiên cứu và rải rác ở phần trung tâm của địa hào Hòn Gai dưới


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

dạng các chỏm sót ở Đồng Lá, Khe Tam… Các chỏm sót thường là nhân nếp lõm.
Thành phần thạch học đặc trưng của phân hệ tầng này là các đá hạt thô: Cuội kết,
sạn kết thạch anh, cát kết, một ít bột kết và sét kết. Đá có màu xám tro, xám sáng,
cấu tạo phân lớp, đôi khi dạng khối, kiến trúc hạt không đều. Trong đá có chứa một
số vỉa than mỏng và sét than không có giá trị công nghiệp, các di tích hóa thạch
nghèo nàn. Chiều dày của phân tầng trên khoảng 300÷700m.
Về tuổi của hệ tầng Hòn Gai mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng
đa số các nhà địa chất nhất trí xếp tuổi Nori – Reti (T3n-r).
Hệ Jura
Thống dưới, Thống giữa
Hệ tầng Hà Cối (J1-2 hc)
Hệ tầng Hà Cối được A.Jamoida xác lập lần đầu tiên vào năm 1962 khi
nghiên cứu các trầm tích ở vùng Hà Cối. Sau đó các thành tạo này được nhiều nhà
địa chất nghiên cứu và đưa ra các quan điểm phân chia khác nhau. Trong công trình
nghiên cứu gần đây nhất của tác giả Lê Hùng (1996), hệ tầng Hà Cối được chia làm

3 phân hệ tậng.
+ Phân hệ tầng dưới (J1-2 hc1)
Các thành tạo trầm tích của phân hệ tầng này phân bố chủ yếu ở phía đông
bắc vùng nghiên cứu, diện lộ dạng dải kéo dài theo phương kinh tuyến với chiều dài
khoảng 10km, chiều rộng từ 1÷4km, từ Đồng Mỏ xuống Khe Thác và bị đứt gãy
Trung Lương khống chế ở phía nam. Mặt cắt chuẩn ở Đồng Mỏ cho thấy phân hệ
tầng này gồm 3 tập:
Tập 1: Gồm cuội sạn kết màu xám, xám trắng, cuội có độ mài tròn tốt, phân
lớp dày. Chiều dày tập 1 khoảng 40÷50m.
Tập 2: Gồm bột kết, bột kết chứa vôi màu xám xanh lục, phân lớp mỏng đến
trung bình, xen kẽ với ít lớp mỏng cát kết hạt mịn hay bột kết màu nâu đỏ, tím đỏ.
Trong đá có chứa hóa thạch động vật gồm: Bairdestheria sp, Utschamiella sp…
Chiều dày tập 2 khoảng 60÷70m.
Tập 3: Gồm sét vôi màu xám lục, xám trắng xen kẽ với bột kế chứa vôi màu
vàng lục, phân lớp trung bình đến dày. Chiều dày tập 3 khoảng 65÷70m


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Phân hệ tầng dưới nằm bất chỉnh hợp lên trên các thành tạo của hệ tầng Tấn
Mài, chuyển tiếp lên trên là các thành tạo của phân hệ tầng giữa (J1-2 hc2).
+ Phân hệ tầng giữa (J1-2 hc2)
Các thành tạo trầm tích của phân hệ tầng giữa (J1-2 hc2) lộ thành dải theo
phương kinh tuyến, nằm tiếp giáp với diện phân bố của phân hệ tầng dưới (J 1-2 hc1)
về phía đông bắc, kéo dài từ Khe Cả xuống Văn Châu với chiều dài khoảng 9km,
rộng từ 2÷5km. Phân hệ tầng gồm 3 tập:
Tập 1: Gồm các đá sét bột kết màu nâu đỏ, phân lớp dày, xen ít lớp cát kết
hạt mịn. Chiều dày tập 1 khoảng 100m.

Tập 2: Gồm cát kết hạt mịn đến trung bình màu xám trắng, xám nâu, nâu đỏ,
phân lớp trung bình xen ít lớp bột màu nâu đỏ. Chiều dày tập 2 khoảng 70m.
Tập 3: Gồm bột kết, cát bột kết phân lớp dày, màu nâu đỏ xen kẽ nhịp
nhàng. Chiều dày tập 3 khoảng 130m.
Trong đá có chứa một số bào tử phấn hoa: Classopolllis, Gleichinidites…
Phân hệ tầng này nằm chỉnh hợp với phân hệ tầng dưới và trên của hệ tầng Hà Cối.
Chiều dày của phân hệ tầng từ 200÷310m.
+ Phân hệ tầng trên (J1-2 hc3)
Các thành tạo trầm ích của phân hệ tầng này phân bố ở phần phía đông bắc
của vùng nghiên cứu và một số đảo nhỏ ven biển. Thành phần thạch học của phân
hệ tầng trên gồm: Bột kết, sét kết màu nâu, nâu đỏ xen kẽ ít lớp cát kết mỏng, Cấu
tạo phân lớp, kiến trúc hạt mịn. Trong đá có chứa một số bào tử phấn hoa:
Poducarpidites Cadrispollennites… Chiều dày của phân hệ tầng trên từ 60÷70m.
GIỚI KAINOZOI
Hệ Đệ tứ
Các thành tạo trầm tích Đệ tứ phân bố khá rộng rãi trong vùng nghiên cứu,
chúng lộ thành dải kéo dài dọc theo quốc lộ 18A từ Quang Hanh đến Cửa Ông…
Thành phần thạch học chủ yếu là các sản phẩm bở rời gồm: Cuội, tảng, sỏi, sạn, cát,
bột, sét bở rời. Chiều dày của trầm tích Đệ tứ từ 3÷10m.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

2.1.2. Kiến tạo
2.1.2.1. Đặc điểm uốn nếp
Trong diện tích nghiên cứu các hoạt động biến dạng dẻo xảy ra khá mạnh
mẽ tạo nên các nếp uốn lớn nhỏ khác nhau. Trường ứng suất chủ yếu theo phương
từ bắc nam vào trung tâm và tây bắc và đông nam vào trung tâm. Kết quả tạo kên

các nếp uốn có trục phát triển theo phương Đông – Tây và Đông bắc – Tây nam.
Các nếp uốn này làm tăng chiều dày tầng chứa than trong vùng.
Toàn bộ diện tích chứa than của vùng là một nếp lõm lớn, phát triển theo
phương á vĩ tuyến. Được giới hạn bởi phía bắc là đứt gãy Trung Lương (F 1), phía
nam là đứt gãy Nam (F2), phía đông giới hạn bởi đứt gãy Cửa Ông – Tiên Yên, phía
tây kéo dài ra ngoài vùng nghiên cứu. Nếp lõm bị phức tạp hóa bởi sự phát triển của
các nếp uốn nhỏ và dứt gãy kiến tạo có phương khác nhau, chúng phân cắt nếp lõm
thành các khối riêng rẽ.
+ Nếp lồi Thác Cát – Đồng Mỏ (U1)
Đây là một nếp lồi lớn, phân bố ở phía tây bắc vùng nghiên cứu. Trục nếp
lồi phát triển theo phương Đông bắc – Tây nam, kéo dài trên 10km, nhân và hai
cánh của nếp lồi là các trầm tích thuộc phân hệ tầng Tấn Mài dưới (O 3-S tm1). Nếp
lồi này không đối xứng, mặt trục nghiêng về phía đông nam, cánh đông nam dốc
(60÷700), cánh tây bắc thoải hơn (40÷450). Nếp uốn bị các hệ thống dứt gãy phương
Đông bắc – Tây nam và Đông nam – Tây bắc chia cắt làm cấu trúc nếp uốn thâm
phức tạp.
+ Nếp lõm Cánh Diều – Khe Cốc (U2)
Nếp lõm phân bố ở địa hình tương đối cao (700m). Trục nếp uốn phát triển
theo phương Đông bắc – Tây nam, kéo dài từ sườn núi Cánh Diều về Khe Cốc. Nếp
uốn này không đối xứng, cánh phải tây bắc dốc (30÷40 0), cánh đông nam thởi hơn
(20÷250). Phần trung tâm của nếp lõm là các thành tạo trầm tích của hệ tầng Hà Cối
– phân hệ tầng dưới.
+ Nếp lõm Ngã Hai (U3)
Nếp lõm này nằm về phía đông nam của nếp lôi U 1, trục nếp uốn phát triển
theo phương Tây bắc – Đông nam. Đây là nếp lõm không đối xứng, cánh tây bắc
dốc (30÷350), cánh đông nam thoải hơn (20÷250), mặt trục nghiêng về phía tây bắc
và bị các hệ thống đứt gãy chia cắt làm cho cấu trúc đứt gãy thêm phức tạp.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất


Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

+ Nếp lồi Bắc Dương Huy (U4)
Phân bố ở phía Bắc xã Dương Huy, trục nếp lồi phát triển theo phương
Đông nam – Tây bắc, trong các thành tạo địa chất của hệ tầng Tấn Mài. Nếp lồi này
khá đối xứng, đá hai bên cánh nếp uốn có độ dốc trung bình (40÷500)
+ Nếp lõm Khe Tam (U3)
Phân bố ở phía bắc mỏ Khe Tam, đây là nếp lõm khá lớn, trục của nếp lõm
phát triển theo phương gần đông – tây với chiều dài khoảng 6÷7m. đá ở hai bên
cánh nếp uốn cắm khá thoải (25÷350) và trải rộng về phía Bắc. Nếp uốn phát triển
hoàn toàn trong các thành tạo trầm tích thuộc phân hệ tầng giữa và trên của hệ tầng
Hòn Gai và bị các đứt gãy phương á vĩ tuyến chia cắt thành các khối riêng biệt.
+ Nếp lồi Khe Tam
Nếp lồi này nằm ở phía nam Khe Tam, trục nếp lồi kéo dài phương á vĩ
tuyến với chiều dài khoảng 4km. Nếp lồi phát triển trong các thành tạo địa chất
thuộc phân hệ tầng giữa Hòn Gai. Nếp lồi này không đối xứng, cánh nam dốc (35400) cánh bắc thoải hơn (20-300) mặt trục nghiêng về phía đông nam. Nếp uốn chia
cắt bởi các thống đứt gãy phương Đông nam – Tây bắc và Đông bắc – Tây nam làm
cho cấu trúc nếp uốn trở nên phức tạp.
+ Nếp lõm Lộ Trí
Nếp lõm phân bố ở phía bắc khu Lộ Trí, trục nếp uốn kéo dài theo phương á
vĩ tuyến khoảng 3km. Nếp uốn phát triển trong các thành tạo trầm tích chứa than
thuộc phân hệ tầng giữa – hệ tầng Hòn Gai. Đá 2 bên cánh của nếp uốn khá thoải
(15÷300) và bị chia cắt bởi các hệ thống đứt gãy phương Tây bắc – Đông nam và á
vĩ tuyến. Nếp lõm này cùng với nếp lồi Khe Tam nếp lõm Khe Tam tạo nên diện
tích chứa than lớn và nơi tập trung các mỏ khai thác lớn như: Cọc Sáu, Đèo Nai,
Thống Nhất…
+ Nhóm nếp uốn Mông Dương
Nhóm nếp uốn này phân bố ở phía đông thị xã Cẩm Phả, trục nếp uốn phát
triển theo phương á kinh tuyến. Nhóm nếp uốn này được ngăn cách với hệ thống đứt

gãy phương á vĩ tuyến bởi đứt gãy Cửa Ông - Bảng Tẩy (F 15) có chiều phương Tây
bắc – Đông nam. Nhóm nếp uốn này góp phân làm tăng chiều dài tầng chứa than ở
khu Mông Dương, hiện này mỏ Mông Dương, Khe Chàm, Bắc Quảng Lợi đang
khai thác khu vực này.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

2.1.2.2. Đặc điểm đứt gãy
Vùng Cẩm Phả – Quảng Ninh là vùng có mức độ hoạt động kiến tạo rất
phức tạp và đa dạng. Trên cơ sở các tài liệu địa chất vùng, các kết quả phân tích ảnh
viễn thám, kết quả địa vật lý khu vực và các tài liệu nghiên cứu cấu trúc kiến tạo
trong vùng có thể chia các đứt gãy, trong vùng thành bốn hệ thống chính.
a.

Hệ thống đứt gãy phương á vĩ tuyến

Hệ thống đứt gãy này phân bố ở phía nam vùng nghiên cứu, đây là hệ thống
đứt gãy có tuổi cổ nhất trong vùng, đặc trưng là các đứt gãy sâu khu vực. Hệ thống
đứt gãy này tạo nên địa hào chưa than Hòn Gai, chúng gồm các đứt gãy Trung
Lương (F1) đứt gãy Nam (F2) Lưỡng Kỳ (F3) và các đứt gãy nằm trong nhóm đứt
gãy thuộc địa hào Hòn Gai. Hệ thống đứt gãy này giữ vai trò khống chế trong quá
trình hình thành địa hào chưa than cũng như quá trình uốn nếp, phân cắt và phá hủy
các thành tạo chứa than.
+ Đứt gãy Trung Lương (F1)
Đứt gãy này phát triển theo phương gần đông tây, dọc theo đường 18B. Đây
là một đứt gãy sâu khu vực, là ranh giới phía bắc của địa hào Hòn Gai, nó giữ vai
trò là một đứt gãy rìa và phân khối bậc 2. Đứt gãy này phát hiện qua phân tích ảnh

viễn thám và được chứng minh bằng thực tế của quá trình nghiên cứu và khai thác
mỏ. Đây là một đứt gãy thuận, mặt trượt cắm về phía nam với góc dốc từ (60÷80 0)
và có biên độ dịch chuyển hàng tram đến hàng nghìn mét. Dọc đới phá hủy có biêu
hiện khoáng hóa nhiệt dịch của thùy ngân và antimon…
+ Đứt gãy Nam (F2)
Đứt gãy này phân bố ở phía nam vùng nghiên cứu, kéo dài theo phương
đông – tây, tử Quang Hanh qua Cọc Sáu đến Cửa Ông. Đứt gãy này đống vai trò là
một đứt gãy rìa khu vực, phân khối bận 2 và xác định ranh giới phía nam của địa
hào Hòn Gai. Đây là đứt gãy thuận có mặt trượt cắm về phía bắc với góc dốc
(70÷800). Biên độ dịch chuyển hàng tram đến nghìn mét. Dọc theo đới phá hủy có
các điểm nước nóng, khoáng, nằm trong đới dập vỡ kiến tạo của đứt gãy này.
+ Đứt gãy Lưỡng Kỳ (F3)
Đứt gãy phân bố ở phia tây vùng nghiên cứu và phát triển theo phương á vĩ
tuyến từ phía tây vùng nghiên cứu nối đứt gãy Trung Lương tại thác Cát chiều dài
của đứt gãy này khoảng 6-7m. Đây là đứt gãy rìa khu vực, cùng đứt gãy Trung


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Lương tạo nên dải bậc thang là phụ tầng cấu trúc Cacbon- pecmi. Đứt gãy này được
phát hiện qua phân tích ảnh viễn thám và được chứng minh qua tài liệu thực tế. Đây
là một đứt gãy nghịch có mặt trượt nghiêng về phía nam với góc dốc (60÷70 0). Dọc
theo đới phá hủy phát triển các khoáng hóa; thủy ngân, antimony, thạch anh kỹ
thuật…
b.

Hệ thống đứt gãy phương đông bắc –tây nam


Trong diện tích nghiên cứu hệ thống đứt gãy này rất phat triển và góp phần
chia cắt các thành tạo địa chất trong vùng thành những khối riêng biệt. Hệ thống này
phát sinh sau hệ thống đứt gãy phương á vĩ tuyến bao gồm các đứt gãy Hoành Bồ,
Tiên Yên (f4) Vũ Oai – Đồng Mỏ (F5). Thác Cát –Khe Chuối (F6) Đá Trồng- Khe Cả
( F7). Hệ thống đứt gãy này thường là đứt gãy ngang nghịch, biên độ dịch chuyển tới
hàng trăm mét, mặt trượt của đứt gãy tạo thành hệ thống song song nhau.
+ Đứt gãy Hoành Bồ- Tiên Yên ( F4)
Đứt gãy này có dạng vòng cung ôm lấy võng chồng An Châu, phân bố ở
phía tây bắc vùng nghiên cứu, kéo dài theo phương đông bắc tây nam với chiều dài
khoảng 10km. đây là đứt gãy nghịch, mặt trượt cắm dốc về phía đông nam với góc
dốc mặt trượt 700-800m. Dọc theo đứt gãy có biểu hiện khoáng hóa nhiệt dịch, đới
biến đổi sunfua chứa vàng , đa kim. Đứt gãy này còn là ranh giới trên mặt các thành
tạo địa chất thuộc hệ tầng Tấn Mài và các thành tạo địa chất thuộc phức hệ Bình
Liêu.
c.

Hệ thống đứt gãy phương á kinh tuyến

Hệ thống đứt gãy phương này phân bố rộng rãi trong vùng, chúng hình thành
muộn hơn hai hệ thống đứt gãy phương á vĩ tuyến và đông bắc- tây nam. Hệ thống
đứt gãy này cắt qua và làm dịch chuyển các hệ thống đứt gãy trên tạo ra các khối địa
chất có cấu trúc riêng biệt. Hệ thống này bao gồm các đứt gãy Cửa Ông- Tiên Yên
(F8) Bàng Tẩy- Đồng Mỏ (F9) Ngã Hai- Cánh Diều ( F10).
+ Đứt gãy Cửa Ông –Tiên Yên ( F8)
Phân bố ở phía đông vùng nghiên cứu phát triển theo phương á kinh tuyến,
dọc theo eo biển Cửa Ông và kéo dài ề phía bắc với chiều dài khoảng 20km, tuy
nhiên đứt gãy này hầu như bị phủ bởi lớp trầm tích Đệ Tứ và nằm dưới biển vì vậy
khó nhận biết ngoài thực địa.
+ Đứt gãy Làng Khánh- Khe Cốc (F11)



Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Trong công trình nghiên cứu của Trần Văn Trị và nnk (1991) đứt gãy này là
đứt gãy Hà Ráng. Nó được phân bố ở phía tây vùng nghiên cứu, phát triển theo
phương á kinh tuyến kéo dài từ Làng Khánh đến Khe Cốc với chiều dài khoảng
22km. Đứt gãy được phát hiện qua phân tích ảnh viễn thám, đây là một dứt gãy
nghịch, mặt trượt cắm về phía đông với góc dốc mặt trượt (40÷700).
d.

Hệ thống đứt gãy phương tây bắc – đông nam

Đây là hệ thống đứt gãy hình thành muộn nhất trong vùng nghiên cứu,
chúng phân bố khá rộng rãi trong vùng, boa gồm các dứt gãy: Quang Hanh – Khe
Du (F12), Hà Vây – Cọc Ba (F13), Cọc Sáu – Na làng (F14), Cửa Ông – Bàng Tẩy
(F15), Cửa Ông – Mông Dương (F16), và các đứt gãy nằm trong địa hào Hòn Gai. Hệ
thồng đứt gãy này cắt qua và làm dịch chuyển các hệ thống đứt gãy nêu trên.
+ Đứt gãy Cọc Sáu Na Làng (F12)
Đứt gãy này phân bố ở trung tâm vùng nghiên cứu, phát triển theo phương
tây bắc – đông nam, từ Cọc Sáu đến Na làng với chiều dài khoản 25km, là một đứt
gãy nghịch có dịch chuyển ngang, mặt trượt cắm về phía đông bắc với góc dốc từ
(60÷800). Biên độ dịch chuyể của đứt gãy thay đổi từ 200÷400m.
Tóm lại: Các hệ thống dứt gãy trong vùng phát triển mạnh mẽ với mức độ và
thời gian khác nhau, trong đó hẹ thống đứt gãy phương á vĩ tuyến hình thành sớm
nhất và hệ thống đứt gãy phương tây bắc – đông nam hình thành muộn nhất.
2.1.3 Đặc điểm địa mạo
Vùng Cẩm Phả – Quảng Ninh thuộc vùng có địa hình đồi núi trung bình đến
thấp với cấu trúc nếp uốn phức tạp, hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu đầy

đủ về địa mạo của vùng. Dựa vào đặc điểm về nguồn gốc và hình thái có thể chia
địa hình và nghiên cứu thành các kiểu địa hình sau:
2.1.3.1 Kiểu địa hình xâm thực bóc mòn
a. Phụ kiểu địa hình xâm thực –bóc mòn phát triển trên địa hình núi trung
bình
Loại này phổ biến nhất trong vùng nghiên cứu, chúng phân bố chủ yếu ở
phía tây bắc và nam của vùng. Phía tây bắc gồm các dãy núi ở Na Làng, Khe Đu,
Khe Cốc… Các dãy núi ở đây chạy theo nhiều phương khác nhau, độ cao thay đổi
từ 500-955m. Sườn núi có độ dốc thay đổi từ 3045 độ và bị phân cắt khá mạnh tạo
ra các khe rãnh nhỏ. Các đá cấu thành nên kiểu địa hình này chủ yếu gồm các tạo


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

thành của hệ tầng Tấn Mài (O3- S tm), phân hệ tầng Hà Cối dưới (J1-2 hc 1) và các đá
của phức hệ Bình Liêu.
Phủ lên bề mặt địa hình này là thảm thực vật chủ yếu là cây than gỗ nhỏ, dây
leo, lau , cây.
b.Phụ kiểu địa hình xâm thực –bóc mòn phát triển trên địa hình núi thấp và
đồi
Loại địa hình này chủ yếu phân bố ở phía đông bắc, đông nam và nam của
vùng nghiên cứu. Các dãy thấp đều phát triển theo các phương khác nhau, đặc trưng
là đỉnh tròn, sườn thoải độ dốc thay đổi từ (15 – 20 0). Và có độ cao thay đổi từ
100÷300m. Các đá cấu thành nên địa hình này bao gồm các thành tạo hệ tầng Đá
Trắng (C1đt), phân hệ tầng Hòn Gai dưới (T3n-rhg1), phân hệ tầng Hà Cối giữa và
trên. Bề mặt địa hình này được phủ bởi lớp thực vật chủ yếu là cây thân gỗ nhỏ và
các loại dây leo.
2.1.3.2. Kiểu địa hình kart

Trong diện tích vùng nghiên cứu loại địa hình này phân bố rất hạn chế dưới
dạng các chỏm sót ở phía nam Vũ Oai, dọc theo đường quốc lộ 18A, ven bờ biển từ
Quang Hanh đến cửa ông và rất rộng rãi trong vịnh Bái Tử Long.
Đặc điểm chung của loại địa hình này là vách đá dựng đứng, đỉnh lởm chởm
răng cưa. Quan sát ngoài thực địa trên vách đá vôi thấy có các dấu vết gặm mòn
nước biển trước đây. Trên vách núi đá có các hang động kart với kích thước và độ
cao khác nhau, chứng tỏ địa hình này co lien quan chặt chẽ với các quá trình kiến
tạo của vùng. Các đá cấu thành nên địa hình này là các thành tạo trầm tích cacbonat
của hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs).
2.1.3.3. Kiểu địa hình tích tu
Dựa vào nguồn gốc thành tạo, có thể chia kiểu địa hình này thành 2 phụ
kiểu.
a.

phụ kiểu địa hình tích tụ lục địa.

Phụ kiểu địa hình này phân bố xen kẽ với các kiểu địa hình xâm thực bóc
mòn, chúng phân bố chủ yếu ở phía đông bắc và tây nam của vùng, lộ ra dưới dạng
các bãi bồi trong các thung lũng trước núi, giữa núi, dọc theo hai bên bờ sông Mông
Dương, sông Diễn Vọng và ở các con suối lớn.


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

Bề mặt của các kiểu địa hình này tương đối bằng phẳng, sự phân cắt địa hình
là do các dòng nước mặt hoặc dòng tạm thời. Các đá cấu thành nên phụ kiểu địa
hình của sự phong hóa, bóc mòn được dòng nước mặt mang từ các đỉnh sườn đồi,
núi xuống tích đọng ở các vị trí thuận lợi.

b.Phụ kiểu địa hình tích tụ biển
Phụ kiểu này phân bố chủ yếu ở phía Nam vùng nghiên cứu, dọc theo quốc
lộ 18A, từ Quang Hanh đến Cửa Ông. Vật chất tạo nên địa hình này là các thành tạo
trầm tích Đệ tứ. Chúng là sản phẩm phá hủy của các đá trên đất liền dưới tác dụng
phong hóa và được vận chuyển đến tích đọng ở ven biển. Độ cao tuyệt đối của bề
mặt địa hình từ 0,5÷5m.
2.1.3.4. Kiểu địa hình nhân tạo
Kiểu địa hình này được hình thành dưới tác động của con người và thường
xuyên thay đổi theo thời gian. Chúng phân bố chủ yếu ở các khu khai thác than như
Đèo Nai, Cọc Sáu, Khe Sim, Thống Nhất…
Đặc biệt ở những khu khai thác lộ thiên, bề mặt địa hình thay đổi rất lớn và
nhanh, chúng chiếm một diện tích đáng kể trong vùng.
2.1.4 Đặc điểm khoáng sản
Vùng Cẩm Phả – Quàng Ninh là một vùng có tiềm năng lớn về khoáng sản.
Các công trình nghiên cứu trong vùng đã chỉ ra them trên 25 mỏ khoáng sản, 22
điểm quặng và 9 điểm khoáng hóa gồm các loại khoáng sản sau: than đá, đá vôi, đá
silic, sắt, antimony… trong các loại khoáng sản này than đá là loại địa hình khoáng
sản có quy mô lớn nhất về cả trữ lượng cũng như chất lượng.
Dựa vào mục đích sử dụng cũng như đặc điểm của chúng có thể chia ra các
nhóm khoáng sản sau:
2.1.4.1. Khoáng sản nhiên liệu
Khoáng sản nhiên liệu tring vùng chủ yếu là than đá. Ở vùng Cẩm Phả than
đá nằm trong các trầm tích của hệ tầng Hòn Gai có tuổi Nori- Reti (T 3n-r hg). Hệ
tầng này được chia ra thành 3 phân hệ tầng. Trong đó có phân hệ tầng giữa của hệ
tầng Hòn Gai là tầng chứa than chủ yếu với nhiều vỉa than có giá trị công nghiệp.
Các thành tạo của phân hệ tầng này bao gồm các đá: cuội kết, sạn kết, cát kết, bột
kết, sét kết, sét than và các vỉa than, với tổng chiều dày khoảng 1500-2000m. Trong
tầng này đã xác định được 47 vỉa than trong đó 23 vỉa đạt giá trị công nghiệp. Các



Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

vỉa than phân bố trên diện rộng của vùng nghiên cứu, trong địa hào Hòn Gai thuộc
vi thành phố Cẩm Phả, cụ thể ở các khu chính sau:
+ Khu Hà Ráng
Theo các số liệu thăm dò tỉ mỉ, thăm dò khai thác cho thấy tầng chứa than ở
đây dày khoảng 1400-1500m, chứa từ 6-20 vỉa than, có 1/3 số vỉa đạt giá trị công
nghiệp. Các vỉa than có cấu tạo khá phức tạp chiều dày tương đối ổn định, chất
lượng than trung bình, chủ yếu là than cám. Hiệu khu Hà Ráng đã và đang khai thác.
Trữ lượng khu mỏ khoảng 70 triệu tấn.
+ Khu Ngã Hai
Nằm liền kề với khu Hà Ráng, theo các số liệu địa chất đã nghiên cứu chiều
dày tầng chứa than ở đây dày từ 1700-1800m, chứa 28 vỉa than, trong đó có 19 vỉa
đạt giá trị công nghiệp. Than ở đây có chất lượng trung bình chiều dày trung bình và
duy trì ổn định. Cấu tạo vỉa than phức tạp, uốn lượn nhiều. Trữ lượng khu mỏ
khoảng 300-500 triệu tấn, hiện đã và đang được khai thác.
+ Khu Khe Tam
Đã tiến hành thăm dò chi tiết , thăm dò bổ sung và thăm dò khai thác kết quả
tài liệu cho thấy: địa tầng chứa than dày 1200m , chứa 26 vỉa than, trong đó có 13
vỉa đạt gia trị công nghiệp, tổng chiều dày trung bình của các vỉa than khoảng 45 m.
các vỉa than ở đây có cấu tạo phức tạp, phần trên ổn định hơn, các vỉa dưới thường
mỏng, vát nhọn và có ít giá trị công nghiệp. Trữ lượng than tính đến mức -350
khoảng 270 triệu tấn, khu vực này đã và đang được khai thác.
+ Khu Khe Chàm
Đã tiến hành thăm dò chi tiết và thăm dò khai thác. Tầng chứa than dày
khoảng 1800m, chứa 28 vỉa than, trong đó có 18 vỉa đạt giá trị công nghiệp. Tổng
chiều dày trung bình của các vỉa than là 65m, cấu tạo vỉa than khác phức tạp, chiều
dày thường kém ổn định, trữ lượng than tính đến mức -350m khoảng 420 ngàn tấn,

hiện nay đang được đầu tư khai thác.
+ Khu Mông Dương
Khu Mông Dương đã được thăm dò chi tiết và thăm dò khai thác. tầng chứa
than dày khoảng 600m, chứa 13 vỉa than trong đói có 8 vỉa đạt giá trị công nghiệp.
Tổng chiều dày trung bình của các vỉa than khoảng 29m. cấu tạo vỉa khá phức tạp,


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

chiều dày tương đối ổn định.chất lượng than khá tốt. Trữ lượng tính đến -350m là
54 triệu tấn , hiện nay đang được khai thác.
+ Khu Bắc Quảng Lợi
Đã tiến hành thăm dò chi tiết và thăm dò khai thác, địa tầng chứa than dày
khoảng 740m. chứa 13 vỉa than có 7 vỉa dạt giá trị công nghiệp. Tổng chiều dày
trung bình của các vỉa than khoảng 29m, cấu tạo viawr khá phức tạp và không ổn
định. Chất lượng than trung bình, trữ lượng than khoảng 67 triệu tấn.
+ Khu Khe Sim
Địa tầng chứa than dày khoảng 334m, chứa 23 vỉa than trong đói có 7 vỉa than
đạt giá trị công nghiệp. Các vỉa than ở đây có cấu tạo khá phức tạp. Tổng chiều dày
các vỉa than khoảng 56m, trữ lượng tính đến -350 m là 18,16 triệu tấn hiện nay đang
được khai thác.
+ Khu Lộ Tri
Theo các số liệu thăm dò chi tiết và thăm dò bổ sung , tang chứa than ở đây
dày khoảng 450m, chứa 7 vỉa than trong đó 3 vỉa đạt giá trị công nghiệp. Các vỉa
than ở đây có chiều dày rất lớn, toongt chiều day trung bình của các vỉa than là
120m, cấu tạo vỉa phức tạp,các vỉa thường phân ra cá vỉa khác nhau, riêng khu Lộ
Trí vỉa dày được phân ra làm 28 vỉa, chiều dày của các phân vỉa biến đổi mạnh.
Chất than tốt, trữ lượng than tính đến mức -350m là 300 triệu tấn, hiện đã và đang

khai thác.
+ Khu Đèo Nai – Cọc Sáu
Đây là khu vực chứa than có chất lượng tốt nhất trong vùng, tỉ lệ than cục xô
có độ tro <5% chiếm khoảng 40%. Tầng chứa than chiều dày khoảng 194m. Chứa 3
vỉa than dạt giá trị công nghiệp với tổng chiều dày trung bình cửa các vỉa than đến
60m. đây là khu vực có sản lượng than khai thác hàng năm lớn nhất vùng, khoảng 33,5 triệu tấn. Các vỉa than có cấu tạo phức tạp, tổng trữ lượng than cả 2 khu đạt 76
triệu tấn, năm 2004 sản lượng khai thác ở khu này đạt đến 4 triệu tấn.
Tóm lại: Than là khoáng sản chủ đạo trong vùng nghiên cứu, với trữ lượng
lớn, chất lượng tốt. Dựa trên các chỉ tiêu kĩ thuật, thành phần thạch học, các chỉ số
phân tích hóa học tính chất vật lý của than cho thấy than trong vùng có nguồn gốc
trầm tích lục địa, chủ yếu biến chất khu vực và chịu ảnh hưởng của hoạt động uốn


Trường Đại Học Mỏ – Địa Chất

Bộ môn Tìm Kiếm – Thăm Dò

nếp, đứt gãy. theo kết quả nghiên cứu thành phần thạch học của tác giả Trịnh Ich,
Nguyễn Trọng Chi (1972) đã xếp than vùng Cẩm Phả thuộc nhãn hiệu bán antrxit.
2.1.4.2. Nhóm khoáng sản kim loại
Nhóm mỏ khoáng sản này phân bố trong vùng nghiên cứu gồm 2 khoáng sản
chính sau:
a.Sắt
Trong diện tích nghiên cứu có một vài điểm mỏ nhỏ ở khu Vườn ÔI- Cửa
Ông. Sắt ở đây có nguồn gốc phong hóa thấm đọng, phân bố trong trầm tích của
phân hệ tầng Hòn Gai dưới (T3n-r hg1). Thân quặng dạng thấu kính, trữ lượng nhỏ,
sắt ở đây được sử dụng làm nguyên liệu phụ gia cho sản xuất xi măng. Thành phần
quặng chủ yếu là limonit, ít gơ tit, hàm lượng sắt từ 23-50%
b.Antimon
Quặng antimony phân bố ở khu vực: Dương Huy, Khe Chàm, Bàng Tẩy,

Đồng Mỏ nằm trong các trầm tích biến chất của hện tầng Tấn Mài. Quặng có nguồn
gốc nhiệt dịch, cấu tạo ổ, thấu kính, mạch không lien tục, dọc theo các đứt gãy.
Thành phần khoáng vật chủ yếu trong quặng là antimony, barit, fluorit… Các thân
quặng này đã được phát hiện và chính xác hóa chiều dày thay đổi từ 0,3-1,3m hàm
lượng Sb từ 7-24%. Hiện nay chưa được đánh giá lại và đầu tư khai thác.
2.1.4.3. Nhóm khoáng sản phi kim
a.Đá vôi
Đá vôi phân bố rộng rãi phía tây và nam vùng nghiên cứu, ven bờ và vịnh Bái
Tử Long. Đá màu xám đến xám sáng, cấu tạo dạng khối rắn chắc hoặc phân lơp dày,
kiến trúc vi hạt, ẩn tinh, dạng trứng cá, hạt đậu hoặc kết tinh hạt nhỏ. Thành phần
hóa học của đá vôi qua một số mẫu phân tích hóa nhữ sau: Cao 54.4%; MgO
0,29% ; Fe2O3 0,18% ; SiO2 0,2% ; Al2O3 0,007%... Trữ lượng đá vôi trong vùng
khá lớn có thể sử dụng cho sản xuất vôi, xi măng, đất đèn và rải đường. Hiện nay
đang được khai thác để phục vụ cho xây dựng, một phần đã được quy hoạch để làm
nguyên liệu sản xuất xi măng phục vụ cho nhà máy xi măng Cẩm Phả.
b. Đá Silic
Đá silic trong vùng nghiên cứu phân bố rải rác ở khu vực Quang Hanh trọng
vịnh Bái Tử Long với diện lộ nhỏ. Đá màu xám đen phân lớp dày từ 2-3cm, đá bị


×