Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Báo cáo thảo luận: So sánh thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở nước ta trong 2 năm 20142015 và đưa ra nhận định về thực trạng đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 16 trang )

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN CỦA NHÓM 11:
So sánh thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở nước ta trong 2
năm 2014-2015 và đưa ra nhận định về thực trạng đó .
BÀI LÀM
I.Thực trạng thương mại điện tử nước ta 2014
A. Số liệu :
( Các số liệu đều được trích dẫn từ báo cáo của Cục TMĐT và CNTT –
Bộ Công Thương)
1.1. GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ DOANH NGHIỆP VỚI
NGƯỜI TIÊU DÙNG (B2C)
a. Sử dụng email trong kinh doanh
Tương tự như năm 2013, email tiếp tục là một công cụ quan trọng hỗ trợ
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc khai thác lợi ích của email đã
đi vào chiều sâu nhằm giao kết và thực hiện hợp đồng. Không có sự thay đổi lớn
trong việc sử dụng email để giao dịch và chăm sóc khách hàng.
b. Website thương mại điện tử
Tỷ lệ doanh nghiệp có website là 45%, tăng không đáng kể so với tỷ lệ
này của năm 2013. Trong đó, 47% doanh nghiệp cho biết đã cập nhật thông tin
hàng ngày trên website, 32% cập nhật hàng tuần, còn lại 21% doanh nghiệp
trung bình mỗi tháng chỉ cập nhật một lần. 41% doanh nghiệp đã cử cán bộ phụ
trách website. Tỷ lệ website có tính năng đặt hàng trực tuyến là 58%, cao hơn
đáng kể so với năm 2013.Trong khi đó tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực
tuyến là 15% và hầu như không đổi so với năm 2013. Đón nhận xu hướng người
tiêu dùng ngày càng chuyển mạnh sang mua sắm trên các thiết bị di động, 15%
doanh nghiệp đã xây dựng phiên bản di động cho website của mình. Năm 2014
chứng kiến mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất để quảng bá website với tỷ lệ
lên tới 50%, tiếp đó là các công cụ tìm kiếm.
c. Sàn thương mại điện tử
Tỷ lệ các doanh nghiệp tham gia các sàn thương mại điện tử của năm
2014 là 15%, tăng hơn tỷ lệ 12% của năm 2013 và 11% của năm 2012. Các tỷ lệ
1



1


này phản ánh xu hướng các doanh nghiệp càng ngày càng quan tâm tới việc khai
thác những lợi ích do các sàn thương mại điện tử mang lại. d. Kinh doanh trên
các mạng xã hội Mạng xã hội đã trở thành phương tiện hỗ trợ kinh doanh với
nhiều doanh nghiệp. Năm 2014 có tới 24% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho
biết đã sử dụng các mạng xã hội phục vụ kinh doanh. Một nửa doanh nghiệp cho
biết hiệu quả kinh doanh trên mạng xã hội mới ở mức trung bình nhưng có tới
16% cho rằng có hiệu quả cao.
e. Kinh doanh qua các ứng dụng di động
Khoảng 10% doanh nghiệp cho biết đã sử dụng các ứng dụng trên nền
thiết bị di động để phục vụ hoạt động kinh doanh. Nhưng 43% doanh nghiệp cho
rằng hiệuquả ở mức thấp, 44% đánh giá ở mức trung bình và mới có 13% cho là
có hiệu quả cao.
f. Thanh toán
Về tổng thể kết quả điều tra năm 2014 chưa cho thấy sự thay đổi đột phá
nào trong việc thanh toán không dùng tiền mặt.Hầu như tất cả doanh nghiệp đều
sử dụng hình thức chuyển khoản qua ngân hàng.Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng ví
điện tử và thẻ cào hầu như không thay đổi so với năm 2013.Trong khi đó tỷ lệ
doanh nghiệp sử dụng thẻ thanh toán thấp hơn đáng kể so với năm trước.Các tỷ
lệ này có thể phản ảnh cuộc điều tra năm 2014 mở rộng tới nhiều doanh nghiệp
ở các tỉnh nghèo.
1.2. GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ DOANH NGHIỆP VỚI
DOANH NGHIỆP (B2B)
a. Sử dụng các phần mềm quản lý
Các doanh nghiệp tham gia điều tra năm 2014 đã có bước tiến đáng kể
trong việc triển khai các phần mềm quản lý nhân sự và kế toán, tài chính.Có
88% doanh nghiệp đã ứng dụng các phần mềm kế toán và tài chính, 49% doanh

nghiệp triển khai phần mềm quản lý nhân sự.Các tỷ lệ này không thay đổi nhiều
so với năm 2013. Tương tự, đối với nhóm phần mềm quản lý khách hàng
(CRM), quản lý chuỗi cung ứng (SCM) và quản trị nguồn lực doanh nghiệp
(ERP), tình hình chung không có sự khác biệt so với năm trước. 24% doanh
2

2


nghiệp tham gia điều tra cho biết đã ứng dụng phần mềm CRM, 22% sử dụng
phần mềm SCM và 17% đã ứng dụng phần mềm ERP.
b. Nhận đơn đặt hàng qua các phương tiện điện tử
Năm 2014 có 78% doanh nghiệp đã sử dụng email để nhận đơn đặt hàng
và 29% doanh nghiệp đã nhận đơn đặt hàng qua website. Quy mô của các hợp
đồng bán hàng trực tuyến có thể được thể hiện qua tỷ lệ tổng giá trị các đơn
hàng doanh nghiệp đã nhận qua hai hình thức trên so với tổng doanh thu của
doanh nghiệp. Kết quả cho thấy phần lớn các doanh nghiệp (51%) có giá trị giao
kết hợp đồng trực tuyến dưới 20% doanh thu, 33% doanh nghiệp có giá trị này
bằng 21-50% doanh thu và chỉ có 16% doanh nghiệp có giá trị giao kết hợp
đồng trực tuyến chiếm từ 51% trở lên. Chất lượng xử lý các đơn mua hàng trực
tuyến và dịch vụ chuyển phát chưa cao, năm 2014 mới có 22% doanh nghiệp
cho biết việc xử lý đơn đặt hàng và phân phát sản phẩm có thể được tiến hành tự
động và được giám sát qua hệ thống kiểm tra trực tuyến.
c. Đặt hàng qua các phương tiện điện tử
Tương tự như năm 2013, có sự không đối xứng của việc sử dụng website
để đặt hàng và nhận đơn đặt hàng. Trong khi chỉ có 29% doanh nghiệp chấp
nhận đặt hàng qua website của mình thì có tới 40% doanh nghiệp đặt hàng qua
website của các đối tác kinh doanh. Trong khi đó, đối với email có sự đối xứng
rõ ràng giữa việc đặt hàng với nhận đơn đặt hàng. Tỷ lệ đặt hàng (mua) qua
email là 76% khá cân bằng với tỷ lệ 78% nhận đơn đặt hàng (bán) qua email.

Quy mô của các hợp đồng mua hàng trực tuyến có thể được thể hiện qua tỷ lệ
tổng giá trị các đơn hàng doanh nghiệp đã mua qua hai hình thức trên so với
tổng chi phí của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy phần lớn các doanh nghiệp
(55%) có giá trị mua hàng trực tuyến dưới 20% chi phí, 31% doanh nghiệp có
giá trị này bằng 21-50% chi phí và chỉ có 13% doanh nghiệp có giá trị mua hàng
trực tuyến chiếm từ 51% trở lên.

3

3


1.3. GIAO DỊCH GIỮA CHÍNH PHỦ VỚI DOANH NGHIỆP (G2B)
a. Tra cứu thông tin trên các website cơ quan nhà nước tại địa phương
Tình hình các doanh nghiệp truy cập các website của các cơ quan nhà
nước để thu thập thông tin phục vụ hoạt động kinh doanh năm 2014 có sự tiến
bộ so với năm 2013. Đã có 42% doanh nghiệp cho biết thường xuyên truy cập
website của các cơ quan nhà nước, cao hơn tỷ lệ 31% của năm 2013.
b. Sử dụng dịch vụ công trực tuyến
Sự tiến bộ cũng được thể hiện rõ ở tỷ lệ các doanh nghiệp đã sử dụng các
dịch vụ công trực tuyến liên quan tới các thủ tục thông báo, đăng ký, cấp phép…
Năm 2014 đã có 57% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến, cao hơn tỷ
lệ 48% của năm 2013.
c. Lợi ích của dịch vụ công trực tuyến
Sự tiến bộ của chính phủ điện tử đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp không chỉ được thể hiện ở mức độ truy cập website của cơ quan nhà
nước và sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Sự tiến bộ này thể hiện rõ nhất ở đánh
giá của doanh nghiệp đối với lợi ích của các dịch vụ công trực tuyến.Có 39%
doanh nghiệp đánh giá dịch vụ công trực tuyến rất có ích cho hoạt động kinh
doanh của mình.Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tỷ lệ 25% của năm 2013.

1.4. MỨC ĐỘ ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG
CỘNG ĐỒNG Năm 2014.
Cục TMĐT và CNTT – Bộ Công Thương tiến hành khảo sát tình hình
ứng dụng TMĐT với hơn 900 cá nhân có sử dụng Internet trong phạm vi cả
nước. Hình thức khảo sát phần lớn là trả lời trực tuyến và điền phiếu trực tiếp
1.4.1. Mức độ sử dụng Internet
Theo khảo sát của Cục TMĐT và CNTT có 10% số người tham gia khảo
sát cho biết thời lượng sử dụng Internet mỗi ngày là dưới 3 giờ. 36% số người
tham gia khảo sát sử dụng Internet từ 3 – 5 giờ mỗi ngày.Thời điểm được nhiều
người truy cập Internet nhất là từ 20h đến 24h (53%), theo sau là thời gian từ 8h
đến 12h (24%), và 16h đến 20h (13%).
4

4


Máy tính xách tay và điện thoại di động tiếp tục là phương tiện phổ biến
nhất được người truy cập Internet sử dụng, với tỷ lệ tương ứng là 75% và 65%.
Số lượng người dân truy cập Internet qua các thiết bị khác như máy tính bảng
cũng tăng mạnh với 19% từ năm 2010 đến năm 2014. Máy tính để bàn từng là
phương tiện phổ biến nhất năm 2010, chiếm 84% lượng người sử dụng; năm
2014 chỉ còn 33% người tham gia khảo sát tiếp cận qua phương tiện này.90% số
người khảo sát cho biết địa điểm truy cập Internet thường xuyên là tại nhà. Địa
điểm phổ biến thứ hai là nơi làm việc chiếm 48%.Các địa điểm công cộng,
trường học, cửa hàng Internet chiếm tỷ lệ tương ứng là 22%, 16% và 5%.
Cập nhật thông tin tiếp tục là mục đích sử dụng Internet hàng ngày phổ
biến nhất, tăng từ 87% năm 2013 lên 93,5% năm 2014. Đa số người tham gia
khảo sát sử dụng Internet hàng ngày để tham gia các diễn đàn, mạng xã hội
(81,2%), truy cập e-mail (73,8%), xem phim ảnh, nghe nhạc (64,8%), và nghiên
cứu học tập (63,9%). Đối với các hoạt động như mua bán cá nhân, phần lớn

người khảo sát có tần suất hoạt động hàng tháng (36,2%).
1.4.2. Tình hình tham gia thương mại điện tử trong cộng đồng
Kết quả khảo sát của Cục TMĐT và CNTT với người dân có mua sắm
trực tuyến năm 2014 cho thấy, 58% số người truy cập Internet đã từng mua hàng
trực tuyến.Loại hàng hóa được mua trực tuyến phổ biến là đồ công nghệ và điện
tử chiếm 60%, tăng 25% so với năm 2013. Các mặt hàng được người tiêu dùng
trực tuyến ưa chuộng khác là quần áo, giày dép, mỹ phẩm (60%), sau đó đến đồ
gia dụng (34%), sách và văn phòng phẩm (31%)…Kết quả khảo sát cũng cho
thấy, 71% người tham gia khảo sát đã mua hàng trực tuyến thông qua website
bán hàng hóa/ dịch vụ, tăng 10% so với năm 2013. Số người sử dụng các diễn
đàn mạng xã hội để mua sắm trực tuyến cũng tăng từ 45% năm 2013 lên 53%
năm 2014. Số người mua qua các website mua hàng theo nhóm giảm mạnh từ
51% năm 2013 xuống còn 35% năm 2014. 25% đối tượng cho biết có mua hàng
qua các sàn giao dịch TMĐT và 13% qua ứng dụng mobile trong năm 2014.Tiền
mặt vẫn là hình thức thanh toán chủ yếu trong các giao dịch mua bán trực tuyến,
chiếm 64%, giảm 10% so với năm 2013. Hình thức chuyển khoản qua ngân
5

5


hàng cũng giảm từ 41% năm 2013 xuống còn 14% năm 2014. Thay vào đó, số
lượng người sử dụng ví điện tử lại tăng từ 8% năm 2013 lên 37% năm 2014.
1.4.3. Hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử trong cộng đồng
Theo kết quả điều tra khảo sát năm 2014, 6% người mua hàng trực tuyến
trả lời rất hài lòng với phương thức mua hàng này. 41% người mua trả lời hài
lòng, tăng đáng kể so với tỷ lệ 29% của năm 2013. 48% người mua cho biết cảm
thấy bình thường và chỉ 5% số người được hỏi trả lời không hài lòng.Cũng theo
kết quả điều tra khảo sát, 40% người mua hàng trực tuyến trả lời chỉ mua dưới 5
sản phẩm dịch vụ trong năm 2014, 29% mua từ 5 đến 10 sản phẩm dịch vụ, và

17% mua trên 15 sản phẩm dịch vụ.Giá trị sản phẩm dịch vụ người mua hàng
chọn mua nhiều nhất là mức từ 1 đến 3 triệu đồng, chiếm 29%. Theo sau là mức
trên 5 triệu đồng với 26% người chọn mua, và mức được ít người chọn mua nhất
là từ 3 đến 5 triệu đồng với 11%.Khảo sát cũng cho thấy uy tín của người bán
hay website bán hàng chính là yếu tố người mua sắm trực tuyến quan tâm nhất,
740 người đã lựa chọn yếu tố này, tương ứng với tỷ lệ 81%. Yếu tố giá cả cũng
được 80% người mua quan tâm, theo sau là cách thức đặt hàng, thanh toán và
giao nhận hàng hóa (68%), và thương hiệu của sản phẩm, dịch vụ (64%).

6

6


B. THỰC TẾ
Năm 2014 là năm bùng nổ của ứng dụng thương mại điện tử.
“Khách hàng mong muốn được nhận hàng ngay, hưởng thụ dịch vụ
ngay lập tức. Để đáp ứng nhu cầu đó, buộc các doanh nghiệp phải có công
cụ kết nối với người tiêu dùng. Thay vì làm web, dịch chuyển công cụ bằng
app dành cho thiết bị di động sẽ nối kết khách hàng nhanh hơn”, bà Phạm
Trang Phương Dung, quản lý cấp cao của Uber tại Việt Nam, nhận xét.
Với tiêu chí này, các nhà bán lẻ, từ nhỏ đến lớn, đua nhau giới thiệu ứng
dụng riêng (gọi tắt là app) dành cho các thiết bị di động: smartphone, tablet… để
khách hàng mua sắm bất kỳ ở đâu, miễn là có sóng 3G hoặc wifi.
Đầu năm 2014, Lazada là nhà kinh doanh theo phương thức TMĐT đầu
tiên tung ra app. Sau đó, đến lượt sàn giao dịch Sendo (FPT), Tiki, Zalora, Chợ
Tốt, Thế Giới Di Động, Nguyễn Kim… cũng tung ra app.
Theo số liệu của Google Play, hiện app của Lazada (phiên bản 2.0) có
nhiều người dùng tải nhất, trên 11 triệu lượt tải. Tiki, Sendo, Thế Giới Di Động,
Chợ Tốt… đã vượt qua con số hàng triệu lượt tải.

Các doanh nghiệp thanh toán trực tuyến cũng đã tung ra app trên thị
trường. MoMo (chủ sở hữu là công ty M_Service) đã xuất hiện dưới hình thức
app từ tháng 5/2014.
Các doanh nghiệp kinh doanh vận tải và dịch vụ vận tải hành khách như
Grab, Uber, Easy, Vinasun… cũng đã có riêng app để khách hàng đặt xe.

7

7


Thế nhưng…
8

8


Năm 2014, theo khảo sát của công ty nghiên cứu thị trường TNS và
Google thực hiện, người tiêu dùng Việt Nam sử dụng smartphone chủ yếu để
vào mạng xã hội, lướt web, tìm kiếm thông tin…, còn sử dụng smartphone cho
hoạt động thương mại chỉ chiếm 28%!
C. KHÓ KHĂN Ở ĐÂU ?
1.1. Thị phần nhỏ bé
Thị phần và các loại hình thương mại điện tử tại Việt Nam, hiện nay chỉ
mới được khoảng hơn 2 triệu khách hàng mua hàng qua TMĐT - con số quá bé
so với hơn 35 triệu người dùng Internet và dân số 90 triệu người dân Việt Nam.
1.2. Thói quen mua hàng
Vẫn tâm lý ra cửa hàng tạp hoá đầu ngõ để mua những đồ dùng thiết yếu
hay ra
các cửa hàng offline để mua sắm các đồ dùng, đồ thời trang và đồ công

nghệ.
- Thói quen thích nhìn tận mắt, sờ tận tay
- Thói quen thanh toán bằng tiền mặt
1.3. Hạ tầng thanh toán
- Thanh toán qua thẻ còn ít
- Các bước thanh toán qua internet banking rắc rối và không nhất quán
giữa các
ngân hàng
- Thẻ chủ yếu dùng để nhận lương và rút tiền tại ATM
- Chi phí giao dịch cao
- Hình thức thanh toán chưa đa dạng
- Cơ chế hoàn tiền còn chậm và chưa rõ ràng
1.4. Dịch vụ giao nhận
- Chưa có đơn vị thứ 3 thực sự chuyên nghiệp để đảm bảo tốt dịch vụ
giao nhận mà không ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ, hầu hết các đơn vị làm
9

9


TMĐT đều phải tự xây dựng đội ngũ giao nhận để nắm quyền chủ động trong
việc kiểm soát và điều phối hiệu quả cũng như chất lượng phục vụ khách hàng.
Nhận ra những bất cập năm 2014, vào đầu năm 2015 các ông lớn vào
cuộc:
Ông Nhật Linh của Thế Giới Di Động nói rằng, để khách hàng chú ý
nhiều đến mua sắm online, quan điểm của Thế Giới Di Động là “cân bằng
những giá trị dành cho khách hàng, từ web đến web mobile và app.Không chỉ
cho họ những ưu đãi tốt nhất mà còn tạo những thông tin hấp dẫn để khách hàng
thường xuyên quay trở lại”.
Ông Nguyễn Bá Diệp, phó chủ tịch hội đồng quản trị công ty

M_Service, nói rằng khách hàng mua sắm bằng app là nhóm khách hàng trẻ,
tuổi từ 25 – 35 với nhóm hàng tiêu dùng cá nhân, nên các nhà bán lẻ và các nhà
cung cấp các dịch vụ thanh toán di động cần “liên minh” để tạo ra những sản
phẩm tiện lợi, có giá rẻ hơn… mới có khả năng cạnh tranh và thu hút khách
hàng sử dụng thường xuyên.
Lionel Tan, phó giám đốc Lazada Techhub, chia sẻ thêm: “61% khách
hàng tại Việt Nam dùng thiết bị di động để tìm kiếm sản phẩm. Chính vì vậy, các
nhà kinh doanh TMĐT phải quan sát những phản hồi của khách hàng để điều
chỉnh thông tin trên app phù hợp, phải bố trí sản phẩm hấp dẫn trên app để kích
thích khách hàng mua sắm”.
Ông Hải Linh của Sendo chia sẻ thêm về mặt kỹ thuật: app phải tương
thích với nhiều kích thước màn hình smartphone để sản phẩm xuất hiện đẹp mắt,
tốc độ tải nhanh, không tiêu tốn băng thông cũng như được trải nghiệm những
ứng dụng di động đặc biệt như tìm kiếm sản phẩm bằng giọng nói, quét mã QR
Code…

10

10


II. NĂM 2015 : THỜI HOÀNG KIM CỦA ỨNG DỤNG THƯƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ
A.

Thể hiện qua các con số :
Trong báo cáo tổng kết năm 2015 của Lazada, trang thương mại điện tử
này gây bất ngờ khi công bố tổng giao dịch trên di động chiếm đến 60%
doanh số của toàn Lazada.
Trong khi đó, trả lời ICTnews, ông Trần Hải Linh – CEO Sendo.vn – cho

biết tỷ lệ giao dịch trên mobile của trang này đạt được mức kì vọng 65% trong
năm 2015. Trước đó vào năm 2014, giao dịch trên mobile chỉ chiếm khoảng
15% tại sàn thương mại điện tử đứng thứ hai Việt Nam về thị phần.
Giữa năm 2015, trang bán hàng chuyên về thời trang Zalora cũng cho biết
lượt truy cập trên di động chiếm khoảng 30% trong tổng truy cập đến trang
zalora.vn
Theo ông Trần Nhật Linh, quản lý bộ phận TMĐT của Thế Giới Di Động,
hiện lượng hàng truy cập bằng app và web mobile trên 100.000 lượt/ngày,
chiếm 60%, còn lượng hàng đặt thành công lên tới 40%
Như vậy,…
Những con số ấn tượng trên cho thấy thương mại điện tử trên di động
(m-commerce) không còn là xu hướng mà đã trở thành một công cụ chính yếu
trong mua sắm qua mạng. Hầu hết mọi doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực này
đều đánh giá cao m-commerce, và dự báo cụm từ này sẽ dần thay thế ecommerce khi nói về thương mại điện tử.

B.

Thể hiện qua thực tế:

11

11


12

12


13


13


14

14


15

15


III. NHẬN ĐỊNH
Ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam năm 2015 phát triển vượt
bậc so với năm 2014.
Thương mại di động trở thành xu hướng mới với mức độ phủ sóng rộng
rãi, mua sắm trên di động phát triển thuận lợi. “M-commerce là chiến lược phát
triển trọng tâm của hầu hết các công ty lớn, nhỏ”.
Trong ngày hội TMĐT cuối năm 2015, ông Trần Hữu Linh, cục trưởng
cục TMĐT và công nghệ thông tin (bộ Công thương) cũng đã nói về “thì tương
lai” với các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này: “Việc phát triển và
ứng dụng các giải pháp trên nền tảng di động là xu thế mới của TMĐT Việt Nam
và thế giới. Ứng dụng công nghệ trên nền tảng di động trong giao dịch trực
tuyến rất thuận tiện và linh hoạt cho cả người bán lẫn người mua”.
Như vậy , nếu trong năm 2014 ứng dụng thương mại điện tử bùng nổ xuất
hiện, phát triển với tốc độ nhanh chóng về số lượng, nhưng còn chưa được sử
dụng thường xuyên và gần gũi với doanh nghiệp và người tiêu dùng . Thì sang
đến năm 2015, phát triển ứng dụng thương mại điện tử trở nên chất lượng và thu

hút hơn với khách hàng đã trở thành một trong những chiến lược kinh doanh
then chốt của nhiều doanh nghiệp. Nhờ ưu điểm này, lượng khách hàng sử dụng
ứng dụng thương mại điện tử và coi đây là một công cụ thiết yếu dể giao dịch
tăng lên rất nhiều, mang lại sự tiện nghi cho khách hàng tuyệt đối, và góp phần
quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doah thành công của các doanh
nghiệp.
Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam trong năm 2015 so
với với năm 2014 khả quan hơn rất nhiều và phát triển vượt bậc,mở rộng phạm
vi phủ sóng và mức độ được người doanh nghiệp và người tiêu dùng sử dụng
thường xuyên, trở thành xu hướng mới trong kinh doanh và hứa hẹn ngày càng
phát triển hơn trong thời gian tới.

16

16



×