Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Phát triển hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.01 KB, 137 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong lịch sử hơn 40 năm của mình, có lẽ chưa có thời điểm
nào ngành bảo hiểm Việt Nam sôi động như hiện nay. Đất nước
đang đứng trước một thời kỳ mới - thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
một cách toàn diện, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nền kinh tế Việt Nam
đã có những bước biến chuyển nhanh chóng và thay đổi một cách rõ
rệt. Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập đã
mở ra cho thị trường bảo hiểm Việt Nam những cơ hội mới.
Số lượng các công ty bảo hiểm tham gia thị trường ngày một
nhiều, tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân của các công ty bảo
hiểm là 20%/năm. Doanh thu tăng đồng nghĩa việc số vốn nhàn rỗi
mà các công ty bảo hiểm tạm thời sở hữu cũng ngày một tăng. Đây
chính là nguồn vốn quan trọng mà các công ty bảo hiểm có thể sử
dụng để đầu tư trở lại nên kinh tế để sinh lợi.
Trong điều kiện nền kinh tế mở và thị trường chứng khoán
đang ngày càng trở nên sôi động như hiện nay, cơ hội đầu tư vốn để
tăng lợi nhuận cho các công ty bảo hiểm là rất lớn. Kinh nghiệm từ
các nước khác cho thấy, phần lớn lợi nhuận mà các công ty bảo
hiểm thu được là từ hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư càng được
chú trọng, lợi nhuận mang lại càng nhiều thì các công ty bảo hiểm
càng có điều kiện để giảm phí, tăng cường công nghệ, nâng cao chất
lượng dịch vụ để thu hút khách hàng mua bảo hiểm. Qua đó mà uy


2

tín, hình ảnh và khả năng cạnh tranh của công ty bảo hiểm càng


được tăng cường.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt
Nam hiện nay hầu như vẫn chưa được quan tâm một cách thoả
đáng. Chỉ trừ một số công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt,
Prudential… hoạt động đầu tư đã được thực hiện một cách bài bản,
còn phần lớn các công ty bảo hiểm khác, đặc biệt là các công ty bảo
hiểm phi nhân thọ trong đó có Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam, hoạt động đầu tư mới chỉ dừng lại ở đầu tư
tiền gửi có kỳ hạn hoặc kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu nên hiệu quả
đầu tư chưa cao và không bền vững.
Vì vậy, phát triển hoạt động đầu tư là xu thế, là yêu cầu đối với
tất cả các công ty bảo hiểm, trong đó có Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Do đó, tác giả luận văn chọn
đề tài: “Phát triển hoạt động đầu tư của Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu về hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư của Công ty Bảo
hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp phát triển hoạt động đầu tư của Công
ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


3

- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động đầu tư của công ty Bảo
hiểm.
- Phạm vi nghiên cứu là hoạt động đầu tư của Công ty Bảo
hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giai đoạn 20062007.

4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết kết hợp
với thực tiễn, sử dụng các phương pháp toán học trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
Những phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đi từ lý luận đến thực tiễn,
phương pháp thống kê để phân tích, tổng hợp, so sánh số liệu, hệ
thống hoá…trên cơ sở tài liệu, số liệu thống kê kinh tế và số liệu
thống kê của Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học:
- Hệ thống hoá lý luận về hoạt động đầu tư trong công ty bảo
hiểm, làm rõ các đặc trưng về nguồn vốn, về hạn mức và lĩnh vực
đầu tư của công ty bảo hiểm cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới kết
quả hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư của Công ty Bảo hiểm
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


4

- Trên cơ sở phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm phát
triển hoạt động đầu tư của Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam trên cả hai phương diện quy mô và hiệu quả.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3
chương như trình bày sau:
CHƯƠNG I: Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm

CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động đầu tư của Công ty Bảo
hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CHƯƠNG III: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư của công
ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam


5

CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY BẢO
HIỂM
1.1. Tổng quan về công ty bảo hiểm
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty bảo hiểm
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, loài
người luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro như thiên tai, địch họa,
tai nạn, bệnh tật… và cao hơn nữa là những biến động về kinh tế,
chính trị, xã hội… gây xáo trộn cuộc sống, thậm chí đe doạ tới tính
mạng và của cải của mình. Chính vì vậy, con người luôn luôn tìm
cách để bảo vệ mình khỏi những tác động không mong muốn đó,
cũng như dự trữ tài chính để bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy
ra nhằm nhanh chóng ổn định cuộc sống và công việc.
Ngay từ xa xưa, con người đã biết dự trữ lương thực để đề
phòng mất mùa, hạn hán…, đóng góp thành lập các quỹ dự trữ
chung cho cộng đồng để đề phòng những thảm họa, hoặc những tổn
thất lớn liên tiếp ngoài sự chống đỡ của mỗi cá nhân, mỗi gia đình.
Đời sống kinh tế xã hội của loài người càng phát triển, các rủi ro
tiềm ẩn mà loài người có thể gặp phải càng phức tạp, khó lường và
vì thế mà nhu cầu được bảo vệ, được an toàn của con người ngày
càng cao. Ngành bảo hiểm ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó
của con người. Vậy bảo hiểm là gì và nó đã hình thành và phát triển
như thế nào?



6

Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo
hiểm. Tuy nhiên, khái niệm có nội dung đầy đủ và logic nhất đó là:
“Bảo hiểm là một sự thoả thuận hợp pháp thông qua đó, một cá
nhân hay một tổ chức (người được bảo hiểm) chấp nhận đóng góp
một khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm) cho một tổ chức khác
(công ty bảo hiểm) để đổi lấy những cam kết về khoản bồi thường
hoặc chi trả khi có sự kiện quy định trong văn bản thoả thuận (hợp
đồng bảo hiểm) xảy ra”. Vậy thực chất của hoạt động bảo hiểm là
quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội giữa những người
tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi sự kiện bảo
hiểm xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm.
Ý niệm về dự trữ và nguồn gốc của bảo hiểm đã có từ hàng
trăm năm trước công nguyên, nhưng hợp đồng bảo hiểm chính thức
đầu tiên được phát hiện cho đến nay được ký kết năm 1347 tại
Italia. Đó là hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên. Sự ra đời của bảo
hiểm và bảo hiểm hàng hải đã có vai trò hỗ trợ rất lớn đối với cuộc
“cách mạng thương mại” diễn ra vào thế kỷ 15 khi châu Âu thực
hiện cuộc viễn chinh vào châu Á và châu Mỹ.
Tiếp theo bảo hiểm hàng hải, năm 1666, ở Anh đã xảy ra một
vụ cháy lớn, một thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử, đã thiêu huỷ trên
13.000 toà nhà, dẫn đến nhu cầu bảo hiểm hoả hoạn trở nên cần
thiết, và đầu năm 1667 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên được
thành lập tại nước Anh.


7


Dần dần, bảo hiểm đã được mở rộng với nhiều loại hình khác
nhau như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm con
người, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm nông nghiệp…
Như vậy, bảo hiểm xuất hiện do sự tồn tại khách quan của các
rủi ro và từ mong muốn được bảo đảm an toàn về mặt tài chính của
con người. Đó là một hình thức phân tán rủi ro áp dụng theo nguyên
lý cộng đồng. Bảo hiểm thực chất là việc những người tham gia bảo
hiểm đóng góp làm hình thành nên một quỹ chung để từ đó thực
hiện chi trả cho những trường hợp rủi ro xảy ra đối với các thành
viên.
Ban đầu bảo hiểm ra đời một cách tự phát, một nhóm người
đứng ra thu phí và nhận trách nhiệm thanh toán bồi thường cho
những người tham gia bảo hiểm trong trường hợp rủi ro, quy mô
bảo hiểm nhỏ và cũng chỉ ở một số lĩnh vực hạn hẹp. Cùng với quá
trình phát triển kinh tế xã hội, để đáp ứng các yêu cầu bảo hiểm
ngày càng đa dạng, với độ phức tạp ngày càng cao, đòi hỏi sự ra đời
của các công ty bảo hiểm có tổ chức khoa học, chặt chẽ và hoạt
động ngày càng chuyên nghiệp.
Ngày nay, Công ty bảo hiểm được hiểu là doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, được thành lập, tổ chức,
hoạt động theo quy định của pháp luật như Luật doanh nghiệp, Luật
kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên
quan đến loại hình kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo
hiểm.


8

Theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh bảo hiểm, công ty bảo

hiểm được phân thành hai loại là bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm gốc cung cấp dịch vụ bảo hiểm trực tiếp cho
khách hàng tham gia bảo hiểm, còn công ty tái bảo hiểm thì không
trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách hàng tham gia bảo hiểm, mà
chỉ nhận tái bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm gốc.
Theo nghiệp vụ bảo hiểm thì công ty bảo hiểm được phân
thành công ty bảo hiểm phi nhân thọ và công ty bảo hiểm nhân thọ.
Công ty bảo hiểm phi nhân thọ thực hiện những nghiệp vụ bảo hiểm
liên quan tới tài sản, trách nhiệm và tính mạng của người tham gia
bảo hiểm. Đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm phi nhân thọ là
không mang tính chất tiết kiệm, nghĩa là khi hết hạn hợp đồng,
người tham gia bảo hiểm sẽ không được hoàn trả lại số phí bảo
hiểm đã đóng cho dù có hoặc không có tổn thất xảy ra đối với đối
tượng bảo hiểm. Trong khi đó, công ty bảo hiểm nhân thọ thực hiện
các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan tới sinh mạng và mang tính chất
tiết kiệm. Các khoản phí đóng định kỳ của hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ sẽ được tích luỹ lại và được thanh toán vào thời điểm đáo hạn
của hợp đồng trên cơ sở số tiền bảo hiểm đã thoả thuận. Trong
trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm
đúng số kỳ quy định mà gặp phải những rủi ro không thể đóng phí
bảo hiểm tiếp thì vẫn được bảo lưu hợp đồng và đến hết hạn hợp
đồng vẫn được thanh toán toàn bộ số tiền bảo hiểm như đã thoả


9

thuận. Trong trường hợp người tham gia bảo hiểm tử vong thì được
bồi hoàn toàn bộ số tiền đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm có các đặc điểm cơ bản sau:
a. Công ty bảo hiểm là doanh nghiệp chuyên ngành

Công ty bảo hiểm là doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng như
các doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế quốc dân, do đó
cũng mang đặc trưng của một doanh nghiệp, tự chịu trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của mình và trong khuôn khổ pháp luật. Tuy
vậy, ngành bảo hiểm là một ngành đặc thù trong nền kinh tế, gắn bó
chặt chẽ với quốc tế dân sinh, được coi là một tổ chức kinh doanh
đặc biệt, giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế nên được nhà
nước kiểm soát chặt chẽ. Vì vậy, công ty bảo hiểm ngoài việc tuân
thủ những quy định của Luật doanh nghiệp và hệ thống pháp lý
chung thì công ty bảo hiểm còn hoạt động dưới sự điều chỉnh của
Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành luật
này.
Nội dung kinh doanh của công ty bảo hiểm là những nghiệp
vụ bảo hiểm. Đây là sự khác nhau giữa công ty bảo hiểm với các
doanh nghiệp thuộc loại hình và ngành nghề kinh doanh khác.
Nghiệp vụ bảo hiểm là một loại hoạt động kinh doanh có tính chất
giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức công ty sử dụng quỹ bảo hiểm
được lập ra bằng cách thu phí bảo hiểm từ những người có nhu cầu
tham gia bảo hiểm để bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người
được bảo hiểm hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy


10

ra sự kiện bảo hiểm. Sự khác nhau về bản chất giữa nghiệp vụ bảo
hiểm với các nghiệp vụ khác là yếu tố then chốt quyết định sự khác
nhau giữa các công ty bảo hiểm với các doanh nghiệp thuộc loại
hình ngành nghề khác.
b. Công ty bảo hiểm là trung gian tài chính
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có đặc thù riêng đó là sự đảo

ngược chu kỳ kinh doanh. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm là phí bảo hiểm được thanh toán trước, những cam kết thanh
toán sẽ được thực hiện sau một khoảng thời gian hoặc cũng có thể
không thực hiện nếu không có sự kiện xảy ra. Như vậy, từ việc thu
được phí bảo hiểm, công ty bảo hiểm có trong tay một quỹ tài chính
rất lớn. Quỹ này không dùng để chi trả hết ngay nên công ty bảo
hiểm có thể sử dụng phần nhàn rỗi này để đầu tư trở lại nền kinh tế
như đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, gửi ngân hàng, cho vay hay đầu tư
bất động sản…
Vai trò trung gian tài chính của công ty bảo hiểm còn thể hiện
ở việc thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm, công ty bảo hiểm
có khả năng huy động những nguồn vốn quy mô nhỏ, đối tượng sở
hữu rộng thành những nguồn vốn quy mô lớn, tập trung; từ những
khoản phí bảo hiểm thu định kỳ trong những thời hạn khác nhau
thành những nguồn vốn quy mô lớn được đầu tư theo thời hạn cụ
thể thông qua hoạt động đầu tư.
c. Công ty bảo hiểm thường không vay vốn để kinh doanh
bảo hiểm


11

Không như những doanh nghiệp khác, trước khi tổ chức hoạt
động kinh doanh bao giờ cũng cân đối những nguồn vốn tự có, phần
vốn còn thiếu sẽ được huy động từ những nguồn khác như vay vốn
ngân hàng, những tổ chức tín dụng khác… đối với công ty bảo
hiểm, hoạt động vay vốn nhằm mục đích kinh doanh bảo hiểm
thường không xảy ra, trừ một số trường hợp đặc biệt như cần một
lượng tiền để thanh toán bồi thường lớn. Khi mới thành lập, công ty
bảo hiểm phải có vốn điều lệ nhất định không thấp hơn mức vốn

pháp định. Thông thường, công ty bảo hiểm phải ký quỹ một phần
vốn điều lệ để đảm bảo khả năng thanh toán. Phần còn lại sẽ được
tích luỹ tại công ty để dùng cho những hoạt động ban đầu và làm cơ
sở đảm bảo cho những hợp đồng bảo hiểm mới. Sau khi những hợp
đồng bảo hiểm được cung cấp, số phí bảo hiểm thu được sẽ trích lập
các quỹ dự phòng nghiệp vụ theo quy định và một phần chuyển tái
bảo hiểm. Như vậy, khi bắt đầu hoạt động, công ty bảo hiểm đã có
khoản thu từ phí bảo hiểm, là cơ sở để trích lập các quỹ và chi phí
cho hoạt động kinh doanh. Các quỹ này cùng với vốn chủ sở hữu sẽ
được phép đầu tư theo quy định nhằm thu lợi nhuận. Nguồn lợi
nhuận này chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận của công ty
bảo hiểm. Theo thời gian hoạt động, quỹ này sẽ ngày càng lớn và
công ty bảo hiểm trở thành những nhà đầu tư hùng mạnh. Trừ
trường hợp đặc biệt, khi có những tổn thất xảy ra trên diện rộng, hậu
quả nghiêm trọng, toàn bộ quỹ dự phòng của công ty bảo hiểm
không gánh vác nổi chi phí bồi thường thì công ty bảo hiểm mới


12

phải vay vốn để bù đắp nhằm đảm bảo những cam kết với khách
hàng. Trường hợp này hầu như không xảy ra trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trên toàn thế giới.
d. Công ty bảo hiểm là pháp nhân có tính chất xã hội và
liên hiệp
Công ty bảo hiểm tiếp nhận rủi ro, trách nhiệm với khách hàng
rất lớn, vì vậy trên thế giới không có công ty bảo hiểm tư nhân. Bởi
vì nếu cá nhân đó gặp tai nạn, rủi ro thì không có người giải quyết
tiếp các trách nhiệm đã nhận. Vì vậy, công ty bảo hiểm phải là một
pháp nhân liên hiệp một số cá nhân để luôn có người gánh vác trách

nhiệm của doanh nghiệp với các khách hàng của họ.
e. Hoạt động của công ty bảo hiểm được nhà nước kiểm
soát chặt chẽ
Hoạt động của công ty bảo hiểm có ảnh hưởng lớn tới quyền
lợi của người tham gia bảo hiểm, tới thị trường tài chính và tới toàn
bộ nền kinh tế quốc dân nên được nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ
nhằm bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, định hướng
lưu chuyển các quỹ đầu tư và giảm nguy cơ tập trung quyền lực
trong lĩnh vực tài chính.
1.1.2 Các hoạt động của công ty bảo hiểm
Công ty bảo hiểm thực hiện các hoạt động chủ yếu sau:
1.1.2.1 Hoạt động bảo hiểm
Trong hoạt động của công ty bảo hiểm, kinh doanh bảo hiểm
gốc và kinh doanh tái bảo hiểm đóng vai trò quan trọng. Kinh doanh


13

bảo hiểm gốc là hoạt động chính của công ty bảo hiểm. Công ty bảo
hiểm chấp nhận những rủi ro của người được bảo hiểm trên cơ sở
người được bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí sẽ được hai
bên thoả thuận trên cơ sở những điều kiện, điều khoản, điều khoản
bổ sung trong hợp đồng bảo hiểm. Đối với bảo hiểm phi nhân thọ,
khi có tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì công ty bảo hiểm
sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm tương ứng với tỷ lệ tổn thất
trên số tiền bảo hiểm nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm. Đối
với bảo hiểm nhân thọ, công ty bảo hiểm sẽ thanh toán cho người
được bảo hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm khi hết hạn hoặc theo
những thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Kinh doanh bảo hiểm phải luôn bảo đảm nguyên tắc “số đông”

và “độ tích tụ rủi ro”. Theo nguyên tắc này thì một mặt phải thu hút
nhiều khách hàng cùng tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm để có thể
chia sẻ rủi ro cho nhau, mặt khác tổng mức giữ lại tại một thời điểm
của tất cả các hợp đồng bảo hiểm ứng với số tiền bảo hiểm tương
ứng không được vượt quá quy định so với quỹ dự phòng và vốn
kinh doanh của công ty bảo hiểm.
Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động mà công ty bảo hiểm
chuyển một phần hoặc toàn bộ rủi ro đã chấp nhận cho một hay
nhiều công ty bảo hiểm khác (nhượng tái bảo hiểm) và ngược lại,
nhận một phần hoặc toàn bộ rủi ro mà một hoặc nhiều công ty bảo
hiểm khác đã chấp nhận (nhận tái bảo hiểm). Thông qua nhận và
nhượng tái bảo hiểm mà một dịch vụ bảo hiểm có thể được chia sẻ


14

cho nhiều công ty bảo hiểm. Hoạt động tái bảo hiểm giúp công ty
bảo hiểm đảm bảo được sự an toàn tài chính và mở rộng được mối
quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Mặt khác, tái bảo hiểm cũng làm
tăng năng lực chấp nhận dịch vụ của công ty bảo hiểm vì công ty
bảo hiểm dù lớn đến đâu cũng luôn có giới hạn về tài chính đối với
mức độ rủi ro mà họ có thể chấp nhận. Do vậy, nếu không có tái bảo
hiểm thì nhiều dịch vụ sẽ bị từ chối hoặc chỉ được chấp nhận một
phần, từ đó ảnh hưởng đến khả năng hoạt động và hình ảnh của
công ty.
Quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty nhận tái bảo
hiểm dựa trên nguyên tắc tín nhiệm. Công ty nhận tái bảo hiểm bắt
buộc phải chấp nhận mọi sự giải quyết của công ty bảo hiểm gốc.
Điều cần lưu ý là công ty nhận tái bảo hiểm không có nghĩa vụ
kinh tế trực tiếp đối với người được bảo hiểm gốc. Do đó, trong

trường hợp xảy ra tổn thất hoặc sự kiện bảo hiểm, nếu nhà nhận tái
bảo hiểm không thực hiện được nghĩa vụ đối với công ty bảo hiểm
gốc thì công ty bảo hiểm gốc vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán
đầy đủ cho người được bảo hiểm. Vì vậy, để hạn chế rủi ro này,
công ty bảo hiểm gốc cần tìm kiếm những nhà nhận tái bảo hiểm
lớn, có uy tín trên thị trường.
Trong hoạt động tái bảo hiểm, công ty nhượng tái bảo hiểm sẽ
được nhận một khoản hoa hồng quản lý từ công ty nhận tái bảo
hiểm (thường được tính theo tỷ lệ phần trăm của phí tái bảo hiểm)
cũng như được quyền nhận tiền bồi thường tái bảo hiểm từ công ty


15

nhận tái bảo hiểm trong trường hợp xảy ra tổn thất, từ đó làm giảm
chi bồi thường của doanh nghiệp. Còn công ty nhận tái bảo hiểm sẽ
được nhận phí tái bảo hiểm theo tỷ lệ đã nhận tái bảo hiểm và có
nghĩa vụ phải chi trả bồi thường theo tỷ lệ đó khi xảy ra tổn thất
hoặc sự kiện bảo hiểm cho công ty nhượng tái bảo hiểm.
Trong một công ty bảo hiểm, hoa hồng nhượng tái bảo hiểm
cũng là một khoản thu đối với công ty, nhưng khi hoa hồng nhượng
tái bảo hiểm càng lớn cũng chứng tỏ lượng phí bảo hiểm chuyển đi
cho công ty bảo hiểm khác càng lớn, phí giữ lại tại công ty càng
nhỏ. Mỗi công ty bảo hiểm cần căn cứ vào khả năng tài chính của
mình cũng như điều kiện của từng đơn bảo hiểm mà tính toán tỷ lệ
tái bảo hiểm thích hợp.
1.1.2.2 Hoạt động đầu tư
Do đặc điểm kinh doanh bảo hiểm là phí bảo hiểm thu trước
còn trách nhiệm giao kết trong hợp đồng được thực hiện sau, công
ty bảo hiểm có một nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi khá lớn trong một

khoảng thời gian nhất định từ lúc thu phí bảo hiểm đến lúc thực hiện
nghĩa vụ thanh toán với khách hàng. Đấy chính là điều kiện tiền đề
cho công ty bảo hiểm thực hiện hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm bao gồm việc quản lý
quỹ đầu tư hình thành từ vốn chủ sở hữu và các quỹ dự phòng
nghiệp vụ sao cho thu chi đúng nguyên tắc, hợp lý và mang lại hiệu
quả cao nhất mà vẫn đảm bảo an toàn tài chính cũng như khả năng
thanh toán của công ty.


16

Một công ty bảo hiểm có thể thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực
đa dạng như trái phiếu, cổ phiếu, đầu tư bất động sản, cho vay, góp
vốn liên doanh… theo quy định của pháp luật.
Việc đầu tư vốn nhàn rỗi vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm
của các công ty bảo hiểm. Thực tế cho thấy, phần lớn lợi nhuận của
công ty bảo hiểm được hình thành từ hoạt động đầu tư. Có thể nói,
hoạt động đầu tư có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt động kinh
doanh của bất cứ công ty bảo hiểm nào.
1.1.2.3 Các hoạt động khác
Ngoài hai hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư,
công ty bảo hiểm còn thực hiện các dịch vụ đại lý như giám định
tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn,
xử lý hàng bồi thường 100%.
Trong hoạt động này, công ty bảo hiểm nhận sự uỷ quyền của
cá nhân, tổ chức khác thực hiện các dịch vụ giám định nguyên nhân
và mức độ tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ 3
bồi hoàn, xử lý tài sản bị tổn thất toàn bộ… thay cho các cá nhân, tổ
chức đó. Qua đó, công ty sẽ nhận được một khoản phí đại lý để làm

tăng thu nhập công ty. Cũng nhờ những hoạt động này mà niềm tin
của khách hàng đối với công ty ngày càng được củng cố, chất lượng
dịch vụ không ngừng được cải thiện, uy tín và khả năng cạnh tranh
của công ty vì thế cũng được tăng cao.
Như vậy, giữa các hoạt động của công ty bảo hiểm có mối
quan hệ hữu cơ, tác động qua lại thúc đẩy lẫn nhau. Các dịch vụ đại


17

lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ
ba bồi hoàn … giúp cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm diễn ra trơn
tru, nhanh chóng, chính xác, thoả mãn nhu cầu khách hàng. Trong
khi đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm lại thu hút vốn cho hoạt
động đầu tư. Đến lượt mình, hoạt động đầu tư mang lại lợi nhuận,
tạo điều kiện để công ty bảo hiểm tăng năng lực cạnh tranh, giảm
phí bảo hiểm, tăng chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, tạo điều kiện
để hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển. Để trở thành một công
ty bảo hiểm lớn, có uy tín trên thị trường, các công ty bảo hiểm cần
quan tâm đúng mức tới các hoạt động này để chúng hỗ trợ và thúc
đẩy lẫn nhau.
1.1.3 Vai trò của công ty bảo hiểm trong nền kinh tế
Với các hoạt động trên, rõ ràng các công ty bảo hiểm có một
vai trò quan trọng đối với mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội.
- Đối với mỗi cá nhân khi tham gia bảo hiểm, các công ty bảo
hiểm giúp khắc phục những hậu quả tài chính của một số rủi ro nhất
định, từ đó giúp ổn định cuộc sống, đưa lại cho mỗi người cảm giác
yên tâm. Việc trả tiền bảo hiểm đỡ cho mỗi cá nhân gánh nặng tài
chính để xử lý hậu quả của tai nạn, rủi ro, từ đó làm tăng khả năng
gánh chịu rủi ro, đặc biệt là những rủi ro trầm trọng vượt quá khả

năng chống đỡ của mỗi cá nhân, gia đình.
- Các công ty bảo hiểm cũng có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế.


18

Công ty bảo hiểm giúp đỡ các cá nhân, tổ chức đã tham gia
bảo hiểm khắc phục những hậu quả tài chính mà họ có thể gặp phải.
Trước hết, công ty bảo hiểm giúp các công ty khắc phục hậu quả khi
xảy ra rủi ro, đảm bảo ổn định tài chính, tránh được tình trạng gián
đoạn sản xuất kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, luôn có rất
nhiều các rủi ro có thể dẫn tới thua lỗ, ảnh hưởng đến hoạt động của
công ty. Việc tham gia bảo hiểm cho phép chủ công ty chuyển giao
được một phần, một số rủi ro nhất định sang cho công ty bảo hiểm,
từ đó thúc đẩy các công ty mạnh dạn hơn trong việc đầu tư vào kinh
doanh, qua đó tăng sản lượng hàng hoá, giảm thất nghiệp, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
Trong năm 2003, các tổn thất về tài sản do thiên tai, thảm họa
do con người được bảo hiểm trên toàn thế giới lên mức gần 17 tỷ
USD, con số này trong năm 1992 là 36 tỷ USD và trong năm 2001
là 35 tỷ USD.
Bên cạnh đó, công ty bảo hiểm cũng góp phần vào việc hạn
chế rủi ro. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất là một mặt hoạt động
quan trọng, cần thiết đối với các công ty bảo hiểm. Đặc điểm kinh
doanh bảo hiểm đồi hỏi các công ty bảo hiểm phải thực hiện nghiên
cứu rủi ro, thống kê tai nạn, tổn thất, xác định nguyên nhân và đề ra
các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro, từ đó làm
giảm chi phí bồi thường của công ty, nâng cao hiểu quả hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, đồng thời mang lại hiệu quả về mặt xã hội.



19

Chính vì vậy các công ty bảo hiểm thường dùng một phần
kinh phí đáng kể nhằm trợ giúp, tư vấn, hướng dẫn cho các khách
hàng tham gia bảo hiểm về các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi
ro, cũng như hỗ trợ xây dựng các công trình nhằm giảm thiểu rủi ro
có thẻ xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm, qua đó góp phần làm hạn
chế các tổn thất có thể xảy ra cho mỗi cá nhân, công ty cũng như
toàn xã hội.
Các công ty bảo hiểm cũng đóng vai trò là những trung gian
tài chính quan trọng. Bảo hiểm góp phần thúc đẩy hoạt động tiết
kiệm, tập trung vốn, góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn trong xã
hội. Trước hết, bảo hiểm làm hình thành nên ý thức, thói quen tiết
kiệm của các cá nhân, chủ hộ gia đình và chủ công ty về việc giành
ra một phần thu nhập để đảm bảo một tương lai an toàn hơn. từ
nguồn phí bảo hiểm thu được của các loại hình bảo hiểm đa dạng,
các công ty bảo hiểm tập trung được một nguồn vốn khá lớn có thể
đầu tư. Trong quá trình thực hiện đầu tư, các công ty bảo hiểm có
thể thực hiện đầu tư trực tiếp vào tài sản hoặc thực hiện cho vay đối
với chính phủ, các tổ chức quốc tế, cung cấp vốn cho các tổ chức tài
chính, các công ty,… qua việc cho vay trực tiếp hoặc mua trái
phiếu, cổ phiếu do các tổ chức này phát hành. Từ đó, không những
đưa lại lợi nhuận cho bản thân công ty bảo hiểm mà còn trợ giúp
quan trọng về tài chính cho các tổ chức, công ty, góp phần kích
thích nền kinh tế phát triển.


20


Về phía chính phủ, các công ty bảo hiểm có đóng góp khá lớn
cho ngân sách quốc gia. Đồng thời họ cũng đóng vai trò là người
cho vay quan trọng đối với chính phủ qua việc mua một lượng lớn
trái phiếu chính phủ. Một số công trình kinh tế trọng điểm được đầu
tư bằng vốn vay của công ty bảo hiểm. Với tư cách là một ngành
kinh doanh ngày càng phát triển, các công ty bảo hiểm góp phần tạo
ra một lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, bao gồm cả
các cán bộ kinh doanh trực tiếp, các bộ quản lý và các đại lý bảo
hiểm. Vào năm 1999, ở Bắc Mỹ, khoảng hơn 1690 công ty bảo
hiểm nhân thọ đã cung cấp việc làm cho gần 2,3 tỷ người.
Các công ty bảo hiểm cũng là các nhà tài trợ lớn cho các hoạt
động văn hoá, thể thao, các hoạt động xã hội từ thiện. Các hoạt động
này một mặt nhằm quảng bá, khuếch trương thương hiệu của các
công ty bảo hiểm, một mặt cũng đóng góp tích cực cho xã hội.
Như vậy, công ty bảo hiểm có vai trò rất to lớn đối với toàn xã
hội nói chung. Họ giúp các cá nhân ổn định cuộc sống, giúp các
công ty ổn định sản xuất kinh doanh khi có rủi ro xảy ra, đóng góp
vào nguồn thu ngân sách của ngân sách nhà nước, góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế
hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát triển nền kinh tế, đóng vai
trò quan trọng trong cuộc sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
1.2. Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong công ty bảo
hiểm


21

Về bản chất, hoạt động bảo hiểm có tính chất hoàn trả (thanh

toán bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho khách hàng). Đặc điểm
hoạt động kinh doanh bảo hiểm tạo cho công ty bảo hiểm một
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ lúc thu phí bảo hiểm đến khi thực
hiện nghĩa vụ thanh toán với khách hàng. Công ty bảo hiểm có thể
sử dụng nguồn vốn đó để thực hiện các hoạt động đầu tư. Hoạt động
đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với công ty bảo hiểm nói
riêng và với toàn nền kinh tế nói chung.
1.2.1.1 Đối với công ty bảo hiểm
Có thể nói, đầu tư là hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt đối
với sự tồn tại và phát triển của công ty bảo hiểm.
Thu nhập từ hoạt động đầu tư là một nguồn quan trọng tạo lợi
nhuận cho công ty bảo hiểm, nhất là công ty bảo hiểm nhân thọ.
Ngày nay, trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, các công ty bảo
hiểm phải luôn tính đến một biểu phí cạnh tranh với phạm vi bảo
hiểm ngày càng được mở rộng. Thu nhập từ hoạt động đầu tư dần
trở thành cơ sở để trang trải các khoản chi phí và là nguồn gốc chính
sản sinh lợi nhuận của công ty. Ở các nước phát triển, lợi nhuận từ
đầu tư thường chiếm tới trên 70% tổng lợi nhuận trước thuế của
công ty bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư ảnh hưởng đến trực tiếp đến khả năng cạnh
tranh của công ty bảo hiểm. Bên cạnh chính sách dịch vụ (thuờng là
mối quan tâm hàng đầu ở các khách hàng truyền thống) thì chính
sách phí lại đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút các khách


22

hàng mới. Một trong những điều kiện quan trọng để có khả năng
thực hiện giảm phí nhằm thu hút khách hàng là công ty bảo hiểm
phải có những biện pháp đầu tư hợp lý để tăng cường hiệu quả sử

dụng vốn.
Đối với các công ty bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ,
lợi nhuận từ hoạt động đầu tư là cơ sở cho phép công ty bảo hiểm
giảm chi phí, mở rộng phạm vi bảo hiểm và các công ty bảo hiểm sử
dụng thu nhập từ hoạt động đầu tư để trả lãi hợp đồng (đối với các
công ty bảo hiểm nhân thọ) thanh toán bồi thường, trang trải các chi
phí hoạt động, và tạo lợi nhuận.
Thông qua hoạt động đầu tư, công ty bảo hiểm cũng có thể
xây dựng, thắt chặt thêm các mối quan hệ với các khách hàng, từ đó
góp phần mở rộng quy mô hoạt động của công ty. Ví dụ như qua
việc cho một tổ chức nào đó vay tiền, hoặc góp vốn vào một công
ty, công ty bảo hiểm sẽ có thể thực hiện khai thác bảo hiểm tại các
công ty, tổ chức đó. Qua đó làm tăng quy mô phí bảo hiểm cũng
như quy mô nguồn vốn có thể đầu tư.
Hoạt động đầu tư cũng giúp các công ty bù đắp sự mất giá của
đồng tiền, bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát.
1.2.1.2 Đối với xã hội
Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm có vai trò quan trọng
trong việc huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân. Cùng với các
trung gian tài chính khác như ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng khác…, công ty bảo hiểm đóng vai trò cung ứng tài chính cho


23

thị trường vốn. Do tập trung được nguồn vốn từ các khách hàng
tham gia bảo hiểm, bao gồm cả các khách hàng lớn quan trọng là
những pháp nhân đến những khách hàng nhỏ lẻ là những thể nhân,
công ty bảo hiểm tích cực đầu tư toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế bao gồm từ đầu tư bất động sản, tham gia các hoạt

động mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, gửi tiền vào ngân hàng
hoặc đầu tư kinh doanh vào các dự án mang tính chiến lược của nền
kinh tế. Nhờ có hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm mà việc tập
trung, huy động, lưu chuyển và sử dụng vốn của nền kinh tế trở nên
linh hoạt và hiệu quả hơn.
1.2.2 Nguồn vốn đầu tư của công ty bảo hiểm
Vốn đầu tư của công ty bảo hiểm được huy động chủ yếu từ
hai nguồn cơ bản là vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
- Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc,
quỹ dự trữ tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử
dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại
của công ty.
Đây chính là một nguồn quan trọng để thực hiện các nghĩa vụ
thanh toán cho khách hàng trong trường hợp công ty làm ăn không
hiệu quả. Nguồn vốn này có ưu điểm là không phải chịu sự kiểm
soát chặt chẽ của pháp luật nên công ty có thể sử dụng để đầu tư dài
hạn vào các lĩnh vực có tỷ suất sinh lợi cao.


24

- Nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm là
tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà công ty
bảo hiểm dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối
với bảo hiểm phi nhân thọ và trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong
kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ.
Trong đó, dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến
từng nghiệp vụ bảo hiểm, được trích lập và hạch toán vào chi phí
kinh doanh nhằm mục đích thanh toán các trách nhiệm đã được xác

định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã ký kết.
Theo điều 13 Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm
2007 thì khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên
trong kỳ đối với công ty kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không
thấp hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại
các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khoản tiền dùng để trả
tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với công ty kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ không thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt
Nam.
Trong các nguồn vốn đầu tư trên, nguồn vốn nhàn rỗi từ dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
vốn đầu tư của công ty bảo hiểm và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của
pháp luật.
1.2.3 Các đặc trưng hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm


25

Không giống như phần lớn các nhà đầu tư, các công ty bảo
hiểm phải tuân theo các quy tắc về giới hạn loại hình và khối lượng
các khoản đầu tư mà họ thực hiện.
Các quy tắc này được đưa ra để yêu cầu các nhà bảo hiểm thực
hiện sự tôn trọng việc đa dạng hoá đầu tư và bảo vệ khách hàng
khỏi sự đe doạ của sự vỡ nợ của nhà bảo hiểm khi họ thực hiện các
hoạt động đầu tư quá mạo hiểm nhằm thu được lợi nhuận cao.
Để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và cũng là xuất phát từ
lợi ích của bản thân công ty bảo hiểm, đảm bảo giữ uy tín của công
ty, công ty bảo hiểm phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong
suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đồng thời thực hiện

các khoản đầu tư có độ an toàn cao với khả năng sinh lời phù hợp.
Công ty bảo hiểm được coi là có đủ khả năng thanh toán khi đã trích
lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ theo quy định và có biên khả năng
thanh toán không thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy
định của chính phủ.
Trong đó:
+ Biên khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm là phần
chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của công ty
bảo hiểm.
+ Biên khả năng thanh toán tối thiểu của công ty bảo hiểm
được quy định riêng cho bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân
thọ.


×