Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Báo cáo môn học kinh tế phát triển: Vai trò của vốn trong tăng trưởng kinh tế VN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.24 KB, 66 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Các quốc gia trên thế giới phân biệt nhau bởi trình độ phát triển.
Và để đạt đến một trình độ nhất định phải trải qua một thời gian
tương đối dài để chuẩn bị. Trong đó tăng trưởng kinh tế được xem là
yếu tố cốt lõi, nền móng cho sự phát triển ở các mặt khác. Một trong
những vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong kinh tế học, nhất là
kinh tế học phát triển là tìm ra những nhân tố kinh tế tác động trực
tiếp làm cho nền kinh tế phát triển. Mỗi nhân tố giữ một vai trò nhất
định và cơ chế tác động khác nhau trong quá trình tạo ra thu nhập
của nền kinh tế, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau. Tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, có thể yếu tố nào đó
được đề cao hơn yếu tố khác và nắm vai trò chủ đạo. Để định hướng
nền kinh tế phát triển đúng hướng, tiết kiệm được thời gian cũng như
nguồn lực. Cần nắm được yếu tố nguồn lực nào tác động trực tiếp
đến tăng trưởng trong giai đoạn đó, phân tích được cơ chế tác động
của yếu tố đó đến tăng trưởng kinh tế, cách thức lượng hóa sự tác
động của từng yếu tố nguồn lực. Hay nói cách khác là xác định đúng
mô hình tăng trưởng kinh tế. Đối với Việt Nam hiện nay, trong giai
đoạn mở cửa hội nhập, nguồn vốn là một trong những yếu tố quan
trọng, có vai trò tác động một cách trực tiếp đến quá trình tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế. Nhận thấy được vai trò quan
trọng đó, nhóm chúng tôi đã thực hiện đề tài nghiên cứu: “Vai trò của
vốn trong tăng trưởng kinh tế VN hiện nay”

1


CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN VỐN
ĐẦU TƯ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ


1.1.

Lý luận chung về nguồn vốn đầu tư và phát triển kinh tế
a) Khái niệm
Phát triển kinh tế là một quá trình lớn lên (hay biến đổi) về mọi

mặt của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Trong đó bao gồm
sự tăng lên về qui mô sản lượng (tăng trưởng) và sự thay đổi về cơ
cấu kinh tế xã hội.
Phát triển kinh tế bao hàm các vấn đề sau:
-

Mức độ gia tăng của sản lượng quốc gia và sự tăng trưởng của

-

sản xuất trong một thời kì.
Mức độ biến đổi cơ cấu kinh tế của Quốc gia thể hiện ở tỉ trọng

-

công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân.
Sự tiến bộ xã hội thể hiện ở đời sống dân cư, xoá bỏ nghèo đói,
tăng công ăn việc làm và công bằng xã hội.
b) Ý nghĩa
Như ta đã biết, sự phát triển kinh tế là sự chuyển dịch toàn bộ hệ

thống xã hội tới một cuộc sống tốt đẹp hơn mang lại nhiều ý nghĩa to
lớn trong đời sống và xã hội:
-


Phát triển kinh tế giúp duy trì sự sống, đáp ứng những nhu cầu cơ
bản của con người. Tất cả mọi người đều có một số nhu cầu sống
cơ bản, mà thiếu chúng không thể có sự sống. Những nhu cầu cơ
bản này là lương thực, nhà ở, sức khoẻ và sự bảo vệ. Bất kì nhu
cầu nào trong số những nhu cầu trên không được đáp ứng đầy đủ
thì đó là hiện diện của kém phát triển. Tăng trưởng là một điều
kiện cần thiết để cải thiện chất lượng cuộc sống, do vậy gia tăng
mức thu nhập bình quân đầu người, xoá bỏ nghèo đói, giảm bất
bình đẳng là những điều kiện cần thiết, nhưng không phải là duy

-

nhất để phát triển.
Phát triển kinh tế còn thể hiện lòng tự trọng của một con người, ý
thức về giá trị và sự tôn trọng mình, không để cho những kẻ khác
sử dụng mình làm công cụ phục vụ cho mục đích của bản thân
họ. Mọi xã hội và dân tộc đều tìm kiếm một hình thức tự trọng
2


nào đó, tính chất và hình thức của kiểu tự trọng này sẽ khác nhau
tuỳ từng xã hội và nền văn hoá. Tuy nhiên các nước kém phát
triển hiện nay sẽ không thể nhận được đầy đủ sự tôn trọng kính
trọng từ những nước khác bởi vì sự tôn trọng sẽ chỉ được dành
cho những nước giàu về kinh tế và mạnh về công nghệ. Do đó
phát triển sẽ là phương tiện quan trọng để dành được sự tôn
-

trọng.

Phát triển kinh tế thúc đẩy tự do thoát khỏi lệ thuộc, có khả năng
lựa chọn. Tự do không bị lệ thộc vào những điều kiện vật chất, tự
do thoát khỏi ràng buộc đối với thiên nhiên, với ngu dốt, với
nghèo khổ, với những niềm tin giáo điều.
1.1.1. Nguồn vốn đầu tư
a) Khái niệm
Nguồn vốn đầu tư là phần thêm vào cho sự tích tụ tài sản để làm

tăng qui mô tài sản sản xuất và tài sản phi sản xuất.
Theo tính chất sử dụng của vốn đầu tư có thể chia thành vốn đầu
tư sản xuất và vốn đầu tư phi sản xuất. Về mặt hình thái vốn đầu tư
có thể tồn tại dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản vật chất.
b) Phân loại nguồn vốn đầu tư
 Nguồn vốn trong nước

Nguồn vốn trong nước được hình thành chủ yếu từ tiết kiệm gồm
tiết kiệm của khu vực nhà nước, tiết kiệm của khu vực tư nhân. Sự
gia tăng của tỉ lệ tiết kiệm vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của
việc thu nhập quốc dân được cải thiện. Nếu bình quân thu nhập quốc
dân thấp, tiêu dùng chưa đủ thì không thể có tiết kiệm cao. Ngược lại
nếu thu nhập quốc dân tăng lên thì sẽ có một phần trong thu nhập
tăng lên được đưa vào tích luỹ. Vì lẽ đó tỷ lệ tích luỹ vốn bên trong ở
hầu hết các nước đang phát triển là rất thấp, nó chỉ đáp ứng được
khoảng 50% nhu cầu tổng đầu tư của nền kinh tế.
Sau đây chúng ta cùng xem xét chi tiết từng nguồn hình thành
vốn trong nước:


Tiết kiệm của khu vực nhà nước


3


Theo tính chất sở hữu, tiết kiệm của khu vực nhà nước bao gồm
tiết kiệm của ngân sách nhà nước và tiết kiệm của doanh nghiệp nhà
nước.
-

Tiết kiệm của ngân sách nhà nước:
Tiết kiệm của ngân sách là khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập

và tổng chi thường xuyên. Đây là một nguồn hình thành nên đầu tư
của khu vực nhà nước.
Các khoản chi của ngân sách là:
+ Chi mua hàng hoá và dịch vụ gồm: Chi cho bộ máy quản lí nhà

nước, chi cho văn hoá, giáo dục, y tế, chi cho hoạt động khoa
học, an ninh quốc phòng.
+ Các khoản trợ cấp
+ Chi trả lãi xuất và tiền vay
Các khoản thu của ngân sách chủ yếu từ thuế và một phần khác
là những khoản thu không phải từ thuế như phí, lệ phí và các khoản
thu có tính chất thuế.
-

Tiết kiệm doanh nghiệp nhà nước:
Tiết kiệm của doanh nghiệp nhà nước là phần thu nhập còn lại để

bổ xung vốn kinh doanh. Nó được lấy từ khoản chênh lệch giữa tổng
doanh thu và tổng chi phí sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh

nghiệp. Nếu là các doanh nghiệp cổ phần thì là phần thu nhập còn lại
sau khi đã nộp thuế và chia cho các cổ đông.
Nguồn tiết kiệm của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh
tế của các nước đang phát triển thường không lớn do tỉ trọng của
doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế ở các nước này không lớn
(khoảng 100%). Riêng Việt Nam thì tỉ trọng doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế lớn hơn nhiều nhưng do các doanh nghiệp làm ăn
kém hiệu quả nên nguồn tiết kiệm của họ cũng rất khiêm tốn.


Tiết kiệm của khu vực tư nhân

Tiết kiệm của khu vực tư nhân bao gồm tiết kiệm của các hộ gia
đình và tiết kiệm của các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã.

4


-

Tiết kiệm của hộ gia đình: dựa vào thu nhập có thể sử dụng và chi
tiêu của các hộ gia đình. Qui mô của nguồn này phụ thuộc:
+ Trình độ phát triển của đất nước dựa vào thu nhập tính theo
đầu người, nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thường có
qui mô tiết kiệm thấp.
+ Tập quán tiêu dùng của dân cư và những xu hướng biến đổi của

-

nó.

Tiết kiệm của doanh nghiệp tư nhân: Thể hiện ở phần lợi nhuận
còn lại để đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân.
Phần này nhiều hay ít dựa vào các chính sách kinh tế và các

chính sách khác nhằm khuyến khích sự phát triển khu vực kinh tế tư
nhân. Đối với các nước đang phát triển nói chung, khu vực kinh tế tư
nhân đang chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế và vì vậy tiết kiệm
của khu vực này hình thành một nguồn vốn đáng kể cho nền kinh tế.
Đối với Việt Nam mặc dù chúng ta đã có nhiều chính sách nhằm
khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển, tuy nhiên các chính
sách này thiếu đồng bộ nên chưa tạo ra được một sân chơi bình đẳng
giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, doanh ngiệp
trong nước với doanh nghiệp nước ngoài.
Nhìn chung các nước đang phát triển, khả năng tiết kiệm là ít ỏi,
do có thu nhập thực tế thấp. Tuy nền kinh tế còn kém phát triển, kinh
tế trong nước còn nhỏ bé nhưng đây là nguồn vốn đầu tiên phải tính
đến trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chính vì vậy các
nước đang phát triển đã có hàng loạt các chính sách nhằm khơi
thông nguồn vốn trong nước để có thể thu hút tối đa nguồn vốn này.
Các nước đang phát triển khác nhau sẽ dựa vào những nguồn tiết
kiệm không giống nhau, điều này không những phụ thuộc vào những
yếu tố như mức thu nhập bình quân đầu người, sự giàu có về nguồn
tài nguyên, cơ cấu nghành của tổng sản phẩm quốc dân, mà còn phụ
thuộc vào các chính sách như thuế, chính sách huy động vốn, chính
sách tiết kiệm của chính phủ.
 Nguồn vốn nước ngoài
5


Tại các nước đang phát triển, nguyên nhân cơ bản của sự kém

phát triển là do thiếu vốn để đầu tư. Do đó mở cửa để thu hút nguồn
vốn nước ngoài có thể xem là giải pháp thực tế nhất đối với các nước
này.
Nguồn vốn từ nước ngoài đưa vào các nước đang phát triển qua
niều hình thức khác nhau:
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Khái niệm: ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, hoặc


-

cho vay với điều kiện ưu đãi (về lãi xuất, thời gian ân hạn và trr
nợ) của các chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống liên hợp quốc,
các tổ chức tài chính quốc tế dành cho những nước đang phát
-

triển.
Đặc điểm:
Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, nhà tài trợ không trực

tiếp điều hành dự án, nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức
nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Tuy nước chủ nhà có quyền quản lí
sử dụng vốn nhưng thông thường danh mục dự án ODA phải có sự
thoả thuận với các nhà tài trợ.
Các nước nhận ODA phải hội đủ một số điều kiện nhất định mới
được nhận tài trợ, điều này vào qui định của từng nhà tài trợ.
Nguồn vốn này gồm viện trợ không hoàn lại và viện trợ ưu đãi.
Tuy nhiên nếu quản lí, sử dụng kém hiệu quả thì vãn có nguy cơ đẻ
lại gánh nặng nợ nần trong tương lai.


-

Phân loại ODA : có 3 cách phân loại
+ Theo phương thức hoàn trả
 Viện trợ không hoàn lại
 Tín dụng ưu đãi
 ODA cho vay hỗn hợp gồm một phần không hoàn lại, một phần
tín dụng thương mại hoặc một phần không hoàn lại, một phần
vốn ưu đãi và một phần vốn tín dụng thương mại.
+ Theo nguồn cung cấp: ODA có hai loại
 ODA song phương
 ODA đa phương
+ Theo mục tiêu sử dung : ODA có 4 loại
6


 Viện trợ dự án: đây là hình thức đầu tư chủ yếu của ODA bao

gồm hỗ trợ các dự án cải thiện, nâng cấp hoặc xây dựng mới cơ
sở hạ tầng và những hỗ trợ về mặt kĩ thuật cho dự án như
chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ, đào tạo kĩ thuật
hoặc phân tích chính sách… Điều kiện để nhận được viện trợ dự
án là phải có dự án cụ thể , chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng
ODA.
 Hỗ trợ cán cân thanh toán: bao gồm các khoản ODA cung cấp
để hỗ trợ ngân sách của chính phủ, thường được thực hiện
thông qua các dạng nư chuyển giao tiền tệ trực tiếp cho nước
nhận ODA hoặc hỗ trọ nhập khẩu, chính phủ các nước nhận
ODA nhận một lượng hàng hó có giá trị tương đương với các
khoản cam kết bán cho thị trường nội địa và thu nội tệ.

 Tín dụng thương mại: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có
kèm theo điều kiện ràng buộc.
 Viện trợ chương trình (viện trợ phí dự án): nước viện trợ và nước
hận viện trợ kí kết hiệp định cho một mục đích tổng quát mà
không cần xác định chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng

-

như thế nào.
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Khái niệm: là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vốn
bằng tiền nước ngoài hay bất cứ tài sản nào vào một nước, được
chính phủ nước đó chấp nhận được pháp kinh doanh trên cơ sở
một hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc

-

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Đặc điểm:
+ Hầu hết do các công ty đa quốc gia thực hiện, công ty đa quốc
gia được hiểu là một công ty sở hữu và kiểm soát các hoạt động
sản xuất ở nhiều hơn một quốc gia.
+ Nước tiếp nhận đầu tư không phải hoàn trả vốn.
+ FDI không gây ra tình trạng nợ nần chồng chất cho các thế hệ

-

mai sau và không phương hại đến chủ quyền đất nước.
Các hình thức của FDI: tuỳ theo tỉ lệ góp vốn chia ra thành các
loại sau:

+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
7


+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh
1.1.2. Vai trò của nguồn vốn đầu tư

Vốn đầu tư là nhân tố quyết định đối với tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của vốn đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế vốn là
điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc gia.
Riêng đối với các nước kém phát triển, để đạt được tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Điều
này càng được khẳng định chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của vốn
đầu tư với tăng trưởng và phát triển của mọi đất nước.
 Vai trò của vốn trong nước:

Theo kinh nghiệm phát triển thì đây là nguồn vốn cơ bản, có vai
trò quyết định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong nước .
Trong lịch sử phát triển các nước và trên phương diện lý luận chung,
bất kỳ nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính . Sự chi
viện bổ sung từ bên ngoài chỉ là tạm thời, chỉ bằng cách sử dụng
nguồn vốn đầu tư trong nước có hiệu quả mới nâng cao được vai trò
của nó và thực hiện được các mục tiêu quan trọng đề ra của quốc
gia.


Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN):

Đầu tư từ NSNN là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối

lượng đầu tư vai trò của nguồn vốn đầu tư trong việc thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo
ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư của một thành
phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và
pháp luật, đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số
lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo theo đúng định
hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội .
Với vai trò là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định điều điều tiết
vĩ mô, vốn đầu tư từ NSNN đã được nhận thức và vận dụng khác
nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi quốc gia. Trong thực tế điều hành
chính sách tài khoá, Nhà nước có thể quyết định tăng, giảm thuế,
quy mô thu chi ngân sách nhắm tác động vào nền kinh tế. Tất cả
8


những điều đó thể hiện vai trò quan trọng của NSNN với tư cách là
công cụ tài chính vĩ mô sắc bén nhất hữu hiệu nhất, là công cụ bù
đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái …


Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp:

Đây là nguồn vốn có sự phát triển và đổi thay khá mạnh khi nền
kinh tế có sự chuyển biến. Các doanh nghiệp luôn là lực lượng đi đầu
trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng
suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Nên nguồn vốn xuất phát từ nó có vai trò hữu hiệu hỗ trợ cho sự định
hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.



Vốn đầu tư của nhân dân:

Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập
và chi tiêu của các hộ gia đình. Đây là một lượng vốn lớn. Nhờ có
lượng vốn này mà đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn trong
các doanh nghiệp, nó cũng giải quyết được một phần lớn công ăn
việc làm cho lao động nhàn rỗi trong khu vực nông thôn từ đó thúc
đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
 Như vậy vốn đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho
sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn
vinh một cách chắc chắn và lâu bền. Tuy nhiên trong bối cảnh nền
kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích luỹ thấp thì việc tăng
cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ sung có ý nghĩa rất
quan trọng.
 Vai trò của vốn nước ngoài:

Nếu như vốn trong nước là nguồn có tính chất quyết định, có vai
trò chủ yếu thì vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng trong
những bước đi ban đầu tạo ra “cú hích” cho sự phát triển. Điều này
được thể nghiệm trên các vai trò cơ bản sau:
-

Một là: Bổ sung nguồn vốn cho đàu tư khi mà tích luỹ nội bộ nền
kinh tế còn thấp. Đối với các nước nghèo và kém phát triển,
nguồn vốn trong nước huy động được chỉ đáp ứng hơn 50% tổng
9


số vốn yêu cầu. Vì thế gần 50% số vốn vai trò của nguồn vốn đầu

tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế 2/4 còn
lại phải được huy động từ bên ngoài. Đó là lý do chúng ta phải
tích cực thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài ( bao gồm vốn hỗ trợ
-

phát triển chính thức - ODA, đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI…)
Hai là: Đảm bảo trình độ công nghệ cao phù hợp với xu thế phát
triển chung trên toàn thế giới. Điều này giúp đẩy nhanh sự phát
triển của các dịch vụ cung cấp có chất lượng và cho phép sản
xuất các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế - là cơ sở tạo nên
sự bứt phá trong khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong

-

nước trên thị trường quốc tế.
Ba là: Con đường ngắn nhất đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và khu vực, cũng như bảo đảm các nghĩa vụ

-

vay và trả nợ nhờ vào việc tăng cường được năng lực xuất khẩu.
Bốn là: Có vai trò tích cực trong việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và chuyển giao công nghệ .
Đi sâu tìm hiểu ta có thể nhận rõ vai trò cụ thể của từng loại vốn

nước ngoài.


Vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA)


Đây là nguồn vốn đầu tư nước ngoài tuy không quan trọng như
nguồn FDI song cũng đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề. Chủ yếu
là cùng với FDI bổ sung cho vốn đầu tư phát triển.
Ngoài ra ODA còn có vai trò quan trọng trong việc giúp các nước
nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học,công nghệ hiện đại và
phát triển nguồn nhân lực.
Và cuối cùng ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ
cấu kinh tế và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước
ở các nước đang và chậm phát triển.
Ty nhiên ngoài mục đích viện trợ có tính nhân đạo như viện trợ
khẩn cấp thì các nước cấp viện trợ chủ yếu là vì động cơ của chính
nước họ, đó là động cơ chính trị như ủng hộ một chính phủ nào đó,
hoặc là động cơ kinh tế như ràng buộc vào hàng xuất khẩu của các
10


nước cấp viện trợ hoặc từ viện trợ họ sẽ có những ưu thế để nhận
được dự án đầu tư.
Trên thực tế ODA không phải lúc nào cũng đóng vai trò tích cực
với các nước đang phát triển. Hạn chế lớn nhất của ODA là sự ràng
buộc bởi đây là công cụ buộc các nước đang phát triển phải thay đổi
chính sách kinh tế hoặc chính sách đối ngoại sao cho phù hợp với lợi
ích của bên cấp viện trợ.



Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):

Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số các nguồn huy động
từ nước ngoài. Không chỉ có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh

tế xã hội, mà biểu hiện cụ thể thông qua ba tiêu chí:
-

Kích thích công ty khác tham gia đầu tư
Góp phần thu hút viện trợ phát triển chính thức
Gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, do đó tăng thêm tỷ lệ huy
động vốn trong nước.
Ngoài ra FDI còn góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng

cao trình độ công nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và
tăng trưởng kinh tế.
FDI còn có vai trò tích cực trong việc góp phần giải quyết việc làm
và quan trọng hơn cả là đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Số lượng lao động có việc làm và Vai trò của nguồn vốn đầu tư
trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế 3/4 chuyên
môn cao ở trong nước ngày càng tăng, và điều cơ bản mà FDI đã làm
được đó là không chỉ nâng cao tay nghề mà còn thay đổi tư duy và
phong cách lao động theo kiểu công nghiệp hiện đại, là lực lượng
tiếp thu chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ .
Từ đó mà hiệu quả làm việc và năng suất lao động cũng tăng nên
thể hiện qua thị trường quốc tế đã chấp nhận sản phẩm của các
nước kém phát triển này. Chính vì vậy mà FDI còn có vai trò mở rộng
thị trường trong nước và nước ngoài.

11


Cuối cùng, vai trò của FDI thể hiện qua việc lành mạnh hoá các
thể chế kinh tế - tài chính và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô. Để có thể
thu hút FDI, chúng ta phải đứng trước yêu cầu cấp thiết cải tạo và

hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm xây dựng môi
trường đầu tư hấp dẫn. Có như thế chúng ta mới lọt vào tầm ngắm
của các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên nguồn vón này cũng tồn tại những hạn chế, tiêu cực
như:
+

Mặc dù FDI cung cấp vốn nhưng nó lại làm giảm tốc độ đầu
tư và tiết kiệm trong nước vì nó không phải đầu tư phần lợi
nhuận, việc phát triển sản xuất của nó không làm sản xuất
trong nước tăng lên vì nó nhập khẩu nguyên liệu từ các công
ty con từ nước ngoài chứ không phải là tạo nên một hệ
thống các công ty vệ tinh ở nước sở tại.

+

Mặc dù tác động ban đầu của FDI là giảm ngoại hối của nước
nhận đầu tư nhưng về lâu dài nó có thể làm giảm thu nhập
ngoại tệ cả trên tài khoản vãng lai và trên tài khoản vốn vì
do việc nhập khẩu nhiều hơn các sản phẩm trung gian và
thiết bị sản xuất và việc chuyển lợi nhuận, tiền lãi, chi phí
quản lí ra nước ngoài.

+

Hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước bằng việc sử dụng các công nghệ hơn hẳn, kĩ năng
quảng cáo và một loạt các dịch vụ hỗ trợ để đẩy đối thủ ra
khỏi thị trường và hạn chế sự ra đời của các doanh nghiệp có
qui mô nhỏ.


+

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất ra các
sản phẩm không thích hợp (đa số chỉ dành cho những người
có thu nhập cao), kích thích mô hình tiêu dùng không thích
hợp và chuyển giao những công nghệ sản xuất không thích
hợp.

+

Tạo ra mức chênh lệch ngày càng lớn về thu nhập, do đó
làm cho tình trạng di cư từ nông thôn ra thành thị gia tăng.
12


Một vấn đề khác cũng đang gây ra nhiều tranh cãi là cùng với
dòng vốn FDI thì vấn đề ô nhiễm môi trường có chiều hướng gia tăng
và đã trở thành vấn đề quốc gia ở các nước phát triển. Các công ty
đa quốc gia thường thông qua các dự án đầu tư để đưa vào các nước
đang phát triển những máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu, sử dụng
nhiều năng lượng, nguyên liệu .. làm ô nhiễm nguồn nước và gia
tăng lượng phế thải công nghiệp.
1.2.

Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tác động của nguồn vốn đầu
tư đối với phát triển kinh tế - hệ số ICOR
1.2.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tác động của nguồn vốn
đầu tư đối với phát triển kinh tế
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tăng trưởng


kinh tế, giống như "có bột mới gột nên hồ". Hiệu quả đầu tư không
chỉ tác động tới tăng trưởng kinh tế về số lượng, mà còn tăng trưởng
với cùng một tốc độ, nhưng với số vốn đầu tư ít hơn, tức là nâng cao
chất lượng tăng trưởng, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, đổi mới
mô hình tăng trưởng. Mặt khác, nâng cao hiệu quả đầu tư còn là yếu
tố góp phần kiềm chế lạm phát, giảm bội chi ngân sách, giảm nợ
công, giảm nhập siêu… Hiệu quả đầu tư được biểu hiện ở nhiều chỉ
tiêu như:
+ Vốn đầu tư/GDP tăng (tức là để tăng một đồng GDP, thì cần bao

nhiêu đồng vốn đầu tư)
+ GDP/vốn đầu tư (tức là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra bao nhiêu
đồng GDP);
+ Hệ số ICOR (tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng GDP, tức
là để tăng 1% GDP, cần bao nhiêu phần trăm vốn đầu tư/GDP).
Trong 3 chỉ tiêu trên, chỉ tiêu ICOR (Incremental Capital - Output
Ratio) là tổng hợp nhất.
Hệ số ICOR
Khái niệm: ICOR còn được gọi là hệ số gia tăng vốn – sản lượng
1.2.2.

-

(hệ số sử dụng vốn, hay hệ số đầu tư tăng trưởng, hay tỷ lệ vốn
trên sản lượng tăng thêm, v.v...)

13



ICOR là một chỉ số cho biết muốn có thêm một đơn vị sản lượng
trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị
vốn đầu tư trong kỳ đó.
-

Công thức: =
Trong đó:

K là vốn đầu tư

Y là sản lượng

t là kỳ báo cáo

(t-1) là kỳ trước

Hệ số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Về mặt ý nghĩa kinh tế, hệ số ICOR tính cho một giai đoạn sẽ phản
ánh chính xác hơn việc tính ICOR cho hàng năm, vì trong một thời
gian ngắn (một năm) có một lượng đầu tư chưa phát huy tác dụng và
cũng không phản ánh được nếu đầu tư dàn trải (đầu tư xây dựng
xong thì bỏ đấy).
1.2.3.

Thực trạng về hệ số ICOR của Việt nam giai đoạn

2006 – 2012
a) Hệ số ICOR của Việt nam giai đoạn 2006 – 2012
Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so với các
nước trong khu vực. Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ đầu

tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm 2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến
43.1%.... Dù đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ đạt ở
mức từ 5% – 8.5%. ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư
trong nền kinh tế càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là
tiền đề gây nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2012 có xu hướng thay đổi
thăng trầm với biến động của tăng trưởng khu vực và quốc tế. Ngay
từ năm 2007, khi hệ số ICOR của Việt Nam dừng ở mức 5,1 đã có
những cảnh báo về sự lãng phí trong đầu tư và hiệu quả thấp trong
sử dụng nguồn lực của Việt Nam. Hệ số ICOR của nước ta trong các
năm 2001-2007 là 5,2 nghĩa là cần 5,2 đồng vốn đầu tư để tăng
được một đồng GDP, cao gấp rưỡi đến gấp hai lần so với nhiều nước
xung quanh trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Dù các chuyên gia
quan ngại và lên tiếng cảnh báo từ lâu nhưng đến năm 2008, chỉ số
ICOR của Việt Nam lại vượt ngưỡng lên mức 6,29. Và năm 2009, một
14


lần nữa, chỉ số ICOR ở mốc mới. Theo tính toán của Ủy ban Tài chính
và Ngân sách của Quốc hội, hệ số ICOR năm 2009 của Việt Nam đã
lên tới 7,1. Chỉ so với năm 2008, hệ số ICOR năm 2009 đã tăng
17,5%. Đến năm 2012 hệ số ICOR của Việt Nam vẫn ở mức 6,66.
Theo khuyến cáo của các nước phát triển thì hệ số ICOR của các
nước đang phát triển nên từ 3,00 đến 4,00 nghĩa là có hiệu quả trong
việc sử dụng vốn đầu tư. Như vậy, ICOR của Việt Nam luôn ở mức
cao hơn so với khuyến cáo của các nước phát triển nghĩa là hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam là thấp. Những nỗ lực của chúng ta
trong việc nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế đã không mang lại
hiệu quả như mong muốn, thậm chí còn khiến tình hình kém hơn.
Điều này đồng nghĩa với việc trong cuộc "so găng" với các đối thủ

trong khu vực, với “thể trạng” kinh tế yếu như hiện nay, nếu các
nước chỉ cần một lần có thể nhấc được mục tiêu, thì Việt Nam phải
tốn sức gấp đôi, thậm chí gấp ba.
b) Một số đề xuất nâng cao hiệu quả đầu tư

Thứ nhất, chuyển đổi cơ cấu nguồn vốn đầu tư trên cơ sở giảm tỷ
trọng nguồn vốn của khu vực nhà nước, tăng tỷ trọng nguồn vốn của
khu vực ngoài nhà nước, giữ vững tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Bản thân việc chuyển đổi cơ cấu nguồn vốn đầu tư
của các khu vực có hệ số ICOR khác nhau cũng góp phần làm giảm
hệ số ICOR chung.
Thứ hai, nguồn vốn khu vực nhà nước bao gồm nguồn vốn ngân
sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, nguồn vốn
tự có của doanh nghiệp nhà nước. Trong điều kiện, ngân sách nhà
nước còn bội chi lớn và giảm tỷ lệ bội chi/GDP, trong điều kiện đầu tư
công tuy có vai trò quan trọng, nhưng cũng có những hạn chế bất
cập, thì việc giảm tỷ trọng đầu tư công từ nguồn này, trên cơ sở đẩy
mạnh xã hội hoá, thực hiện phương thức BOT, đối tác công - tư…, mở
rộng việc thực hiện nguồn vốn ODA cho các thành phần kinh tế khác
và chuyển dần trách nhiệm quản lý, trả nợ cho các đơn vị nhận ODA,
là cơ sở để tăng hiệu quả.
15


Thứ ba, tăng tỷ trọng nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước (từ mức
36,1%, năm 2010 lên trên 40%), do khu vực này còn nhiều tiềm
năng và có hệ số ICOR thấp. Tuy nhiên, cần hướng nguồn vốn này
đầu tư trực tiếp cho sản xuất - kinh doanh, cho tăng trưởng, tránh
chạy lòng vòng qua các kênh đầu tư, tạo nên sự nóng/lạnh đột ngột
về giá trên các kênh đầu tư này.

Thứ tư, đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần định
hướng chọn lọc vào nguồn có kỹ thuật - công nghệ cao, công nghệ
sạch; vào ngành và lĩnh vực đầu tư như chế tạo, chế biến; vào những
vùng, những địa bàn để chuyển giao công nghệ, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và kiểm tra họ để tránh chuyển gián.
Hệ số ICOR giúp các nhà lập kế hoạch tăng trưởng kinh tế xác
định xem để kinh tế kỳ này cứ tăng 1% so với kỳ trước thì cần tăng
vốn đầu tư trong kỳ này lên bao nhiêu phần trăm so với kỳ trước. Tuy
nhiên vì sự cần thiết phải thỏa mãn các giả thiết khi tính toán ICOR,
người ta chỉ sử dụng hệ số này vào kế hoạch hóa kinh tế ngắn hạn
(quý, nửa năm hoặc một năm). Hệ số ICOR - Hiệu quả sử dụng tổng
hợp của vốn đầu tư phát triển. Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết
định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế không chỉ
dựa vào lượng vốn đầu tư nhiều hay ít, mà quan trọng hơn là dựa vào
hiệu quả sử dụng của lượng vốn này cao hay thấp. Ở góc độ toàn
nền kinh tế, hệ số ICOR biểu hiện tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng
trưởng GDP. Ở nước ta tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP còn
thấp so với các quốc gia trong khu vực. Vấn đề đặt ra là phải có các
chính sách và biện pháp để tăng huy động vốn (cả về số lượng và tỷ
lệ) và đặc biệt quan trọng là phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử
dụng vốn đầu tư.

16


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM (2010- 2015)
2.1.

Tình hình chung về kinh tế Việt Nam giai đoạn 20102015

Qua 5 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (2011 -

2015), Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định như duy trì
được tốc độ tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm
phát ở mức thấp. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều lĩnh vực
chuyển biến chậm, chưa vững chắc, nhất là công nghiệp và nông
nghiệp.
Dưới đây là những kết quả cụ thể mà Việt Nam đã đạt được trong
giai đoạn 2011-2015, như sau:
Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011
xuống còn khoảng 2% vào năm 2015, thấp nhất trong 15 năm qua.
Mặt bằng lãi suất giảm, năm 2015 chỉ bằng 40% so với năm 2011,
dư nợ tín dụng tăng 17%, cao nhất kể từ năm 2011, chất lượng tín
dụng từng bước được cải thiện. Tỉ giá được điều chỉnh phù hợp, thị
trường ngoại hối cơ bản ổn định, niềm tin vào đồng tiền Việt Nam
tăng lên.
Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 18%/năm, tỉ trọng xuất khẩu
sản phẩm chế biến, chế tạo tăng mạnh. Nhập khẩu tăng 15%/năm, tỉ
lệ nhập siêu giảm từ 10,2% năm 2011 xuống còn 3,6% năm 2015.
Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá cao. Dự trữ ngoại hối năm
2015 đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
Quản lý ngân sách nhà nước (NSNN) được tăng cường. Thu từ dầu
thô giảm mạnh nhưng thu nội địa tăng nên tổng thu ngân sách năm
2015 vẫn tăng 7,4% và 5 năm gấp khoảng 2 lần so với giai đoạn
trước. Chi ngân sách gấp 2,17 lần, tăng chi cho con người, bảo đảm
an sinh xã hội. Bội chi bình quân khoảng 5% GDP/năm. Nợ công tập
trung cho đầu tư phát triển; đến hết năm 2015, nợ công khoảng
61,3% GDP, nợ Chính phủ 48,9%, nợ nước ngoài của quốc gia 41,5%,
trong giới hạn an toàn theo quy định .
17



Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp khoảng 1,8 lần so với 5 năm
trước, bằng khoảng 31,2% GDP. Vốn FDI thực hiện đạt 58,2 tỷ USD,
tăng 31%. Vốn ODA giải ngân đạt khoảng 24 tỷ USD, tăng 70,5% .
Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý và phục hồi khá
cao vào những năm cuối; chất lượng tăng trưởng có bước được nâng
lên. Tăng trưởng GDP năm 2015 ước đạt trên 6,5%, cao nhất trong 5
năm qua, vượt kế hoạch đề ra (6,2%), bình quân 5 năm đạt khoảng
5,9%/năm trong đó công nghiệp, xây dựng tăng 6,74%/năm, nông
lâm thủy sản tăng 3,01%/năm, dịch vụ tăng 6,31%/năm. Quy mô và
tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng GDP năm 2015 đạt khoảng
204 tỷ USD, bình quân đầu người 2.228 USD.
Sản xuất công nghiệp phục hồi và tăng mạnh trong những năm
cuối, năm 2015 tăng khoảng 10%, riêng công nghiệp chế biến, chế
tạo tăng 10,6%. Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định, giá trị
sản xuất tăng 3,85%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng tăng 13,5%/năm, loại trừ yếu tố giá còn tăng
khoảng 5,6%, trong đó năm 2015 tăng 8,7%, cao nhất kể từ năm
2011. Khách quốc tế năm 2015 đạt khoảng 7,9 triệu lượt, gấp gần
1,6 lần so với năm 2010.
Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được nâng lên. Tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,42% năm 2010 lên 82,5%
năm 2015. Tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội
giảm từ 48,4% xuống 45%. Chỉ số năng suất các yếu tố tổng hợp
(TFP) giai đoạn 2011-2015 đạt bình quân 28,94%/năm. Năng suất lao
động tăng bình quân 3,8%/năm. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả
hơn. Trong 9 tháng năm 2015, số doanh nghiệp thành lập mới tăng
28,5% và vốn đăng ký tăng 31,4% so với cùng kỳ năm 2014. Số
doanh nghiệp đang hoạt động là 525 nghìn, gấp hơn 1,5 lần so với

cuối năm 2010.
Các đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả
tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp
tục hoàn thiện và được xác định cụ thể hơn, từng bước thực thi có
18


hiệu quả và tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Triển khai thực
hiện Hiến pháp năm 2013 và nhiều luật, pháp lệnh, nhất là các luật
liên quan trực tiếp đến thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu
kinh tế và hội nhập quốc tế. Môi trường đầu tư kinh doanh và năng
lực cạnh tranh có bước tiến mới. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu
của Việt Nam trong 5 năm tăng 19 bậc.
Phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ đạt được những
kết quả tích cực. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, mạng lưới
được mở rộng, cơ cấu đào tạo hợp lý hơn, quy mô và chất lượng được
nâng lên. Chú trọng bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục,
nhất là vùng khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số,… Ứng dụng
khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là trong các
lĩnh vực nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, xây dựng. Thị
trường khoa học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng
13,5%/năm. Số lượng sáng chế và các giải pháp hữu ích đăng ký bảo
hộ gấp gần 2,2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Chỉ số đổi mới sáng
tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2015 tăng 19 bậc so với năm 2010 .
Tốc độ phát triển vốn đầu tư phát triển toàn xã hội các năm
2013, 2014 và 2015 so với năm trước.
(Theo giá hiện hành)
Đơn vị tính: %

Tổng số

Khu vực Nhà nước
Khu vực ngoài Nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài
(Nguồn Tổng cục Thống kê)

Năm

Năm

Năm

2013
108,

2014
111,

2015
112,

4
108,

5
110,

0
106,


7
107,

2
113,

7
113,

1
109,

6
110,

0
119,

9

5

9

19


Cơ cấu vốn đầu tư của Việt Nam giai đoạn 2011 đến

2.2.


2015
2.2.1. Nguồn vốn từ trong nước
Khởi đầu giai đoạn 2011-2015, để khắc phục những bất cập
trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư theo phương thức cũ, việc tái
cơ cấu đầu tư, đặc biệt là Luật Đầu tư công đã được thông qua. Qua
hơn 3 năm thực hiện, quá trình tái cơ cấu đầu tư công bước đầu đã
có chuyển biến tích cực, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP có xu hướng giảm
dần.
Một trong những văn bản quan trọng nhất của việc thể chế hóa
đầu tư công thời gian qua là Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13
được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2014 và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/01/2015. Đây là văn bản pháp lý quan trọng
được coi là tạo điều kiện cho việc thực hiện quá trình tổng thể tái cơ
cấu đầu tư công và tái cơ cấu nền kinh tế.

Bên cạnh đó, nhiều thể chế quan trọng khác được ban hành liên
quan tới việc định hướng đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư,
chuẩn bị đầu tư, phê duyệt đầu tư và thực hiện, giám sát đầu tư .
Cùng với việc quản lý chặt chẽ đầu tư công, khu vực kinh tế tư
nhân cũng được khuyến khích mở rộng phát triển . Về cơ bản, các
chính sách đã góp phần bước đầu khắc phục tình trạng bố trí vốn
phân tán, dàn trải, thất thoát lãng phí; nâng cao hiệu quả đầu tư.
Xét về cơ cấu vốn đầu tư, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh
tế Nhà nước đã giảm dần từ 59,1% (năm 2000) xuống còn 33,9%
(năm 2008) và tăng nhẹ trở lại lên mức 40,4% năm 2013 và 38%
20


năm 2015 nhằm duy trì ổn định và phát triển kinh tế khi khu vực

đầu tư ngoài Nhà nước và đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn,
cầu tăng thấp do chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế.
Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng
nhanh (khoảng 16 điểm % từ năm 2001 đến 2015), nguyên nhân
chủ yếu là do việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước; nhiều
cơ sở mở rộng sản xuất kinh doanh và thành lập mới.
Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không
ổn định nhưng nhìn chung có xu hướng tăng dần. Trong đó, đáng
chú ý, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều
khó khăn, vốn FDI giải ngân giai đoạn 2011-2015 vẫn duy trì ở mức
khoảng 10,5-12 tỷ USD (trong đó năm 2015 đã tăng mạnh lên mức
14,5 tỷ USD).

Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước vẫn ở mức cao (bình
quân giai đoạn 2011 – 2015 đạt khoảng 39,1%). Trong đó, vốn từ
NSNN tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất.
Riêng năm 2015, vốn từ NSNN tăng cao hơn so với các năm trước do
tính bổ sung thêm 30.000 tỷ đồng giai ngân vốn nước ngoài nguồn
ngân sách nhà nước theo các hiệp định đã ký kết với các nhà tài trợ
và tiến độ thực hiện . Vốn tín dụng nhà nước cũng tăng nhanh trong
những năm gần đây.
21


Tình trạng đầu tư dàn trải vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt
để: năm 2010, các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ
vốn ngân sách nhà nước cho tổng số 16.658 dự án với số vốn bình
quân phân bổ cho dự án là gần 7 tỷ đồng; vốn bình quân phân bổ
cho dự án nhóm A ở trung ương năm 2010 xấp xỉ 115 nghìn tỷ đồng.
Đến năm 2011, quy mô trung bình một dự án đầu tư là 11 tỷ

đồng/dự án; năm 2012 tăng lên là 17 tỷ đồng dự án .
Tình trạng đầu tư phong trào, rập khuôn của nhiều ngành, địa
phương vẫn diễn ra phổ biến và không thực sự chú trọng tới hiệu
quả lợi thế so sánh của địa phương. Hiệu quả đầu tư vẫn còn thấp,
thể hiện qua chỉ số ICOR vẫn tiếp tục tăng và ở mức cao.

Nguyên nhân làm cho ICOR của Việt Nam cao một phần là do
Việt Nam đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng cơ sở,
bao gồm cả hạ tầng cơ sở ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xoá
đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng mặt chủ quan vẫn
22


là cơ chế quản lý đầu tư xây dựng lỏng lẻo, lãng phí nghiêm trọng,
quy hoạch đầu chưa hợp lý… chính vì vậy, so với các quốc gia khác
đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng như Việt Nam thì hệ số
ICOR của Việt Nam hiện nay vẫn ở ngưỡng cao.
2.2.2. Thực trạng thu hút nguồn vốn ODA ở Việt Nam hiện

-

nay.
Tình hình thu hút nguồn vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 2011 –

2015.
Năm 2011: Bộ trưởng Võ Hồng Phúc đã công bố tổng số vốn các
nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam là 7,9 tỷ USD, chủ yếu
dành cho cơ sở hạ tầng, công trình giao thông và biến đổi khí
hậu. Trong con số này, 3,3 tỷ USD đến từ các nhà tài trợ song
phương, riêng Nhật Bản cam kết 1,76 tỷ USD. Đối tác đa phương

cam kết 4,6 tỷ USD. So với những năm trước thì số vốn ODA cam
kết đầu tư vào nước ta sụt giảm. Trước đó, nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức liên tục trong xu hướng tăng, từ 3,7 tỷ USD hồi

-

2005 lên 8 tỷ USD năm 2009.
Năm 2012: Bộ trưởng Kế hoạch & amp; Đầu tư Bùi Quang Vinh
cho biết tổng số viện trợ phát triển chính thức (ODA) mà các nước
và tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam trong năm tài khoá 2012 là
7,386 tỷ USD, thấp hơn so với mức xấp xỉ 7,9 tỷ USD của năm

-

2011.
Năm 2013: Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi ký kết của cả năm 2013 ước đạt trên 7 tỉ
USD, tăng 19,3% so với mức của năm 2012. Một số dự án ODA có
giá trị lớn, như nhà máy xử lý nước thải tập trung tại Yên Xá,
Thanh Trì, Hà Nội trên 306 triệu USD; Dự án Xây dựng đường sắt
đô thị Hà Nội tuyến số 1 - giai đoạn 1 (ga Ngọc Hồi) trị giá 179,2
triệu USD; Dự án nâng cao an toàn cầu đường sắt Hà Nội – TP
HCM hơn 148 triệu USD Các chương trình, dự án có quy mô vốn
lớn gồm: Dự án kết nối khu vực trung tâm đồng bằng Mê Công
(544 triệu USD), Nhà ga hành khách quốc tế T2 - sân bay Nội Bài

23


(332 triệu USD), Dự án Phát triển hạ tầng giao thông ĐBSCL (176

-

triệu USD).
Năm 2014: Công tác vận động và thu hút nguồn ODA và vốn vay
ưu đãi có nhiều chuyển biến tích cực, thông qua các hoạt động
hợp tác phát triển, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm
2014 đạt 4.362,13 triệu USD (4.160,08 triệu USD ODA vốn vay và
vay ưu đãi, 202,05 triệu USD viện trợ không hoàn lại). Tổng giá trị
các hiệp định ký kết năm 2014 bằng khoảng 68% của năm 2013.
Nguyên nhân dẫn đến giá trị ký kết năm 2014 thấp hơn so với
năm trước đó là do các cơ quan Việt Nam chú trọng đến công tác
chuẩn bị dự án, đặc biệt chất lượng văn kiện và tính khả thi của
các chương trình, dự án, đảm bảo mục tiêu duy trì nợ công bền
vững.
 Thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam hiện nay.
▪ Tình hình giải ngân
 Giai đoạn 2011-2012:
Theo báo cáo Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2011

tổng vốn ODA đã ký kết trong năm 2011 đạt 6,333 tỷ USD (trong đó,
vốn vay: 6,164 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại: 169 triệu USD). Tuy
nhiên, tổng giá trị giải ngân các chương trình, dự án ODA năm 2011
chỉ đạt 3,650 tỷ USD, tăng 3% so với năm 2010 (trong đó vốn vay:
3,400 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại: 250 triệu USD), bằng 57,6%
tổng giá trị ký kết và bằng 152% kế hoạch được giao.
Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, tính đến cuối
năm 2012, tổng vốn ODA giải ngân đạt 37,59 tỉ USD, chiếm trên
66,92% tổng vốn ODA ký kết. Đặc biệt, tỉ lệ giải ngân vốn ODA của
Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ hai và năm 2012 đứng
thứ nhất thế giới, tỉ lệ giải ngân của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam

tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012. Năm 2012, để khắc phục
tình trạng giải ngân chậm, ngày 19/1, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định 106/2012/QĐ-TT phê duyệt đề án “Định hướng thu hút,
quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đãi
khác của các nhà tài trợ thời kỳ 2011-2015”. Theo đó, đưa ra mục
24


tiêu giai đoạn 2011-2015 Việt Nam sẽ giải ngân khoảng 14-16 tỷ
USD. Chính phủ Việt Nam cũng chọn năm 2012 là “năm giải ngân”
nguồn vốn ODA. Ngoài ra, Chính phủ đã nâng cấp Tổ công tác ODA
thành Ban chỉ đạo Quốc gia 14 về ODA… nhờ đó kết quả giải ngân
năm 2012 đã tăng lên khoảng 10% so với năm 2011. Với kết quả
này, nhiều chuyên gia quốc tế đã đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam.
 Giai đoạn 2013-2014

Trong năm 2013, tổng số vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân
đạt 5.137 triệu USD (ODA vốn vay và vốn vay ưu đãi: 4.686 triệu
USD; ODA viện trợ không hoàn lại: 451 triệu USD), trong đó các
khoản giải ngân nhanh thông qua các chương trình tín dụng kèm
theo khung chính sách như Chương trình Tín dụng hỗ trợ Quản lý và
cạnh tranh kinh tế, Chương trình Hỗ trợ biến đổi khí hậu,…đạt trên
500 triệu USD. Các nhà tài trợ quy mô lớn vẫn tiếp tục được duy trì
mức giải ngân cao (Nhật Bản (JICA): 1.686 triệu USD, WB: 1.359 triệu
USD). Riêng ADB đã có sự đột phá về mức giải ngân năm 2013, lần
đầu tiên tổng giải ngân của ADB vượt ngưỡng 1.300 triệu USD. Số
liệu thống kê năm 2013 cho thấy Việt Nam đã giải ngân được hơn 5,1
tỷ USD vốn ODA và vốn vay ưu đãi, tăng 23% so với năm trước. Điều
đáng mừng là các nhà tài trợ truyền thống đều ở mức cao như Nhật
Bản giải ngân được 1,69 tỷ USD, Ngân hàng Thế giới (WB) đạt 1,35

tỷ USD và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) với khoảng 1,3 tỷ USD.
Bên cạnh đó, một bức xúc khác là số vốn chưa giải ngân vẫn còn ở
mức rất cao. Theo đó, hiện còn trên 20,9 tỷ USD vốn ODA chưa giải
ngân. Trong đó, điển hình là trường hợp của Bộ Giao thông và Vận tải
bị nợ đọng lớn nhất. Tiến độ thực hiện của các dự án ODA so với kế
hoạch đề ra trong năm 2013 ở mức khá tốt. Tỷ lệ giải ngân của các
dự án ODA của Bộ Tài chính đạt mức trung bình khá, cụ thể:
+ Trong 6 tháng đầu năm 2013: Khối lượng công việc đã hoàn

thành đạt 80% so với kế hoạch đã đề ra trong 6 tháng đầu năm
và đạt 50% khối lượng công việc dự kiến thực hiện trong năm.
25


×