Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Báo cáo thảo luận: chế tài trong thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.16 KB, 20 trang )

BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
STT

Họ Tên

MSV

1

Lương Thị Kiều Oanh

13D140243

2

Nguyễn Thị Oanh

3

Đỗ Thị Phúc

13D140314

4

Nguyễn Thúy Phương

13D140037

5


Nguyễn Ngọc Phượng

6

Nguyễn Văn Quang

7

Lương Trung Quân

8

Vũ Trọng Quyền

9

Bùi Thị Như Quỳnh

10

Hà Thị Quỳnh

11

Lê Văn Sơn

12

Nguyễn Phương Linh


Điểm

Ký Tên

Ghi Chú

13D140248

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Kính gửi: cô giáo bộ môn Luật kinh tế
Hôm nay 15/4/2016 , nhóm 8 tiến hành họp nhóm
Địa điểm: sân thư viện, trường Đại học Thương mại
Nội dụng thảo luận: - Pháp luật điều chỉnh căn cứ áp dụng các chế tài trong
thương mại.
-

Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm

Nhiệm vụ cụ thể như sau:
Lời mở đầu,Kết luận._Nguyễn Phương Linh
1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài trong thương mại._Nguyễn Thị Oanh,
Đỗ Thị Phúc
2. Các loại chế tài trong thương mại._Nguyễn Thúy Phương, Nguyễn Văn
Quang
3. Căn cứ áp dụng chế tài trong thương mại. _Hà Thị Quỳnh, Bùi Thị Như
Quỳnh

4. Vai trò của chế tài trong thương mại _ Vũ Trọng Quyền
5. Tính hiệu quả của chế tài trong thương mại _Lê Văn Sơn
Chỉnh sửa, tổng hợp word: Lương Thị Kiều Oanh
Slide : Lương Trung Quân
Thuyết trình: Nguyễn Ngọc Phượng
Thư ký
Nguyễn Thị Oanh

Nhóm trưởng
Lương Thị Kiều Oanh


MỤC LỤC
Lời mở đầu
1.
1.1
1.2
2.
3.

Khái niệm và đặc điểm của chế tài trong thương mại.
Khái niệm chế tài trong thương mại
Đặc điểm của chế tài trong thương mại
Các loại chế tài trong thương mại
Căn cứ áp dụng chế tài trong thương mại

3.1.Có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
3.2. Có thiệt hại vật chất xảy ra
3.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
3.4 Có lỗi của bên vi phạm

4. Vai trò của chế tài trong thương mại
5. Tính hiệu quả của chế tài trong thương mại
Kết luận

LỜI MỞ ĐẦU


Pháp luật về hợp đồng thương mại ở nước ta có trình phát triển qua từng giai
đoạn, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. trong đó một trong những
mốc lịch sử quan trọng là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm
1986. Đại hội đã thành công và thổi một làn gió mới vào tư duy kinh tế của chúng
ta bằng việc đề ra công cuộc đổi mới nền kinh tế. Đảng chủ trương xóa bỏ cơ chế
quản lí kinh tế quan liêu bao cấp cũ, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lí của nhà nước, định hướng xã
hội chủ nghĩa. Từ đó hàng loạt các văn bản pháp luật mới được ra đời và điều
chỉnh liên tục.
Hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị thường, đã gia nhập WTO,
và gần đây là TPP, các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. cùng với
tiến trình phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở ra dựa trên sự
thiết lập nền tảng pháp lí quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại và
phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Các quan hệ
hợp đồng thương mại do vậy mà cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Mặt trái
của nó là các vi phạm hơp đồng diễn ra nhiều và phổ biến hơn. Để giúp cam kết
giữa các bên được thực hiện, hoặc đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị
thiệt hại do hành vi của bên vi phạm hợp đồng và giáo dục các bên tham gia hợp
đồng tuân thủ pháp luật và có nghĩa vụ thực hiện theo thỏa thuận nhằm đảm bảo
hợp tác bình đẳng, pháp luật về chế tài trong thương mại ra đời và ngày càng hoàn
thiện hơn. Luật Thương mại ra đời năm 2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006, Luật
Thương mại ra đời trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán gia nhập WTO, nó có
vai trò là sứ mệnh lịch sử đưa Việt Nam vào WTO. Sau 10 năm thực hiện mặc dù

đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những bất cập cần
được giải quyết, sửa đổi. Chính vì vậy, Bộ Công Thương kiến nghị Chính phủ, Thủ
tướng xem xét quyết định việc nghiên cứu, trình dự án Luật Thương mại 2005 (sửa
đổi) trong năm 2017 và thông qua vào năm 2018.

1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài trong thương mại


1.1 Khái niệm chế tài trong thương mại
Theo nghĩa rộng
Theo nghĩa rộng, chế tài trong thương mại được hiểu là hình thức chế tài được cơ
quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng đối với mọi tổ chức cá
nhân có hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Khi có hành vi vi phạm pháp luật
trong thương mại thì cơ quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm sẽ có
quyền áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm. Phân tích các đặc
điểm của chế tài theo cách hiểu này thì phạm vi của nó là rất rộng. Các đặc trưng
cơ bản của chế tài theo cách hiểu ày là:
Về phạm vi áp dụng: Theo tinh thần chung của Luật thương mại 2005: mọi hành vi
vi phạm pháp luật thương mại đều bị phát hiện kịp thời và xử lí nghiêm minh. Tất
cả các hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại đều thuộc phạm vi áp dụng chế
tài. Các hành vi vi phạm pháp luật thương mại không chỉ bao gồm những hành vi
vi phạm chế độ quản lý nhà nước trong một lĩnh vực thương mại, xâm phạm trật tự
quản lí thương mại của nhà nước, mà còn gồm các hành vi vi phạm xảy ra trong
quá trình thương nhân kí kết và thực hiện hợp đồng.
Chủ thể có quyền ra quyết định áp dụng chế tài: Theo từng hành vi vi phạm mà chủ
thể áp dụng chế tài trong thương mại có thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ví
dụ Cơ quan quản lý thị trường, Công an kinh tế, Tòa án…) hay chính bên bị vi
phạm cam kết trong hợp đồng giữa các chủ thể.
Về đối tượng bị áp dụng chế tài trong thương mại: Đối tượng bị áp dụng chế tài
trong thương mại chủ yếu là thương nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong

thương mại. Đó là các chủ thể thường xuyên được thực hiện các hành vi thương
mại, là đối tượng áp dụng của luật thương mại nên phải chịu các chế tài trong
thương mại khi có các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, chế tài cũng áp dụng
với một số chủ thể không là thương nhân, ví dụ như chủ thể thực hiện hành vi kinh
doanh trái phép.
Về hình thức chế tài: Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp
luật trong thương mại mà có thể áp dụng các hình thức chế tài là các chế tài hành
chính, chế tài hình sự và các chế tài mang tính chất dân sự (hay chế tài hợp đồng).


Về mục đích áp dụng chế tài trong thương mại: Căn cứ vào hình thức chế tài được
áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại, việc
áp dụng các chế tài đó nhằm đảm bảo các mục đích sau:
+ Đối với các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm trật tự quản lý hoạt động
thương mại của nhà nước (ví dụ buôn lậu, trốn thuế…) thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự, nhằm đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi ịch của nhà nước, xã hội và của chình người
tiêu dung;
+ Đối với các hành vi vi phạm chế độ hợp đồng, chế tài nhằm đảm bảo kỉ luật hợp
đồng, ngăn ngừa mợi vi phạm hợp đồng và trừng phạt bên bị vi phạm.
Tóm lại, theo cách hiểu này chỉ cần chủ thể tham gia pháp luật thương mại có
hành vi vi phạm pháp luật thương mại đều có căn cứ áp dụng chế tài. Như vậy rất
dễ dàng để truy cứu trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức tham gia pháp luật
thương mại. Nhưng nhược điểm của nó là khi áp dụng chế tài, việc phân tích, tìm
hiểu hành vi vi phạm thì rất khó tìm quy phạm điều chỉnh và áp dụng các hình thức
chế tài cụ thể vì pháp luật quy định rất rộng, rải rác trên nhiều văn bản khác nhau.
Để tìm hiểu kĩ hơn về chế tài trong thương mại theo cách hiểu này cần một công
trình rất công phu, cần sự tham gia của nhiều người, và nghiên cứu trên nhiều
phương diện.
Theo nghĩa hẹp

Trong quan hệ giữa các thương nhân, pháp luật thương mại ra đời là cần thiết để
duy trì và bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi
một hợp đồng thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp
luật thì các bên phải thực hiện các nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng dẫn đến hậu quả bên vi phạm phải chịu
các hình thức trách nhiệm – chế tài. Đây là khái niệm chế tài hiểu theo nghĩa hẹp,
chế tài chỉ bao gồm các chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại mà bên bị
vi phạm có quyền được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng chế tài. Đó là các
biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ
thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương mại. Nếu một bên có hành
vi vi phạm hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả pháp lý (bât lợi) nhất định
do hành vi vi phạm đó gây ra. Luật thương mại 2005 quy định các loại chế tài tại


Điều 292 theo đó có các chế tài sau: (a) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (b) Phạt vi
phạm; (c) Bồi thường thiệt hại; (d) Tạm ngừng thực hiện đúng hợp đồng; (e) Đình
chỉ hợp đồng; (f) Hủy hợp đồng; (g) Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận
không trái với quy định của pháp luật.
Về bản chất chế tài trong thương mại chính là các chế tài hợp đồng, được quy
định trong các quy phạm pháp luật thương mại bao gồm những hình thức xử lý và
hậu quả pháp lý áp dụng đối với bên có hành vi vi phạm trong quá trình kí kết,
thực hiện hợp đồng trong hương mại. Để phù hợp với phạm vi nghiên cứu của đề
tài thì nhóm 8 tập trung nghiên cứu chế tài trong thương mại theo nghĩa hẹp, các
chế tài theo quy định tài Điều 292 Luật thương mại 2005, làm rõ quy định pháp
luật về nội dung của từng loại chế tài, điều kiện, thủ tục áp dụng để thấy được tầm
quan trọng của chế tài trong quan hệ thương mại.
1.2 Đặc điểm của chế tài trong thương mại:
Thứ nhất: về căn cứ phát sinh.
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là các chế tài phát sinh khi có hành vi vi
phạm hợp đồng thương mại. Khác với các loại chế tài pháp lý nói chung được áp

dụng với mọi hành vi vi phạm pháp luật, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
chỉ được áp dụng đối với những hành vi vi phạm những điều khoản mà các bên đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận nên các bên
được tự nguyện giao kết và thảo thuận những điều khoản trong hợp đồng để phù
hợp với mục đích kinh doanh của mình. Chính vì vậy, khi hợp đồng phát sinh hiệu
lực các bên sẽ phải ràng buộc với nhau về các quyền và nghãi vụ đã cam kết, mọi
hành vi vi phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng sẽ phải gánh chịu những hậu
quả pháp lý bất lợi hay những chế tài do vi phạm hợp đồng
Thứ hai: về tính chất.
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là các chế tài mang tính chất tài sản.
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp
đồng và buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Yếu tố
tài sản thể hiện ở cách thức bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, đó
là:
- Bên vi phạm phải dùng tiền (tài sản) thuộc quyền sở hữu của mình để thực hiện
nghĩa vụ nộp phạt, nghĩ vụ bồi thường thiệt hại do đã không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ cam kết trong hợp đồng. Việc nộp tiền phạt hay


bồi thường thiệt hại được thực hiện theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
hoặc theo quy định của pháp luật.
- Bên vi phạm buộc phải có những chi phí hợp lý cần thiết để thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng khi bên bị vi phạm áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng. Ví dụ như
chi phí sửa chữa sai sót, loại trừ khuyết tật của hàng hóa…
- Việc áp dụng các hình thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích vật chất của các bên.
Thứ ba: chủ thể có quyền lựa chọn và áp dụng các hình thức chế tài do vi phạm
hợp đồng trong thương mại là chủ thể có quyền và lợi ích bị vi phạm trong quan
hệ hợp đồng.
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu

bên vi phạm thực hiện một hay nhiều hình thức chế tài theo cam kết trong hợp
đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Trường hợp yêu cầu thực hiện chế tài trong
thương mại không được đáp ứng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc
Trọng tài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều này thể hiện được
quyền lựa chọn và quyết định áp dụng chế tài của bên bị vi phạm đối với bên vi
phạm hợp đồng thương mại đã ký kết. Tòa án hay Trọng tài khi được yêu cầu giải
quyết tranh chấp phải tôn trọng quyền tự định đoạt của nguyên đơn hoặc cũng có
thể là yêu cầu phản tố của bị đơn. Việc Tòa án hay Trọng tài ban hành phán quyết
buộc bị đơn phải nộp tiền phạt hay bồi thường thiệt hại thể hiện cơ quan này đã
chấp nhận một phần hay toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn chứ không thể hiện được
việc quyết định áp dụng hình thức chế tài nào hay có áp dụng chế tài hay không mà
quyền quyết định này thuộc về bên bị vi phạm.
Thứ tư: các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại sẽ được áp
dụng trực tiếp đối với bên có hành vi vi phạm trong quan hệ hợp đồng.
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm phải trực tiếp chịu trách nhiệm đối
với bên bị vi phạm không phụ thuộc vào nguyên nhân sự vi phạm là do tổ chức, cá
nhân nào gây ra. Việc bên vi phạm phải trực tiếp chịu trách nhiệm với bên bị vi
phạm thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Bên vi phạm hợp đồng phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để nộp
tiền phạt hoặc bồi thường thiệt hại.
- Bên vi phạm phải trực tiếp thực hiện nghãi vụ hợp đồng, phải trả các chi phí phát
sinh khi sửa chữa, loại trừ khuyết tật hàng hóa khi áp dụng chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng.


- Bên bị vi phạm sẽ phải chịu tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện
hợp đồng thậm chí hủy hợp đồng khi có hành vi vi phạm và lúc này lợi ích của
chính bên vi phạm cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Thứ năm: về mục đích.
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các

bên trong quan hệ hợp đồng. Xây dựng chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại
trước hết là ngăn ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm hợp đồng; khi xảy ra
hành vi vi phạm hợp đồng nhằm khôi phục lại trạng thái ban đầu, bồi hoàn những
tổn thất đã xảy ra và trừng phạt bên vi phạm. Tất cả những điều này suy cho cùng
là nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng.
Bởi khi các bên tự do thỏa thuận giao kết hợp đồng thì bất cứ hành vi vi phạm hợp
đồng nào cũng phải bị trừng phạt để bảo vệ lợi ích của chủ thể.
2. Các loại chế tài trong thương mại
2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng:
Theo Khoản 1, Điều 297, Luật thương mại 2005 quy định: “Buộc thực hiện đúng
hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng
hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi
phạm phải chịu phí tổn phát sinh”.
Mục đích của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nhằm đảm bảo
thực hiện trên thực tế hợp đồng đã kí kết. Trong nhiều trường hợp, các loại chế tài
khác như bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm không thể thay thế lợi ích từ việc
thực hiện hợp đồng đã kí kết của các bên. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác,
trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các
chế tài khác. Việc áp dụng các chế tài khác chỉ được thực hiện sau thời hạn cho
phép thực hiện đúng hợp đồng.
2.2 Phạt vi phạm
Theo Điều 300, Luật thương mại 2005: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong
hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định” .
Mặc dù cúng là chế tài tiền tệ giống như chế tài bồi thường thiệt hại nhưng phạt vi
phạm có chức năng hoàn toàn khác. Nếu như chế tài bồi thường thiệt hại nhằm


mục đích chủ yếu là bù đắp thiệt hại thì phạt vi phạm có chức năng hoàn toàn khác.

Nếu như chế tài bồi thường thiệt hại nhằm mục đích chủ yếu là bù đắp thiệt hại vật
chất cho người bị thiệt hại thì phạt vi phạm chủ yếu răn đe, trừng phạt. Căn cứ duy
nhất để bên bị vi phạm yêu cầu yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt là do hành vi
không thưc hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Bên vi phạm chỉ
cần chứng minh có sự vi phạm mà không cần phải chứng minh yếu tố lỗi.
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đông đều không quá 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm. Tuy nhiên đối với cùng một vi phạm hợp đồng thì bên bị
vi phạm chỉ được quyền lựa chọn áp dụng một trong hai chế tài là phạt vi phạm
hoặc bồi thường thiệt hại, nếu như các bên không có thỏa thuận khác. Nói cách
khác, việc áp dụng đồng thời hai loại chế tài này đối với một vi phạm chỉ xảy ra
trong trường hợp các bên đãthoa thuận trước trong hợp đồng.
2.3. Buộc bồi thường thiệt hại
Theo Khoản 1, Điều 302, Luật Thương mại 2005:” Bồi thường thiệt hại là việc bên
vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị
vi phạm.”
Chức năng chủ yếu của chế tài này là bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất,
bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm.
Thiệt hại vật chất ở đây là giá trị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra và
khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi
phạm hợp đồng. Mặc dù vậy việc tính chính xác giá trị thiệt hại vật chất là việc rất
khó có thể đạt được trong mọi trường hợp do đặc điểm cụ thể của từng loại hàng
hóa dịch vụ. Tuy nhiên các khoản thiệt hại đòi bối thường không thể cao hơn giá
trị tổn thất thực tế và khoản lợi đáng lẽ được hưởng.
2.4 Tạm ngừng thực hiện hợp đồng:
Tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng mà
theo đó, một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuê. Bên bị vi
phạm không đương nhiên có quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng khi có sự vi
phạm mà hình thức chế tài này chỉ được áp dụng trong trường hợp quy định tại
Điều 308 Luật thương mại 2005: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận



là điều kiện để tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng; hoặc trường hợp một bên vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Hậu quả pháp lí của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng là bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và hợp đồng vẫn còn có hiệu lực pháp luật.
2.5 Đình chỉ thực hiện hợp đồng thuê:
Theo Điều 310 Luật thương mại 2005 thì đình chỉ thực hiện hợp đồng là hình thức
chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó một bên chấm dứt việc thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng mua bán hàng hoá. Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng mua bán được áp
dụng khi có đủ các điều kiện: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là
điều kiện để đình chỉ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và
các trường hợp này phải không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm đối với
hành vi vi phạm hợp đồng. Hợp đồng bị đình chỉ thực hiện sẽ chấm dứt hiệu lực
ngay tại thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ, kể từ thời điểm đó các
bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng nữa và bên đã thực
hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối
ứng. Bên bị vi phạm có thể áp dụng cả hình thức chế tài buộc bồi thường theo quy
định của pháp luật song song với hình thức chế tài này.
2.6 Hủy bỏ hợp đồng thuê:
Huỷ bỏ hợp đồng mua bán là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực
hiện hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết.
Theo Điều 312 Luật Thương mại 2005 thì: Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm huỷ bỏ toàn
phần, tức là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối
với toàn bộ hợp đồng; và huỷ bỏ một phần, tức là việc bãi bỏ thực hiện một phần
nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Hậu quả pháp lý của hình thức chế tài này là phần hợp đồng hoặc hợp đồng bị huỷ
bỏ coi như không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục
thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng (hoặc phần hợp đồng), các
bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp

đồng (phần hợp đồng), nếu các bên đều có nghĩa vụ phải hoàn trả thì nghĩa vụ của
họ được thực hiện đồng thời, trường hợp không thể hoàn trả được bằng chính lợi
ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền




Các biện pháp khác do các bên thoả thuận

Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận, vì thế luật pháp không chỉ cho phép các
bên tự thoả thuận, lựa chọn áp dụng các hình thức chế tài mà luật quy định rõ điều
kiện áp dụng, hậu quả pháp lý…mà còn cho phép các bên tự do thoả thuận để đưa
ra các hình thức chế tài phù hợp với quy định của pháp luận. Các nguyên tắc này
không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế
mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại
quốc tế.
3. Căn cứ áp dụng các chế tài trong thương mại
Căn cứ áp dụng các chế tài trong thương mại là các điều kiện cần và đủ để bên
có quyền lợi bị vi phạm áp dụng các biện pháp chế tài theo thoả thuận hoặc theo
quy định của pháp luật đối với bên vi phạm hợp đồng. Cũng như nhiều loại chế tài
pháp lí khác, việc áp dụng các chế tài trong thương mại với tư cách là một chế tài
hợp đồng cần phải xét tới các yếu tố sau:
• Có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại;
• Có thiệt hại vật chất xảy ra trong thực tế;
• Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại vật chất đã xảy ra
trong thực tế;
• Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng;
3.1. Có hành vi vi phạm hợp đồng
Trong quan hệ hợp đồng hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi của một bên
trong quan hệ hợp đồng đã làm trái những gì mà pháp luật quy định hoặc trái với

nội dung các bên đã thoả thuận . Đó có thể là hành vi không thực hiện, thực hiện
không đúng hay không đầy đủ một phần hoặc toàn bộ những nghĩa vụ thoả thuận
trong hợp đồng( ghi vào các điều khoản trong hợp đồng(, mà phải thực hiện các
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Cơ sở pháp lí để đánh giá tính trái pháp luật của hành vi vi phạm, chính là
những thoả thuận được hình thành trong hợp đồng có hiệu lực ràng buộc đối với họ
và những quy định của pháp luật về hợp đồng. Khi hợp đồng được hình thanh,
nghĩa vụ của hợp đồng phải được các bên nghiêm chỉnh thực hiện, trừ trường hợp
các bên thoả thuận với nhau về việc thay đổi, đình chỉ hoặc huỷ bỏ hợp đồng. Việc
các bên trong quan hệ hợp đồng đã cùng nhau thoả luận về các điều khoản chủ yếu
của hợp đồng như: đối tượng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh


toán, địa điểm và thời gian nhận hàng hoá hoặc công việc cũng như nội dung khác
trong hợp đồng, được xem là căn cứ đánh giá có hay không vi phạm trong hợp
đồng.
Trong thực tiễn hoạt động thương mại, các loại hành vi vi phạm thường gặp bao
gồm:
+ Hàng vi thực hiện không đúng điều khoản về số lượng, thời hạn giao nhận
hang hoá, dịch vụ ( giao hang thiếu, giao hang chậm, từ chối không chịu tiếp nhận,
sản phẩm hàng hoá từ hợp đồng…)
+ Không thực hiện đúng điều khoản về chất lượng hàng hoá, dịch vụ, địa điểm
giao nhận hàng hoá, dịch vụ…
+ Không thực hiện đúng về điều khoán giá cả, thanh toán...
Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi vi phạm nào cũng mang lại hậu quả bất lợi
đối với bên vi phạm. Trong một số trường hợp, hợp đồng không được thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nhưng chủ thể thực hiện hành vi đó không bị áp dụng
các chế tài trong thương mại. Đó là khi nghĩa vụ hợp đồng không được thực hiện
hoàn toàn do lỗi của bên có quyền hoặc do sự kiện bất khả kháng. Chính vì vậy, để
áp dụng chế tài trong thương mại, đặc biệt là để buộc bên vi phạm phải thực hiện

nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, còn phải xét đến các yếu tố như lỗi, thiệt hại thực
tế…
3.2. Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra
Thiệt hại là sự mất mát hoặc giảm sút về lợi ích vật chất hoặc tinh thần được
pháp luật bảo vệ. Thiệt hại vật chất thực tế được hiểu là sự biến đổi theo chiều
hướng xấu trong tài sản của bên bị vi phạm thể hiện ở những tổn thất thực tế tính
được bằng tiền mà bên đó gánh chịu. Thiệt hại vật chất thực tế do vi phạm hợp
đồng mua bán gây ra là căn cứ bắt buộc phải có khi áp dụng chế tài bồi thường
thiệt hại. Đối với các hình thức chế tài thương mại khác, thiệt hại thực tế có thể
được coi là tình tiết xác định mức độ nặng nhẹ của chế tài được áp dụng.
Trong các quan hệ thương mại thiệt hại vật chất xảy ra có thể là:
+ Giá trị tài sản mất mát, hư hỏng;
+ Chi phí thực tế hợp lí để ngăn chặn và hạn chế tổn thất;
+ Lợi nhuận bị bỏ lỡ thể hiện ở phần chênh lệch giá bán ( mua) hang hoá dịch
vụ trên thực tế so với giá bán ( mua) hàng hoá dịch vụ đó theo hợp đồng đã kí
kết….


Việc chậm thanh toán tiền hàng, phí dịch vụ và các chi phí khác đều làm phát
sinh quyền đòi tiền lãi chậm trả của bên bị vi phạm, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Như vậy, theo quy định của Luật Thương mại 2005, những thiệt hại phi vật chất
như tổn hại uy tín của thương nhân, uy tín, nhãn hiệu hàng hoá thương phẩm…
không thuộc nghĩa vụ bồi thường của bên vi phạm
3.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng với thiệt hại
thực tế.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế đươc xác
định khi hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế có mối quan hệ nội tại, tất
yếu. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Tuy
nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại

xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích ,
đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện.
Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng
trách nhiệm của người gây thiệt hại. Điều này đòi hỏi bên vi phạm phải dựa trên
những chứng cứ rõ ràng xác thực và hợp pháp.
Chế tài thường dùng:
-Bồi thường thiệt hại: Được áp dụng để khôi phục bù đắp những lợi ích vật chất bị
mất mát của bên bị vi phạm.
3.4 Có lỗi của bên vi phạm.
Khái niệm lỗi là khái niệm thuộc về yếu tố chủ quan, thể hiện thái độ của chủ thể
đối với hành vi xử sự của mình. Trong khoa học pháp lí, lỗi được hiểu là trạng thái
tâm lí của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. Như vậy, việc
xác định có lỗi hay không có lỗi được đặt ra khi một chủ thể nào đó thực hiện hành
vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể thưc hiện hành vi vi phạm đều bị coi là có lỗi
bởi vì vấn đề này còn phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh khách quan và sự
nhận thức của chủ thể hành vi. Vì vậy, một hành vi được coi là có lỗi khi người đó
lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi trong khi có đủ điều kiện và hoàn cảnh


khách quan có thể lựa chọn cách xử sự khác theo yêu cầu và đòi hỏi của pháp luật
cũng như các chủ thể khác.
Lỗi trong vi phạm nghĩa vụ dân sự nói chung và trong vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
thương mại là lỗi suy đoán bởi hành vi của bên vi phạm là hành vi trái pháp luât
hoăc trái với cam kết hợp đồng nên người thực hiện hành vi bị suy đoán là có lỗi
và họ sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về hành vi đó. Do vây, để bên bị vi phạm áp
dụng chế tài với bên vi phạm, nghĩa vụ chứng minh có lỗi hay không có lỗi thuộc
về các bên bị vi phạm.
Các chế tài thường dùng:
-Buộc thực hiện đúng hợp đồng: Trong thời gian áp dụng chế tài này bên bị vi

phạm có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp
dụng các chế tài khác. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài này trong
thời gian do bên bị vi phạm ấn định thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng chế tài
khác để bảo vệ quyền lợi của mình.
-Phạt vi phạm: Bên vi phạm sẽ trả cho bên bị vi phạm 1 khoản tiền nhất định do
các bên thỏa thuận trong hợp đồng
-Bồi thường thiệt hại: Được áp dụng để khôi phục bù đắp những lợi ích vật chất bị
mất mát của bên bị vi phạm
4. Vai trò của chế tài trong thương mại
Chế tài trong thương mại là điều kiện cần thiết đảm bảo cho những cam kết của các
bên được thực hiện, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi mà các yếu tố cạnh
tranh luôn là động lực cho sự phát triển của chính các thương nhân.
Thương nhân có quyền tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm, tự mình
quyết định kinh doanh cái gì, kinh doanh cùng với ai và kinh doanh như thế nào.
Hợp đồng là công cụ để thương nhân tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh
và là cơ sở pháp lí để áp dụng chế tài trong thương mại đối với bên vi phạm.
4.1. Nâng cao ý thức kỉ luật trong việc thực hiện hợp đồng trong thương mại
Kỉ luật hợp đồng đòi hỏi các bên nghiêm chỉnh chấp hành đầy đủ các quy định của
pháp luật về hợp đồng cũng như tự nguyện thi hành các cam kết trong hợp đồng


mà các bên đã xây dựng. Hiện nay, trong cơ chế thị trường, việc kí kết hợp đồng là
quyền của các chủ thể, pháp luật tạo ra hành lang pháp lí thông thoáng cho các bên
trong quá trình tự do kinh doanh, tự do hợp đồng. Khi các chủ thể tự nguyện kí kết
hợp đồng thì các cam kết lại là cơ sở để ràng buộc các bên với nhau. Mặc dù, có
thể một bên biết rằng việc tiếp tục thực hiện hợp đồng là đem lại hậu quả bất lợi
cho mình, nhưng nếu không thực hiện nghĩa vụ, bên bị vi phạm có quyền tự bảo vệ
quyền lợi bằng cách áp dụng các chế tài hợp đồng, buộc bên vi phạm phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi về tài sản do các hành vi vi phạm đã gây ra. Điều đó
khẳng định, chế tài hợp đồng có vai trò trong việc hình thành và củng cố thái độ

tích cực của các bên đối với nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng.
4.2. Đảm bảo quyền tự do hợp đồng
Tự do hợp đồng theo pháp luật hiện hành được hiểu rất rộng đó là thương nhân
được tự do lựa chọn đối tác, tự do lựa chọn hình thức hợp đồng, tự nguyện quyết
định việc giao kết hợp đồng, tự do xác định nội dung cụ thể của hợp đồng trên cơ
sở pháp luật quy định, tự do sửa đổi, bổ sung hay chấm dứt hợp đồng. Song việc
sửa đổi, bổ sung hay chấm dứt việc thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
nếu không xuất phát từ ý chí thỏa thuận của các bên, lúc này nghĩa vụ được hình
thành trong hợp đồng là điều kiện ràng buộc các bên trong quan hệ hợp đồng với
nhau. Mọi hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ cam
kết đều có thể có nguy cơ bị áp dụng các chế tài hợp đồng.
Thực tế, mục đích của hoạt động kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Thông
qua hoạt đông kinh doanh con người muốn làm tăng thêm giá trị vật chất cho xã
hội, mà trước hết là cho nhà kinh doanh. Nếu không có các biện pháp cần thiết thì
quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng luôn luôn có nguy cơ bị chèn ép hoặc
cạnh tranh không lành mạnh. Chính vì thế, việc áp dụng các chế tài hợp đồng như:
(a) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (b) Phạt vi phạm, (c) Bồi thường thiệt hại; (d)
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ hợp đồng; (g)
Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật là
những biện pháp hữu hiệu đảm bảo tính khả thi cho quyền tự do hợp đồng.
4.3. Bảo vệ lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước, lợi nhuận mà các thương
nhân có được phải là lợi ích kinh tế hợp pháp, được nhận từ việc thực hiện nghiêm


chỉnh nghĩa vụ của hợp đồng. Nhưng do mục đích này thương nhân có thể có nhiều
hành vi vi phạm khác nhau dẫn đến việc không thực hiện, thực hiện không đúng
hoặc không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng làm ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích hợp pháp
của bên bị vi phạm, thậm chí có thể làm phát sinh nghĩa vụ về tài sản của bên bị vi
phạm với bên thứ ba. Hành vi vi phạm hợp đồng luôn tiềm ẩn nguy cơ xâm hại lợi

ích của bên bị vi phạm (làm mất mát, hư hỏng hàng hóa, giảm sút thu nhập, lợi
nhuận…). Để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm, bên bị vi phạm có thể tự mình
hoặc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các hình thức chế tài đối với bên
vi phạm (buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm
ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng). Không chỉ như
vậy, chế tài trong thương mại cũng bảo vệ quyền lợi của bên vi phạm, việc quy
định rõ trong luật các trường hợp miễn trách nhiệm, các căn cứ, thủ tục áp dụng,
mức phạt… cũng bảo đảm bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình đúng theo mức độ vi phạm, bảo vệ bên vi phạm trong các hiện tượng tiêu cực
khi xử lí vi phạm, điều đó giúp các bên có thể thực hiện hợp đồng yên tâm hơn.
4.4. Phòng ngừa vi phạm pháp luật hợp đồng
Luật thương mại cho phép áp dụng chế tài hợp đồng đối với tất cả hành vi vi phạm
hợp đồng trong thương mại, kể cả trường hợp các bên không thỏa thuận nhưng chế
tài hợp đồng vẫn có thể được áp dụng theo quy định của pháp luật, ngoại trừ
trường hợp bên bị vi phạm từ chối không áp dụng chế tài hợp đồng đối với bên bị
vi phạm hay rơi vào trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong trường hợp một bên vi phạm hợp đồng, thì họ đều có thể bị đe dọa
gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Nếu chưa có hành vi vi phạm hợp
đồng, việc quy định các chế tài trong thương mại mang tính “phòng ngừa” các biểu
hiện vi phạm pháp luật hợp đồng, nâng cao ý thức trách nhiệm và thái độ tích cực
hợp tác của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong quá trình thựchiện hợp đồng,
nếu phát sinh vi phạm hợp đồng, các chế tài hợp đồng được bên bị vi phạm áp
dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Đó có thể là các chế tàibuộc thực hiện đúng
hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình
chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng để trừng phạt và bồi hoàn tổn thất do hợp đồng bị
vi phạm. Quy định về trách nhiệm hợp đồng có tác dụng rất mạnh mẽ vào ý thức
các bên, nâng cao tinh thần trách nhiệm hợp tác, thực hiện các nghĩa vụ trong hợp
đồng, khi nắm được các hành vi đó là vi phạm và phải chịu chế tài thì sẽ không
thực hiện, qua đó ngăn ngừa viphạm xảy ra



Như vậy, việc quy định cụ thể các nguyên tắc và căn cứ áp dụng các chế tài hợp
đồng trong thương mại, Luật thường mại 2005 đã khẳng định vai trò của mình là
rất quan trọng trong việc phòng ngừa mọi biểu hiện vi phạm pháp luật hợp đồng.
Ngoài ra góp phần giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện các
điều khoản hợp đồng mà các bên đã thiết lập.
5.Tính hiệu quả của chế tài trong thương mại
Chế tài trong thương mại có nội dung chủ yếu là các quy định về căn cứ áp
dụng các trách nhiệm , các hình thức trách nhiệm và các trường hợp miễn trách
nhiệm . Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mà đặc điểm cơ
bản là : được áp dụng trên cơ sở hành vi vi phạm hợp đồng có hiệu lực pháp luật ;
nội dung gắn liền với việc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trách nhiệm
về tài sản; do các cơ quan , tổ chức có thẩm quyền quyết định áp dụng hoặc do bên
bị vi phạm áp dụng trên cơ sở pháp luật .
Buộc thực hiện đúng hợp đòng là hình thức chế tài nhằm đảm bảo thực hiện
hợp đồng đã ký kết giữa các bên , do lúc ký kết hợp đòng các bên đều xuất phát từ
mục đích lợi nhuận , chứ không phải lợi ích từ việc nộp phạt hay bồi thường của
bên đối tác . Áp dụng chế tài này giúp tránh việc kéo dài thời gian thực hiện hợp
đồng không ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của họ mà không làm mất thiện trí hợp
tác giữa các bên trong hợp đồng.
Phạt vi phạm hợp đồng là chế tài tiền tệ , chế tài này nhằm trừng phạt ,phòng
ngừa vi phạm hợp đòng giữa các bên, qua đó giáo dục nâng cao ý thức pháp luật
hợp đồng, củng cố kỷ luật hợp đồng , bảo đảm sự lành mạnh trong các quan hệ
kinh tế .
Bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài dùng để bù đắp những thiệt hại vật
chất thực tế cho bên bị vi phạm .Do vậy , số tiền bồi thường đó sẽ phải đảm bảo
bồi hoàn , bù đắp và khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên có quyền lợi khi
hợp đồng được thực hiện đúng.
Tạm ngừng đình chỉ hủy bỏ hợp đồng là chế tài nhằm trừng phạt và thái đọ
nghiêm khắc của bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng .Khi áp dụng các chế tài

này , bên bị vi phạm hợp đồng áp dụng chế tài bằng cách không thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng được xem như là sự “tự vệ” của bên bị vi phạm trước hành vi vi


phạm hợp đồng của bên kia . Khi áp dụng các chế tài này , sự bất lợi mà bên vi
phạm phải gánh chịu cơ bản ở chỗ bên vi phạm không được đáp ứng các quyền
theo thỏa thuận trong hợp đồng, do bên bị vi phạm không phải thực hiện các nghĩa
vụ tương xứng . Mặt khác bên bị vi phạm áp dụng chế tài này vẫn có quyền yêu
cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật .


KẾT LUẬN

Đã hơn 10 năm kể từ khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực. Theo Bộ Công
Thương, so sánh với Luật Thương mại 1997, những điều chỉnh, bổ sung mới các
quy định của Luật Thương mại 2005 đã đem lại những tác động tích cực rất to lớn
cho hoạt động thương mại. Điều đó thể hiện ở chỗ hoạt động thương mại tăng
trưởng rất mạnh bao gồm sự sôi động của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đồng
thời với hoạt động thương mại nội địa; xuất hiện ngày càng nhiều các phương thức
hoạt động thương mại mới; cơ cấu hàng hóa đã khác xa so với cơ cấu hàng hóa các
năm 2005 trở về trước; số lượng thương nhân tham gia hoạt động thương mại ngày
càng lớn.
Tuy nhiên trên thực tế, theo Vụ Pháp chế (Bộ Công Thương), trong quá trình
hội nhập, các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại diễn ra ngày càng phức tạp,
khó lường trong khi quản lý. Một số phương thức hoạt động thương mại mới đang
hình thành và phát triển, nhưng cơ sở pháp lý cho hoạt động này còn thấp hoặc
chưa cụ thể mà chủ yếu nằm ở các văn bản dưới Luật…
Do vậy, sửa đổi Luật Thương mại là cần thiết để tránh những rủi ro cho
thương nhân, doanh nghiệp và tạo sự minh bạch, ổn định cho môi trường kinh
doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.




×