Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận Doanh nghiệp Việt Nam trước ngưỡng cửa Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP Tiểu luận Quan hệ Kinh tế Quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.33 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Thực hiện chính sách ngoại giao “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc
tế và khu vực”, hiện nay Việt Nam đang tích cực tham gia đàm phán nhiều hiệp định
thương định thương mại tự do, trong đó có Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái
Bình Dương (TPP), không chỉ là môt hiệp định thương mại tự do khu vực siêu lớn,
bao trùm gần 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu, mà còn được xem là khuôn
mẫu liên kết kinh tế của thế kỷ XXI.
Việc đàm phán và đi đến ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
chắc chắn sẽ tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế trong nước cả tích cực
lẫn tiêu cực, trong đó cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng mạnh
nhất và cũng là bộ phân quyết định thành công của quá trình hội nhập này.
Vì vậy tôi chọn nghiên cứu đề tài “Doanh nghiệp Việt Nam trước ngưỡng cửa Hiệp
định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương” để xác định rõ những cơ hội, thách
thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi hiệp định được ký kết, từ đó có được những
hành động cụ thể để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, chủ động đón đầu
hiệp định quan trọng này.

2


NỘI DUNG
1. Tổng quan về Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Một số khái niệm:
- Hiệp định thương mại tự do (FTA) là một hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều


quốc gia. Theo đó, các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ hàng
rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu
dịch tự do.
1.1 Giới thiệu tóm tắt về Hiệp định TPP
1.1.1 Lịch sử
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (tên tiếng Anh là Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement, viết tắt là TPP) là một hiệp định thương
mại tự do nhiều bên với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á –
Thái Bình Dương.
Thỏa thuận ban đầu gồm bốn nước Singapore, Chile, New Zeland, Brumei được ký
vào 3/6/2005 và có hiệu lực từ 28/5/2006, do vậy hiệp định còn được gọi là P4.
Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa các
nước thành viên trước ngày 01 tháng 01, 2006 và cắt giảm bằng không tới năm 2015.
Đây là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của một hiệp
định thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can
thiệp, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của
chính quyền...
Năm 2007, các nước thành viên TPP quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của Hiệp
định này sang các vấn đề dịch vụ tài chính, đầu tư và trao đổi với Mỹ. Phía Mỹ cũng
bắt đầu tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị
3


viện về vấn đề này. Đến tháng 9 năm 2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP. Tiếp đó là
Australia, Peru. Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư
cách thành viên liên kết. Ngày 13/11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP
với tư cách này, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành viên đầy đủ.
Trước đó, tháng 10 năm 2010, Ma-lai-xia cũng chính thức tham gia vào TPP. Tháng
10 năm 2012, Mexico và Canada cũng bắt đầu tham gia đàm phán. Tháng 3 năm
2013, Hiệp đinh TPP có thêm thành viên mới nhất là Nhật Bản nâng tổng số nước

tham gia đàm phán lên thành 12 nước.
1.1.2 Các vấn đề được đàm phán trong TPP
Tháng 11/2011, một bản khung sơ bộ của đàm phán TPP được nguyên thủ 9 nước
thành viên công bố. Theo đó, Hiệp định TPP sẽ bao gồm những cam kết trong lĩnh
vực thương mại và phi thương mại.
Dưới đây là bảng tóm tắt các lĩnh vực và định hướng đàm phán tương ứng theo Bản
khung sơ bộ đàm phán TPP tháng 11/2011:
STT
Lĩnh vực
1
Cạnh trạnh

2

Hợp tác và Xây
dựng năng lực

3

Dịch vụ xuyên biên
giới

4

Hải quan

5

Thương mại điện tử


6

Môi trường

Các định hướng đàm phán
Tạo lập, duy trì pháp luật và các cơ quan cạnh tranh, đảm
bảo công bằng trong thủ tục thực thi luật cạnh tranh, minh
bạch, bảo vệ người tiêu dùng và quyền hành động của khu
vực tư nhân
Cơ chế hợp tác và hỗ trợ xây dựng mang tính thiết chế
- Linh hoạt
- Theo cơ chế “yêu cầu - đáp ứng”
Các nguyên tắc chính điều chỉnh lĩnh vực này:
- Công bằng
- Mở
- Minh bạch
- Thủ tục hải quan có thể dự đoán trước, minh bạch,
nhanh chóng và thuận lợi cho hoạt động thương mại
(hướng tới việc liên kết các doanh nghiệp TPP trong
chuỗi cung cấp và sản xuất khu vực);
- Hợp tác hải quan
- Hướng tới nền kinh tế “số”
- Hướng tới các vấn đề về thuế quan trong môi trường số,
chứng thực giao dịch điện tử và bảo vệ người tiêu dùng
- Thương mại và môi trường cần phát triển tương hỗ
4


7


Dịch vụ tài chính

8

Mua sắm chính phủ

9

Sở hữu trí tuệ

10

Đầu tư

11

Lao động

12

Các vấn đề pháp lý

13

Thương mại hàng
hóa

- Nhấn mạnh việc bảo vệ môi trường và cơ chế giám sát
việc thực thi cũng như hợp tác hỗ trợ
Đang thảo luận về một số vấn đề mới như:

- Đánh cá trên biển
- Bảo tồn đa dạng sinh học
- Chống sinh vật ngoại lai
- Biến đổi khí hậu
- Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ môi trường
- Minh bạch, không phân biệt đối xử;
- Đối xử công bằng đối với các dịch vụ tài chính mới
- Bảo hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp
- Đảm bảo chủ quyền của các nước, đặc biệt trong trường
hợp có khủng hoảng tài chính
Những nguyên tắc cơ bản và thủ tục đấu thầu công:
- Công bằng
- Minh bạch
- Không phân biệt đối xử
- Dựa trên và phát triển từ TRIPS
- Phản ánh các cam kết đă nêu trong Tuyên bố Doha về
TRIPS và Y tế cộng đồng (Ghi nhận sự cần thiết của
việc áp dụng linh hoạt các quy định của TRIPS trong vấn
đề quyền tiếp cận thuốc của cộng đồng; nhưng chưa có
cơ chế cụ thể cho việc này)
Phạm vi vấn đề đàm phán:
- Không phân biệt đối xử;
- Chuẩn đối xử tối thiểu;
- Quy tắc về tịch thu tài sản;
- Các quy định cấm các yêu cầu cụ thể về hoạt động
kinh doanh của nhà đầu tư
- Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước - nhà đầu tư
nhanh chóng, hiệu quả và minh bạch
- Quyền của nước nhận đầu tư trong việc bảo vệ lợi ích
công cộng

Phạm vi đàm phán:
- Bảo vệ các quyền của người lao động
- Cơ chế đảm bảo hợp tác, phối hợp và đối thoại về các
vấn đề lao động
Các nguyên tắc đảm bảo thực thi Hiệp định:
- Quy tắc giải quyết tranh chấp;
- Các ngoại lệ về vấn đề minh bạch trong quá trình ban
hành pháp luật nội địa
Phạm vi đàm phán
- Lộ trình cắt bỏ thuế quan của tất cả các dòng thuế
- Quy tắc xuất xứ
5


14

Thương mại dịch vụ

- TBT, SPS và Phòng vệ thương mại: Dựa trên nền của
WTO (phát triển theo hướng minh bạch hơn và hợp tác
hơn)
- Dệt may: Một loạt các quy định liên quan, bao gồm cơ
chế hợp tác hải quan, thủ tục thực thi, quy tắc xuất xứ, cơ
chế đàm phán đặc biệt
Các nguyên tắc cơ bản:
- Mở cửa tất cả các ngành dịch vụ (không đề cập đến
cấp độ “phân ngành”);
- Phương pháp đàm phán: Chọn bỏ + Cho phép đàm
phán các ngoại lệ trong một số lĩnh vực


Chú thích:




TBT (Technical Barriers to Trade): Hàng rào kỹ thuật đối với Thương mại
SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures): Biện pháp kiểm dịch động thực vật
TRIPS: Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ

1.2 TPP – Hiệp định thương mại tự do của thế kỷ XXI
Thực tiễn hội nhập và toàn cầu hóa hoạt động thương mại trên thế giới đã chứng kiến
3 thế hệ FTA, bao gồm:


FTA thế hệ thứ nhất tập trung ở việc tự do hóa lĩnh vực thương mại hàng hóa



(cắt giảm thuế quan, loại bỏ các rào cản phi thuế quan)
FTA thế hệ thứ hai mở rộng phạm vi tự do hóa sang các lĩnh vực dịch vụ nhất
định (xóa bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực dịch vụ liên



quan)
FTA thế hệ thứ ba tiếp tục mở rộng phạm vi tự do về dịch vụ, đầu tư

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương – TPP được xem là hiệp định
thương mại tự do thế hệ thứ ba và là hiệp định của thế kỷ 21 bới tầm vóc và ảnh

hưởng nó mang lại.
Về phạm vi, so với các hiệp định thương mại tự do song phương (BTA), khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và trong WTO, TPP mở rộng hơn, cả về thương mại
hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn là các vấn đề phi
thương mại như mua sắm chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các
6


DN vừa và nhỏ... hướng tới mục tiêu là nhằm “tạo nên một hiệp định tiêu chuẩn cao,
phù hợp với thế kỷ 21” như lời công bố của Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ
(USTR). Với phạm vi rộng như vậy, hiệp định sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế
- xã hội của các nước thành viên.
Mặt khác, sự tham gia của nền kinh tế lớn nhất thế giới (Hoa Kỳ), vào một khu vực
có tốc độ phát triển thương mại cũng như tự do hóa thương mại thuộc bậc nhất thế
giới (châu Á – Thái Bình Dương), cùng các cam kết sâu rộng, sẽ làm thay đổi tương
lai trật tự thương mại toàn cầu. Thương mại dịch vụ giữa các nước TPP hiện chiếm
gần 1/3 tổng thương mại dịch vụ toàn cầu. TPP có thể mở đầu xu hướng mới trong
việc đàm phàn các hiệp định thương mại tự do, đó là xu hướng sâu, rộng và toàn
diện. Một số quy tắc mới về kinh tế hoặc liên quan đến kinh tế mà TPP đang phát
triển cũng có triển vọng sẽ thay thế những quy tắc hiện hành lỗi thời của WTO vốn
được thiết lập từ năm 1995.

2. Cơ hội và thách thức với doanh nghiệp Việt Nam
Theo Bộ Công thương, tham gia Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình
Dương - TPP, hiện có các thành viên chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và
80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, sẽ tạo ra một cú hích mạnh với nền
kinh tế trong nước. GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 26.2 tỷ USD từ lúc ký
TPP (khoảng nửa đầu năm 2015) cho đến năm 2025 và nếu Nhật Bản tham gia con số
đó sẽ là 37.5 tỷ USD. Không những thế, Việt Nam còn có cơ hội thúc đẩy quá trình
tăng trưởng xuất khẩu, tăng cường thu hút FDI, tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá

trình tái cấu trúc cục diện quốc tế và khu vực cũng như xu thế liên kết kinh tế khu
vực, đặc biệt là khu vực châu Á-Thái Bình Dương đem lại, từ đó sẽ giúp đẩy nhanh
quá trình tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, tham gia TPP cũng như tất cả các hiệp định thương mại khác, chúng ta
cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn, đặc biệt là vấn đề chính sách, thể
chế, pháp luật.

7


Trước những thuận lợi và khó khăn khi tham gia TPP cho nền kinh tế nói chung, các
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng có được những cơ hội lớn nhưng cũng phải đối mặt
những thách thức không nhỏ.
2.1 Cơ hội
2.1.1 Lợi ích thuế quan
Tham gia Hiệp định TPP, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát
triển, đặc biệt trong việc xuất khẩu hàng hóa sang các nước thành viên TPP khi mà
90% dòng thuế sẽ được giảm về 0%. Việc tiếp cận được nhiều đối tác quan trọng như
Mỹ, Nhật Bản, Australia...thông qua Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình
Dương sẽ tạo cho hàng hóa Việt Nam một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn. Nhiều mặt
hàng như dệt may, da giày, đồ gỗ, nông sản của Việt Nam có khả năng mở rộng thị
trường, gia tăng xuất khẩu do thuế suất giảm sâu, kéo theo đó là lợi ích của một bộ
phận lớn người lao động hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ xuất khẩu.
Trung tâm WTO tại Việt Nam nhận định, khi gia nhập TPP xuất khẩu của Việt Nam
ước tăng 28,4% trong năm 2025 so với mức cơ sở không có TPP. Cụ thể, dự kiến
xuất khẩu sẽ chỉ đạt 239 tỷ USD nếu không có TPP nhưng có TPP sẽ tăng lên 307 tỷ
USD. Có được điều đó là do hiện nay, nhiều nước thành viên đàm phán TPP đang là
những thị trường xuất khẩu chủ lực của nước ta. Dưới đây là biểu đồ và bảng kim
ngạch xuất nhập khẩu của nước ta với các nước TPP giai đoạn 2010-2012.


8


Đối với mặt hàng dệt may, năm 2013, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và nguyên phụ
liệu ngành dệt may vượt qua con số 20 tỷ USD, duy trì tốc độ tăng trưởng 18%.
Không chỉ tăng trưởng cao về tốc độ, xuất khẩu dệt may còn tăng trưởng mạnh tại các
thị trường trọng điểm như: Mỹ tăng 15%, Hàn Quốc tăng gần 30%. Tham gia kí kết
Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) có ý nghĩa quan
9


trọng với ngành dệt may, bởi bởi trong 12 quốc gia tham gia TPP gồm cả Việt Nam,
có tới hai thị trường lớn của ngành dệt may là Mỹ và Nhật: 43% kim ngạch xuất khẩu
dệt may của Việt Nam vào Mỹ, 12% vào Nhật và 4% vào các nước TPP còn lại. Như
vậy, có tới gần 60% kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam được xuất khẩu vào
các nước trong khối TPP. Khi thuế suất giảm còn 0% chắc chắn sẽ tạo động lực mạnh
cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Tương tự với mặt hàng da giày, năm 2012 Việt Nam xuất khẩu 7,2 tỉ USSD, trong đó
xuất khẩu sang Mỹ chiếm 31%. Nếu hiệp định TPP được ký kết, mặt hàng này cũng
được hưởng thuế suất 0% thay vì mức 12% hiện nay.
Các mặt hàng nông sản của nước ta cũng có cơ hội rất lớn khi tham gia TPP. Bình
thường, thị trường các nước khác tiến hành bảo hộ cho ngành nông nghiệp trong
nước khá mạnh. Nhưng khi TPP có hiệu lực, nông sản Việt nhiều cơ hội sẽ vượt qua
được yếu tố này, có khả năng đẩy lượng xuất khẩu tăng cao, đặc biệt là mặt hàng lúa
gạo, khi mà các nước xuất khẩu gạo lớn như Thái Lan, Ấn Độ... chưa gia nhập TPP.
Hiệp định TPP được nhận định sẽ là cú hích cho nhiều ngành xuất khẩu của Việt
Nam hiện nay, trong đó có những ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày...
2.1.2 Cơ hội tiếp cận các thị trường lớn trong thương mại và đầu tư
Khi nước ta gia nhập TPP, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tiếp cận với thị
trường thương mại, dịch vụ, đầu tư của các nước thành viên một cách thuận lợi, dễ

dàng, ít rào cản hơn.
Công đồng doanh nghiệp Việt Nam đứng trước cơ hội làm ăn, đầu tư rất giá trị tại thị
trường rộng lớn lên tới gần 850 triệu dân, bao trùm tới 40% GDP toàn cầu. Đây sẽ là
một động lực lớn thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.

10


Số liệu GDP và dân số các nước thành viên TPP năm 2012

2.1.3 Cơ hội mua nguyên nhập liệu giá rẻ từ các nước thành viên TPP
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào
cho nhiều ngành công nghiệp. Các doanh nghiệp nước ta vẫn phải nhập khẩu nguyên
liệu từ nước ngoài phục vụ cho quá trình sản xuất. Chẳng hạn như ngành dệt may, da
giày có tới 2/3 nguyên liệu phải nhập khẩu. Trong số các nước tham gia đàm phán
TPP, chúng ta đang nhập khẩu khá nhiều từ Nhật Bản, Singapore và Mỹ.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn thứ ba, chiếm 10,2% tổng kim ngạch nhập khẩu
của Việt Nam năm 2012. Trong các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản, có 13 mặt hàng
đạt kim ngạch trên 100 triệu USD, trong đó có 3 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ
USD (máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; sắt thép các loại; máy tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện).
Singapore là thị trường Việt Nam nhập khẩu lớn thứ 6, chiếm trên 6% tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu của
Singapore, có 6 mặt hàng có kim ngạch đạt trên 100 triệu USD, lớn nhất là xăng dầu,
tiếp đến là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện... Một số mặt hàng nhập khẩu
từ Singapore chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, như
xăng dầu 42,6%; sản phẩm khác từ dầu mỏ 20,45; giấy 11,1%; máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện 7,8%; chất dẻo nguyên liệu 5,4%...
11



Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn thứ 8 của Việt Nam, chiếm 4,1% tổng kim ngạch
nhập khẩu của Việt Nam. Trong các mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ, có 10 mặt hàng đạt
kim ngạch trên 100 triệu USD, trong đó lớn nhất là máy vi tính, hàng điện tử và linh
kiện; máy móc, thiết bị và dụng cụ, phụ tùng; thức ăn gia súc; bông...
Từ đây chúng ta có thể thấy rằng, trong khi nền kinh tế trong nước chưa đáp ứng
được nhiều sản phẩm và nguồn nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành công nghiệp,
việc ký kết hiệp đinh TPP sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam mua được nhiều sản phẩm,
nguyên liệu với chi phí thấp, giảm chi phí sản xuất, từ đó nâng cao năng lực cạnh
tranh cho doanh nghiệp.
2.1.4 Lợi ích đến từ việc mở cửa thị trường mua sắm công
Mặc dù mức độ mở cửa thị trường mua sắm công trong khuôn khổ TPP hiện vẫn
trong quá trình đàm phán và chưa được xác định cụ thể. Xong nhiều khả năng các
nguyên tắc chính của mua sắm chính phủ trong TPP sẽ tương tự như Hiệp định Mua
sắm chính phủ (GAP) của WTO bao gồm: nguyên tắc đối xử tối huệ quốc nghĩa là
không phân biệt giữa các nhà thầu TPP với nhau và nguyên tắc đối xử quốc gia nghĩa
là dành cho nhà thầu đến từ các quốc gia TPP một sự đối xử tương tự như các nhà
thầu trong nước.
Trong 12 thành viên đàm phán TPP, mới chỉ một số quốc gia đã là thành viên của
Hiệp định Mua sắm chính phủ (GAP) của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), như
Mỹ, Canada, Singapore, Nhật Bản. Một số quốc gia như Chile, Việt Nam, Úc, đang
là quan sát viên còn New Zealand thì đang đàm phán tham gia.
Nếu ký kết TPP, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tham gia đấu thầu công khai,
minh bạch trong thị trường trị giá hàng tỷ USD này. TPP vì thế có thể là một động
lực tốt để giải quyết những bất cập trong các hợp đồng mua sắm công và hoạt động
đấu thầu xuất phát từ tình trạng thiếu minh bạch, điều này rất có ý nghĩa với những
doanh nghiệp kinh doanh chân chính hiện nay

12



2.1.5 Lợi ích từ việc cải cách, thay đổi thể chế để đáp ứng yêu cầu chung của TPP
Việt Nam đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng với việc đã và đang
đàm phán ký kết một loạt Hiệp định quốc tế có những yêu cầu rất cao về tự do hóa và
đẳng cấp thể chế (hiện đại). Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được
coi là khuôn mẫu của thể chế hội nhập trong thế kỷ XXI cho các nền kinh tế quốc gia,
cũng tức là thể chế vận hành chủ đạo của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới.
Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự thay đổi lớn
trong chính sách, thể chế của nền kinh tế trong nước, một bước “nhảy vọt đẳng cấp”
thể chế trong tương lai không xa. Trong đó, cơ chế sẽ tạo môi trường cạnh tranh, kinh
doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành
phần, khu vực kinh tế khác nhau; phân bổ nguồn lực theo hướng tăng hàm lượng điều
tiết thị trường thay cho cơ chế “xin – cho”; đảm bảo sự nhật quán và thực hiện đầy đủ
của hệ thống pháp luật về thể chế kinh tế thị trường.
Những thay đổi trong cơ chế, chính sách như vậy sẽ tạo ra những lợi ích lâu dài, bền
vững, xuyên suốt cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
2.1.6 Lợi ích từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường
Theo Tổng cục thống kê, năm 2012 cả nước có trên 375000 doanh nghiệp đang hoạt
động thực tế. Trong số đó, số lượng doanh nghiệp đảm bảo được các tiêu chuẩn về
lao động và môi trường còn rất thấp. Cũng trong năm 2012 trên toàn quốc đã xảy ra
6777 vụ tai nạn lao động làm 6967 người bị nạn. Số doanh nghiệp được cấp tiêu
chuẩn ISO 14001 về Hệ thống quản lý môi trường còn rất khiêm tốn, năm 2007, cả
nước chỉ cấp được 230 chứng chỉ ISO 14001.
Điều này cho thấy rằng, khi ký kết Hiệp định TPP với những yêu cầu cao về vấn đề
lao động và môi trường bước đầu có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, xét về lâu dài, đây thực sự là một cơ hội để các doanh nghiệp thực hiện
nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ môi trường và người lao động, qua đó tạo ra môi
trường kinh doanh bền vững cho chính các doanh nghiệp.
13



2.2 Thách thức
2.2.1 Nguy cơ mất khả năng cạnh tranh
Việc giảm mạnh thuế suất khi tham gia TPP sẽ gia tăng nhanh chóng các luồng hàng
nhập khẩu vào Việt Nam với chất lượng tốt, giá rẻ. Khi đó, doanh nghiệp Việt Nam
chắc chắn sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt với các thương hiệu ngoại, thị
phần sẽ bị co hẹp lại, thậm chí có nguy cơ mất thị phần, mất khả năng cạnh tranh
ngay trên sân nhà.
Nhóm hàng nông sản được xem là dễ bị tổn thương khi tham gia vào hiệp định
thương mại tự do sâu rộng như TPP. Theo cam kết TPP, Việt Nam phải loại bỏ 100%
dòng thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp. Các nước thành viên TPP
cũng phải mở cửa cho nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, với các quy ước kỹ thuật về vệ
sinh an toàn thực phẩm, dư lượng kháng sinh, nhãn mác bao gói...nhiều sản phẩm
nông sản của Việt Nam có thể sẽ không qua nổi. Vì vậy các doanh nghiệp nông sản
nhỏ rất khó tận dụng các lợi ích từ việc giảm thuế. Trong khi đó, ở thị trường trong
nước, các rào cản kỹ thuật như vậy chưa có, chưa cao hoặc thực hiện còn lỏng lẻo
nên khó bảo hộ được doanh nghiệp, nông dân. Hàng hóa các nước sẽ đổ vào Việt
Nam và nguy cơ mất thị phần nội địa không phải là quá xa vời.
Dịch vụ cũng là ngành chắc chắn sẽ chịu cạnh tranh khốc liệt khi nước ta ký kết TPP.
Hiện nay dịch vụ là mảng hoạt động thương mại mà mức độ mở cửa thị trường của
Việt Nam là hạn chế và dè dặt nhất. Hiệp định TPP sẽ làm thay đổi điều đó, ngành
dịch vụ trong nước sẽ cửa nhiều hơn, doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp bất lợi lớn khi
phải cạnh tranh với những nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm lâu năm, có
ưu thế về dịch vụ trên thế giới (đặc biệt là các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ).
Hơn nữa, TPP là một sân chơi bình đẳng, không có sự phân biệt giữa nước phát triển
và đang phát triển. Do đó, những nền kinh tế đi sau như Việt Nam sẽ gặp những bất
lợi không hề nhỏ để có thể cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp đến từ các
nước phát triển như Mỹ, Canada, Australia...

14



2.2.2 Thách thức từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh
tranh...và các rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ
Ở những vòng đàm phán TPP gần đây, các nước đặc biệt là Mỹ luôn nhấn mạnh việc
tuân thủ các yêu cầu cao về lao động (theo tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động quốc tế
ILO) và môi trường (theo một danh mục các công ước quốc tế về môi trường).
Bên cạnh những lợi ích từ việc thực thi các yêu cầu này đem lại như đã phân tích ở
trên, thì nó cũng đem lại những bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian
rất ngắn, các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện các tiêu chuẩn cao từ xuất phát
điểm khá thấp, điều này tạo ra nhiều chi phí cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến quá
trình sản xuất kinh doanh.
2.2.3 Thách thức liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Các đối tác phát triển tham gia đàm phán TPP với như Mỹ, Canada, Nhật Bản...có
quan điểm rất rõ ràng với vấn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là Mỹ, đối tác lớn
nhất và cũng cứng rắn nhất đối với vấn đề này.
Nước ta đã tham gia khá sớm với cộng đồng quốc tế về vấn đề sỡ hữu trí tuệ như năm
1949, Việt Nam đã tham gia Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả
ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá; năm 1976, Việt Nam tham gia
công ước Stockholm về thành lập tổ chức sỡ hữu trí tuệ thế giới. Việt Nam cũng tham
gia Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Tuy nhiên tình
trạng vi phạm quyền sỡ hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn còn diễn ra phổ biến.
Trong năm 2006, thanh tra chuyên ngành văn hoá – thông tin tiến hành kiểm tra
20.414 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá, phát hiện 5.647 cơ sở vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ; đã cảnh cáo 519 cơ sở; đình chỉ hoạt động của 289 cơ sở; tạm giữ giấy
phép kinh doanh của 160 cơ sở; chuyển xử lý hình sự 09 trường hợp; xử phạt hành
chính 10.891.780.000 đồng. Thanh tra Bộ Văn hoá – Thông tin tiến hành kiểm tra và
phát hiện nhiều cơ sở kinh doanh máy tính lắp đặt, xây dựng các trang Web, cung cấp
cho khách hàng các phần mềm Windows, Micrrosoft Office, Vietkey… vi phạm pháp
luật về bản quyền.

15


Việc siết chặt hơn vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khi tham gia hiệp đinh TPP sẽ
dẫn tới những khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam khi phải bỏ ra nhiều chi phí hơn
cho cùng một loại sản phẩm. Ví dụ, hệ thống máy tính của rất nhiều doanh nghiệp
hiện nay sử dụng hệ điều hành cũng như phần mềm không có bản quyền, khi tham
gia TPP, các doanh nghiệp phải bỏ chi phí khá lớn để mua bản quyền phần mềm. Dẫu
biết việc bảo hộ quyền sỡ hữu trí tuệ chặt chẽ sẽ giúp môi trường kinh doanh lành
mạnh hơn. Nhưng nếu thực hiện gần như lập tức và toàn bộ sẽ gây ra những khó khăn
cho doanh nghiệp Việt Nam.
2.2.4 Thách thức từ việc mở cửa thị trường mua sắm công
Việc đàm phán mở cửa thị trường mua sắm công là một vấn đề phức tạp do có sự
khác biệt giữa hai quan điểm:


Một là, mua sắm công là việc sử dụng tiền thuế của dân để mua sắm hàng hóa,



do đó cần ưu tiên mua hàng hóa trong nước
Hai là, mua sắm công cần mua được sản phẩm tốt với giá tốt để không lãng phí
tiền thuế của dân, do đó cần mở cửa cho các nhà thầu nước ngoài.

Dù vẫn chưa ngũ ngã nhưng với TPP gần như chắc chắn thị trường mua sắm công sẽ
được mở cửa. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích có một sân chơi công bằng, minh bạch, các
doanh nghiệp Việt Nam cũng chịu những tác động bất lợi do sự thâm nhập của các
nhà thầu nước ngoài có thể khiến cho các nhà thầu trong nước không cạnh tranh nổi.
Việc tiếp cận các gói thầu và thắng thầu mua sắm công ở các nước thành viên TPP
cũng rất khó do sự hạn chế về năng lực cạnh tranh.

2.2.5 Thách thức từ điều kiện hưởng ưu đãi thuế
Mục tiêu lớn nhất khi tham gia TPP của Việt Nam là tăng cường lợi thế xuất khẩu
sang các nước thành viên TPP thông qua việc các nước này miễn hoặc giảm thuế cho
hàng hóa Việt Nam. Xong, để được hưởng ưu đãi thuế, Việt Nam phải thỏa mãn Quy
tắc xuất xứ, theo đó, một ngành chỉ hưởng ưu đãi về thuế xuất khẩu nếu chứng minh
được nguồn nguyên liệu đầu vào có xuất xứ từ các nước tham gia TPP.
16


Tỷ lệ nguồn nguyên liệu đầu vào có xuất xứ từ các nước tham gia TPP vẫn còn trong
quá trình đàm phán, nhưng nếu tỷ lệ này cao sẽ là một bất lợi không nhỏ cho các
doanh nghiệp Việt Nam.
Ví dụ với ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, hiện nay gần 50% nguồn nguyên
liệu vải sợi của Việt Nam nhập từ Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc lại không phải là
quốc gia tham gia TPP. Như vậy sẽ có nguy cơ ngành dệt may không được hưởng ưu
đãi thuế suất hoặc hưởng ưu đãi thuế thấp. Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam
cũng chưa phát triển nên nhiều ngành sản xuất có thể sẽ gặp tình trạng này. Nếu như
vậy, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn không có lợi gì, thậm chí bị thiệt nhiều khi
tham gia TPP.

3. Một số khuyến nghị với doanh nghiệp Việt Nam
Từ những phân tích cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trước
ngưỡng cửa Hiệp đinh TPP, chúng ta thấy rằng, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng
trước những cơ hội đầu tư, kinh doanh rất lớn, nhưng cũng phải đối mặt với những
thách thức không nhỏ. Nhiều yếu tố vừa là thách thức, vừa là cơ hội. Hơn lúc nào hết,
các doanh nghiệp Việt Nam phải xác định rõ những yếu tố đó, nhận biết được lợi thế
của mình, phân tích cái được, cái mất khi Việt Nam ký kết TPP, qua đó có những
hành động cụ thể để chủ động hội nhập, tận dụng cơ hội, khắc phục khó khăn để thu
được lợi ích nhiều nhất từ hiệp định này.
3.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh

Trong sân chơi TPP, nơi mà cạnh tranh được dự báo rất gay gắt thì nâng cao năng lực
cạnh trạnh là yếu tố quan trọng nhất để các doanh nghiệp Việt Nam có thể hội nhập
thành công, đủ sức đứng vững ở thị trường trong nước và phát triển ở thị trường nước
ngoài.
Để làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam nên thực hiện một số giải pháp
sau:

17




Thứ nhất, cần nâng cao năng lực quản lý điều hành, trình độ tổ chức quản trị kinh



doanh của các doanh nghiệp đáp ứng đòi hỏi của cơ chế thị trường.
Thứ hai, xây dựng chiến lược nghiên cứu khoa học công nghệ, phát triển sản
phẩm mới, khắc phục tình trạng chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định và giá
thành cao, khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng



kinh doanh và cạnh tranh bằng giá.
Thứ ba, đầu tư nhiều hơn cho việc xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu
cầu của thị trường, tạo ra những sản phẩm đặc thù, có kiểu dáng, tính năng riêng



biệt đáp ứng những nhu cầu mới của khách hàng.

Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động quảng bá và xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị
trường, kể cả các quy định pháp luật của từng thị trường cụ thể. Hiện tại, hoạt
động này của các doanh nghiệp còn ở trình độ thấp, chưa có hiệu quả. Có rất ít
doanh nghiệp xây dựng được chương trình quảng bá và xúc tiến thương mại để



giới thiệu sản phẩm cho khách hàng.
Thứ năm, có chiến lược liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam để
tạo nên sức mạnh cộng đồng, khắc phục tình trạng tranh mua tranh bán trên thị
trường và sự yếu kém về quy mô nhỏ bé của mình. Các doanh nghiệp cũng cần
liên kết chặt chẽ với nhau thông qua những hợp đồng xác lập quan hệ thương mại
ổn định, tạo nên những hệ thống phân phối ổn định và rộng khắp, tạo điều kiện để
sản phẩm hàng hóa Việt Nam lưu thông thông suốt. Tham gia các hiệp hội ngành
hàng để bảo vệ quyền lợi của mình.

3.2 Lựa chọn mảng kinh doanh phù hợp với năng lực
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa đủ sức cạnh tranh trực tiếp với các
doanh nghiệp nước ngoài do họ có tiềm lực tài chính, nguồn lực con người, bề dày
kinh nghiệm, thương hiệu, uy tín...
Khi đó, thay vì cạnh tranh trực tiếp có thể dẫn tới tình trạng “một mất một còn”, các
doanh nghiệp có thể chọn các phân khúc thị trường mới, có thể nhỏ hẹp hơn nhưng ít
đối thủ. Đó sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp phát triển, củng cố vị trí và nâng cao
tiềm lực của mình. Ví dụ trong đấu thầu các dự án, nếu chưa đủ tiềm lực để trở thành

18


tổng thầu, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng trở thành những nhà
thầu phụ.

3.3 Chủ động chấp nhận và thực thi những quy định về môi trường, lao động và
sở hữu trí tuệ
Những yêu cầu về bảo vệ môi trường, bảo vệ lao động, bảo hộ sở hữu trí tuệ là những
điều tất yếu để xây dựng một thị trường cạnh tranh minh bạch, hiệu quả và phát triển
bền vững. Vì thế dù có muốn hay không thì trong tương lai gần các doanh nghiệp
Việt Nam đều phải đảm bảo những yêu cầu đó.
Khi TPP được ký kết, các tiêu chuẩn về lao động, môi trường và sở hữu trí tuệ gần
như ngay lập tức được áp dụng. Thay vì để phải thực hiện ngay và toàn bộ, có thể ảnh
hưởng xấu đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nên chủ động xây
dựng lộ trình đáp ứng các tiêu chuẩn càng sớm càng tốt, phù hợp với xu thế của thời
đại.
3.4 Cộng đồng doanh nghiệp cần có tiếng nói riêng
Việc kí kết Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương hay bất cứ
hiệp định thương mại tự do nào khác đều ảnh hưởng lớn tới cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam. Do vậy, cộng đồng doanh nghiệp cần có tiếng nói của mình, thông qua các
hiệp hội thương mại, các cơ quan chính phủ để góp ý, kiến nghị với Chính phủ những
điều kiện khi đàm phán nhằm tránh bị thua thiệt, bảo vệ lợi ích của mình cũng như
bảo vệ nền kinh tế trong nước trước tác động sâu rộng của việc hội nhập.

19


KẾT LUẬN
Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) đem lại cả những cơ hội và
khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng.
Đối với các doanh nghiệp, về lợi ích, chúng ta có lợi ích về thuế quan; lợi ích tiếp cận
thị trường; có thể nhập khẩu nguyên liệu với chi phí thấp; lợi ích từ việc mở cửa thị
trường mua sắm công; lợi ích từ việc thay đổi cải cách chính sách, thể chế; lợi ích từ
việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường.
Về thách thức, chúng ta phải đối mặt với nguy cơ mất thị phần, mất khả năng cạnh

tranh; phải chấp nhận yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh tranh...; phải đối
mặt với những quy định về bảo hộ sỡ hữu trí tuệ, với sự mở cửa thị trường mua sắm
công và với những điều kiện để được hưởng ưu đãi về thuế suất.
Cân nhắc giữa lợi ích và thách thức, giữa cái được và mất, chúng ta thấy rằng, nếu
doanh nghiệp Việt Nam thực sự chủ động, tích cực đón đầu TPP bằng nhiều biện
pháp trong đó có thể là các biện pháp đã nêu ở phần 3 thì Hiệp định Đối tác kinh tế
xuyên Thái Bình Dương (TPP) thực sự sẽ là đòn bẩy, là cú hích mạnh cho nền kinh tế
cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam.
Vì vậy hơn lúc nào hết các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng xây dựng cho
mình kế hoạch, lộ trình thay đổi và phát triển khi mà Hiệp định TPP đang được xúc
tiến nhanh chóng có thể kết thúc đàm phán và ký kết vào nửa đầu năm 2015.
20


21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

5.

6.

7.

Vũ Chí Lộc, Giáo trình Đầu tư quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm

2012
Giáo trình Quan hệ Kinh tế quốc tế, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2009
Tạp chí Phát triển & Hội nhập số 14, tháng 01 - 02/2014
Trang web WTO và các vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế, Đàm phán Hiệp
định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), truy cập ngày
7/12/2014, />Trang web Bộ Ngoại giao Việt Nam, Giới thiệu chung về Hiệp định TPP, truy
cập ngày 8/12/2014,
/>0923115344
Bình Định Invest, Doanh nghiệp Việt Nam phải làm gì khi tham gia TPP?, truy
cập ngày 9/12/2014, />idTin=1649&idLoaitin=7
Cao Sỹ Kiêm, Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta sau khi
gia nhập tổ chức thương mại thế giới,truy cập ngày 11/12/2014,
/>co_id=30568&cn_id=149988

22



×