Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

báo cáo thực tập Chất lượng lao động xuất khẩu việt nam và một số giải pháp cho vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.78 KB, 33 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

Đề tài: Chất lượng lao động xuất khẩu Việt nam và một số giải
pháp cho vấn đề này

Đơn vị thực tập:

Phòng LĐTBXH huyện Phúc Thọ - Hà Nội

Giảng viên hướng dẫn: Th.s. Trương T. Thu Hà
Sinh viên thực hiện:

Bùi Thị Thuý

Hà nội - 2014


PHẦN I. MỞ ĐẦU
Xuất khẩu lao động có lịch sử lâu dài trên thế giới, cũng như ở Việt nam.
Việt nam bắt đầu xuất khẩu lao động từ những năm đầu của thập kỷ 80, nhưng
thực sự có sự chuyển biến rõ nét sang thập kỷ 90. Xuất khẩu lao động đóng vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia. Hoạt động xuất khẩu lao động của
Việt nam được biết dưới hình thức lao động theo hợp đồng, thông qua môi giới là
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Do đó, Nhà nước, doanh nghiệp, người lao
động là các chủ thể chủ yếu của hoạt động xuất khẩu lao động. Đối với Việt nam,
đang trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế năng động thì vai trò của xuất
khẩu lao động không thể phủ nhận. Hằng năm, lượng ngoại tệ thu về của nước ta
gần đạt 2 tỷ USD và nhiều lợi ích kinh tế chính trị khác. Trong công tác xuất khẩu


lao động, chất lượng lao động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng. Chất lượng
nguồn nhân lực cũng như chất lượng lao động xuất khẩu được xem xét trên nhiều
khía cạnh: thể lực, tác phong kỷ luật, tay nghề. Các thị trường khác nhau có yêu
cầu rất khác nhau về chất lượng lao động xuất khẩu, tuỳ thuộc vào đặc thù công
việc. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu lao động vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng. Nước ta có nguồn lao động dồi dào nhưng lại không đồng nghĩa với việc
lượng ngoại tệ thu về từ hoạt động này lớn. Tại sao lại có tình trạng này? Lý do
rất đơn giản đó là chất lượng lao động của nước ta chưa đủ sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Mặc dù có số lượng nhưng chất lượng lại không đáp ứng được
nhu cầu của công việc. Vấn đề đặt ra cho xuất khẩu lao động Việt nam đó là nâng
cao chất lượng lao động xuất khẩu lao động thông qua đa dạng hoá các kênh đào
tạo lao động. Không chỉ Nhà nước tham gia vào hoạt động này mà cần khuyến
khích các tổ chức cá nhân bên ngoài tham gia để công tác đào tạo lao động xuất
khẩu đạt hiệu quả cao. Muốn thực hiện tốt công tác này đòi hỏi sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cấp ngành liên quan, cùng với doanh nghiệp, người lao động để hoạt
động xuất khẩu lao động thực sự tương ứng với tiềm năng. Để nâng cao chất
2


lượng nguồn lao động cho xuất khẩu, công việc quan trọng là phải có sự kết hợp
chặt chẽ giữa người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước, trong đó vai trò Nhà
nước là trung tâm. Cùng với sự quan tâm giúp đỡ của cán bộ công chức phòng
Lao động thương binh xã hội, được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô giáo trong
khoa Quản lý nhà nước về kinh tế - Học viện Chính trị Hành chính, em đã hoàn
thành báo cáo thực tập với đề tài “Chất lượng lao động xuất khẩu ở Việt nam và
một số giải pháp cho vấn đề này”
1. Tóm tắt quá trình thực tập và nội dung thực tập
Trong quá trình thực tập tại cơ quan từ ngày 02/3 đến ngày 02/5/2009, tôi đã cố
gắng học hỏi, lấy số liệu nghiên cứu, hoàn thành những công việc được giao, vận
dụng lý thuyết vào thực tế và bước đầu đi sâu tìm hiểu vấn đề xuất khẩu lao

động.Bên cạnh đó, tôi đã học được phong cách làm việc khoa học của một cán bộ,
công chức, môi trường làm việc trong cơ quan Nhà Nước, quy chế làm việc của
cơ quan cũng như của Phòng.
Sau đây tôi xin báo cáo những kết quả đã đạt được trong quá trình thực tập,
nghiên cứu, khảo sát thực tế hoạt động nghiệp vụ của cán bộ, công chức nơi tôi
thực tập. Trong quá trình thực tập tại phòng Lao động thương binh xã hội huyện
Phúc Thọ Hà Nội từ ngày 02/03 đến ngày 02/05/2009, dù thời gian thực tập là
không dài nhưng bước đầu tôi đã tìm hiểu được những hoạt động chính của phòng
thông qua việc nghiên cứu tài liệu, quan sát hoạt động của cán bộ, công chức.
Tuần đầu tiên nhiệm vụ của tôi là làm quen với những cán bộ, công chức phòng,
tìm hiểu nguyên tắc hoạt động, nắm bắt thờI gian làm việc, lề lối làm việc của
phòng….Được sự giúp đỡ của người hướng dẫn thực tập, tôi đã được biết về quá
trình thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của phòng
LĐTBXH. Từ đó, tôi đã có một cái nhìn tổng quát về những hoạt chính của
phòng. Nhờ sự nhiệt tình của cán bộ, công chức trong cơ quan và đặc biệt là nhờ
sự chỉ bảo tận tình của người hướng dẫn thực tập, tôi đã nhanh chóng hoà nhập
với môi trường mới.
Tuần tiếp theo, tôi đã cùng với chuyên viên trong phòng tìm hiểu về vấn đề xuất
khẩu lao động, là cơ sở chủ yếu cho tôi hoàn thành đề tài báo cáo thực tập.
3


2. Đặc điểm tình hình Ủy ban nhân dân huyện Phúc Thọ.
2.1. Cơ cấu tổ chức
Cơ quan UBND huyện Phúc Thọ là một cơ quan hành chính Nhà nước.
Theo điều 123 Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 quy định: “UBND do HĐND bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, là
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành hiến
pháp, luật, các văn bản luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của
HĐND”.

Theo quy định trên thì UBND huyện Phúc Thọ có chức năng quản lý hành
chính nhà nước trên các lĩnh vực Kinh tế,VH-XH, trong phạm vi lãnh thổ mà
mình quản lý.
Căn cứ Luật tổ chức HĐND – UBND ngày 26/11/2003 và Nghị định số
14/2008/NĐ/CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan
chuyên môn huyện quận thị xã thành phố thuộc tỉnh, cơ quan HĐND huyện Phúc
Thọ có:
Thường trực HĐND huyện
Chủ tịch và các phó chủ tịch UBND huyện
Bao gồm 12 phòng ban: Nội vụ; Tư pháp; Tài chính kế hoạch; Tài nguyên
môi trường; Lao động thương binh xã hội; Văn hóa thông tin; Giáo dục đào tạo;
Văn hóa thông tin; Thanh tra; Nông nghiệp và phát triển nông thôn; Thanh tra;
Văn phòng HĐND- UBND.
2.2. C hức năng, nhiệm vụ của cơ quan UBND huyện Phúc Thọ.
- Hướng dẫn kiểm tra đôn đốc các xã, phường, thị trấn xây dựng và chấp
hành kế hoạch kinh tế, văn hóa, và ngân sách.
- Lãnh đạo các xã phát triển các công trình thủy lợi, giao thông vận tải và
sự nghiệp VH- GD, xã hội có tính chất liên xã.

4


-Quản lý về các lĩnh vực Ngân hàng Tài chính, văn hóa, giáo dục, y tế, quản
lý về công tác bưu điện phát thanh truyền hình và sự nghiệp lợi ích cộng đồng của
huyện.
- Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng lực lượng vũ
trang và quốc phòng toàn dân, thực hiện chế độ quân sự, xây dựng lực lượng dân
quan tự vệ, quản lý hộ tịch hộ khẩu của địa phương mình.
- Phòng chống tệ nạn, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tự do
danh dự, quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Chống tham nhũng, buôn lậu,

các tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện.
- Quản lý công tác tổ chức biên chế, lao động, tiền lương.
- Tổ chức và chỉ đạo công tác thi hành án của địa phương mình theo quy
định của pháp luật.
- Xem xét chỉ đạo việc giả quyết các đơn tố cáo, khiếu nại cán bộ nhân dân
trong huyện.
- Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc thẩm quyền của huyện thực hiện
các chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng.
- Ra các quyết định, chỉ thị để thực hiện Nghị quyết của HĐND, của các cơ
quan cấp trên, kiểm điểm việc thi hành các quyết định, chỉ thị đó.
3. Đặc điểm tình hình phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Phúc
Thọ.
3.1. Sơ lược lịch sử thành lập và phát triển.
Phòng Lao đông Thương binh và Xã hội huyện Phúc Thọ là một trong 12
phòng ban thuộc huyện Phúc Thọ. Khi mới thành lập, phòng có tên là phong Nội
vụ - Lao động Thương binh xã hội kiêm chức năng của cả hai phòng. Cùng với sự
phát triển của kinh tế xã hội, nhu cầu giải quyết công việc ngày một nhiều nên
phòng đã tách ra thành hai phòng với chức năng rieng biệt là phòng Nội vụ và
phòng Lao động Thương binh xã hội. Với chức năng nhiệm vụ được giao là thực
hiện chế độ chính sách ưu đãi cho người có công với cách mạng và thân nhân họ.
5


Trải qua các thời kỳ phòng luôn thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, được cơ quan
UBND huyện, các cấp Ủy, Đảng khen thưởng.
Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới chế độ đối với người có
công đã thực hiện ổn định. Phòng đảm nhận thêm nhiệm vụ mới được giao về việc
thực hiện tổ chức lao động, bảo trợ xã hội và an sinh xã hội.
3.2. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức bộ máy phòng Lao đông

Thương binh và Xã hội.
* Chức năng, nhiệm vụ.
Phòng Lao động Thương binh xã hội là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân huyện, cơ quan tham mưu giúp UBND thực hiện chức năng quản lý Nhà nước
về lao động, xóa đói giảm nghèo, trẻ em, tệ nạn xã hội, người có công với xã hội;
thực hiện một số nhiệm vụ do Uỷ ban nhân dân uỷ quyền và theo quy định của
pháp luật.
Phòng Lao động Thương binh xã hội có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài
khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý và biên chế của Uỷ ban nhân dân huyện
đồng thời chịu sự chỉ đạo hướng dẫn của Sở Lao động thương binh xã hội Hà nội
Trình Uỷ ban nhân dân huyện ban hành các quyết định và chỉ thị; quy hoạch, kế
hoạch dài hạn 5 năm và hàng năm; đế án chương trình trong lĩnh vực lao động,
người có công và xã hội, đề án cải cách hành chính, xã hội hoá thuộc lĩnh vực
quản lý hành chính được giao.
Trình chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện dự thảo về văn bản về lĩnh vực lao
động, người có công với xã hội thuộc thẩm quyền ban hành của chủ tịch Uỷ ban
nhân dân huyện.
Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch đề án và
chương trình về lĩnh vực hoạt động người có công với xã hội trên địa bàn huyện
khi được phê duyệt thông tin, tuyên truyền giáo dục phổ biến về lao động người
có công, gia đình và bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Giúp Uỷ ban nhân dân huyện quản lý nhà nước với tổ chức kinh tế, kinh tế tư
nhân, hướng dẫn kiểm tra hoạt động của các Hội thuộc lĩnh vực chính sách xã hội,

6


thương binh liệt sỹ người có công và tổ chức phi chính phủ hoạt động trên địa bàn
huyện, người có công theo quy định của pháp luật.
Hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật với các cơ sở dạy

nghề và giới thiệu việc làm trên địa bàn huyện theo phân cấp uỷ quyền
Hướng dẫn và quản lý nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm, các công trình ghi côn
trình ghi công liệt sỹ
Hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ với Uỷ ban nhân dân cấp xã trong hiện
nhiệm vụ quyền hạn về lĩnh vực lao động, người có công với xã hội
Phối hợp với các ngành đoàn thể xây dựng phong trào toàn dân chăm sóc và giúp
đỡ người có công
Tổ chức kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách về lao động người có công; giải
quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng, tiêu cực lãng phí trong hoạt
động lao động người có công với xã hội
Thực hiện chế độ thông tin và báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện
nhiệm vụ được giao theo quy định của Uỷ ban nhân dân huyện và Sở giao
Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng hệ thống thông tin, lưu
trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực lao
động người có công và xã hội
Thực hiện chế độ thông tin báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện
nhiệm vụ được giao theo qui định của Uỷ ban nhân dân huyện và Sở lao động và
thương binh xã hội
Quản lý tổ chức bộ máy biên chế thực hiện chế độ chính sách đào tạo bồi dưỡng
về chuyên môn nghiệp vụ với cán bộ công chức viên chức về chuyên môn nghiệp
vụ theo phạm vi thẩm quyền
Quản lý tài sản tài chính theo qui định của pháp luật và phân cấp của Uỷ ban nhân
dân huyện
Thực hiện một số nhiệm vụ khác theo qui định của Uỷ ban nhân dân huyện hay
theo qui định của pháp luật
• Hệ thống bộ máy:

7



Trưởng phòng

Phó phòng

Tổ chức chính quyền

Quản lý
công
chức

Chính
quyền cơ
sở

LĐTB&XH

QL
chính
sách
NCC

LĐVL
Tệ nạn

hội…..

Kế toán
chi trả

3.3. Đội ngũ công chức, viên chức phòng nội vụ Lao động Thương binh và xã

hội Phúc Thọ
Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Phúc thọ bố trí 7 người trong đó quản
lý 03 người: trưởng phòng và 2 phó trưởng phòng , chuyên viên 04 người.
Trưởng phòng phụ trách chung trước Ủy ban nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân
và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của phòng.
Phó trưởng phòng do trưởng phòng phân công, thực hiện công tác do trưởng
phòng phân công, chịu trách nhiệm trước trưởng phòng và trước pháp luật phân
công. Các chuyên viên trong từng giai đoạn cụ thể được giao một số nhiệm vụ cụ
thể và chịu trách nhiệm về chất lượng và nội dung của công việc.

8


Cơ cấu tổ chức của phòng Lao động và Thương binh xã hội là một thể thống nhất
làm việc theo chế độ thủ trưởng và quản lý, điều hành theo chế độ tập trung dân
chủ.
4. Những thuận lợi và khó khăn của phòng Lao động Thương binh và xã hội
huyện Phúc Thọ.
4.1. Thuận lợi.
- Phòng luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát xao của UBND huyện,
của các cấp Ủy, Đảng tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành đúng chức năng,
nhiệm vụ được giao.
- Các văn bản thông tư, chỉ thị hưỡng dẫn cấp trên đáp ứng đầy đủ yêu cầu
và tính chất công việc.
- Đội ngũ cán bộ phòng có kiến thức, chuyên môn vững vàng, thường
xuyên tham gia vào các lớp huấn luyện để nâng cao kiến thức năng lực lãnh đạo.
- Cơ sở vật chất về cơ bản đã đáp ứng được theo nhu cầu và tính chất công
việc.
4.2. Khó khăn.
- Mặc dù cơ sở vật chất đã được trang bị song vẫn còn nghèo nàn trang thiết

bị chưa được trang cấp đầy đủ theo yêu cầu công việc.
- Huyện Phúc Thọ là một huyện vừa mới sát nhập với Thành phố Hà Nội do
dó có một số xáo trộn nhất định, nhiều tệ nạn xã hội do đó ảnh hưởng phần nào
đến sự quản lý của cơ quan.
- Cán bộ cơ sở chua đáp ứng yêu cầu của công việc, gây khó khân cho việc
quản lý và giải quyết chế độ đối với người có công.

9


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG XUẤT
KHẨU
1. Các khái niệm cơ bản
Theo “Luật người lao động Việt nam đi làm việc tại nước ngoài theo hợp
đồng” ban hành năm 2006, “người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng” được hiểu như sau: (được gọi là người lao động đi làm việc ở nước ngoài)
là công dân cư trú ở Việt nam, có đủ các qui định theo qui định của pháp luật Việt
nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động, đi làm việc ở nước ngoài theo qui
định của luật này.
“Hợp đồng cung ứng lao động” là sự thoả thuận bằng văn bản giữa
doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp với người lao động về điều kiện, nghĩa vụ của
các bên trong việc cung ứng và tiếp nhận người lao động Việt nam đi làm việc ở
nước ngoài.
“Hợp đồng đưa người đi lao động ở nước ngoài” là sự thoả thuận bằng
văn bản giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp với người lao động về quyền nghĩa
vụ giữa các bên trong việc đưa người Việt nam đi lao động ở nước ngoài
Xuất khẩu lao động hay chuyên gia là hoạt động kinh tế xã hội góp phần
phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm tạo thu nhập nâng cao trình độ tay
nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường hợp

tác giữa nước ta với các quốc gia khác. Đối với nước ta, trong thời kì hội nhập
kinh tế quốc tế, nó góp phần nâng cao vị thế của nước ta so với các nước khác trên
thế giới.
Hoạt động xuất khẩu lao động là hoạt động liên quan đến yếu tố nước ngoài
nên rất phức tạp. Ngoài việc người lao động chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt
10


nam thì người lao động tham gia xuất khẩu còn chịu sự chi phối của pháp luật
nước ngoài, hệ thống văn hoá phong tục tập quán, điều kiện kinh tế xã hội và các
điều khoản thoả thuận ghi trong hợp đồng.
Từ 1991, Nhà nước cấp giấy phép cho các doanh nghiệp tuyển dụng và
giám sát hoạt động. Những doanh nghiệp này có nghĩa vụ tìm hiểu về thị trường
lao động ngoài nước, hợp đồng bảo đảm, tuyển dụng đào tạo và đưa lao động ra
nước ngoài làm việc. Người lao động có nghĩa vụ trả khoản tiền phí dịch vụ xuất
khẩu lao động và khoản tiền đặt cọc cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Các doanh nghiệp cùng nhà nước phối kết
hợp chặt chẽ với nhau để thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu lao động Việt nam vẫn còn chưa tương
xứng với tiềm năng, so với một số nước trong khu vực, số lượng lao động xuất
khẩu Việt nam vẫn còn nhỏ bé. Philippin là minh chứng rõ rang nhất: gần tương
đương nhau về quy mô dân số và trình độ, đến nay nước này đã đưa được 7.5 triệu
lao động ra nước ngoài với số ngoại tệ thu về khoảng 8.5 tỷ USD. Indonesia mỗi
năm đưa khoảng 8 vạn lao động với số ngoại tệ thu về 4.57 tỷ USD. Ấn độ mỗi
năm đưa khoảng 50 000 lao động xuất khẩu thu về lượng ngoại tệ khoảng gần 11
tỷ USD. Điều này cũng cho thấy một điều chất lượng lao động đóng vai trò nòng
cốt trong hoạt động xuất khẩu, nó tạo ra giá trị lớn gấp nhiều lần so với lao động
phổ thông thu về (Xuất khẩu lao động Việt nam trước nhu cầu hội nhập)
Đối với nước ta, quốc gia trên 80 triệu dân, trên 50% dân số trong độ tuổi
lao động. Hơn nữa, thời gian lao động ở nông thôn chưa được sử dụng đến 20%

thì xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm cho người lao động là rất
lớn.
+Báo Đảng cộng sản điện tử: Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu lao động ở
nước ta vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Khả năng cạnh tranh của thị trường
lao động nước ta còn yếu kém so với các thị trường khác. Uy tín, chất lượng lao
11


động Việt nam còn thấp, tình trạng vi phạm hợp đồng và cư trú bất hợp pháp với
các thị trường có thu nhập cao còn nhiều
+ Xuất khẩu lao động nước ta tập trung chủ yếu vào các ngành nghề: xây dựng, kỹ
thuật, điện tử, đóng tàu, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và nông nghiệp..
2. Nguồn gốc của xuất khẩu lao động
Hoạt động xuất khẩu lao động bắt nguồn từ bao giờ?
Xuất khẩu lao động trên thế giới xuất hiện từ những năm 1970s, thời điểm
diễn ra sự tái cấu trúc việc sản xuất và đầu tư mang tính toàn cầu khi mà những
quốc gia đang phát triển bắt đầu chuyển hướng đầu tư sang những nước có nguồn
lao động rẻ. Chiến lược mang tính tập đoàn này theo đuổi mục đích nâng cao lợi
nhuận bằng việc chống lại các tổ chức công đoàn và việc phân công lao động một
cách linh hoạt. Vì vậy, sự phát triển không chỉ bao gồm sự di chuyển dòng vốn mà
còn bao gốn cả sự di chuyển nguồn lao động qua biên giới. Trong giai đoạn này
các nước châu âu ngày càng hội nhập, hoạt động đầu tư lệ thuộc lẫn nhau, tạo ra
các dòng di chuyển sức lao động trên thế giới (Trần Văn Thọ)
Trên thế giới, đã xuất hiện hình thành từ rất lâu do nhu cầu về vốn và lao
động rất khác nhau ở các nơi. Do đó nhu cầu về xuất khẩu lao động là tất yếu.
Hoạt động xuất khẩu lao động được xem là xuất hiện ở nước ta trong một
vài thập kỷ gần đây, cùng với quá trình toàn cầu hoá nhưng thực tế, Việt nam xuất
hiện thuật ngữ xuất khẩu lao động từ chế độ thực dân Pháp. Nhưng điều này dựa
trên cách tiếp cận về xuất khẩu lao động tại chỗ. Người Việt nam vẫn có việc làm
trên quê hương mình nhưng lại được tập trung lại trong một khu và làm cho thực

dân Pháp. Công nhân thì được trả mức lương rất thấp theo ngày công và chỉ đủ
trang trải cho nửa bữa ăn, 15 phút nghỉ ngơi với 14- 16 giờ làm việc. Họ phải
sống, ngủ tập trung trong khu tập thể với những công nhân khác, nhưng không
được phép nấu ăn. họ phải mua mọi thứ cần thiết cho cuộc sống ở cửa hàng trong
khu tập trung của thực dân Pháp. Trong khi đó, giá của tất cả các loại vật phẩm
đều được ấn định và họ không thể trang trải được cho cuộc sống của họ với đồng
lương lao động ít ỏi mà họ có được. Hơn nữa, công nhân còn bị ràng buộc bởi các
12


quy tắc, luật lệ, lời phán quyết của chủ nước ngoài. Họ dễ dàng bị kết tội nếu làm
sai ý chủ hoặc kết án và đưa vào tù vì luật pháp nằm trong tay kẻ có tiền. Những
tên đầu trùm mộ phu được coi là những người tìm kiếm nguồn lao động chủ yếu
cho thực dân Pháp từ những khu vực rất nghèo khó của miền Bắc và miền Trung
cho Việt nam, nơi người dân không thể tiếp cận được với phương tiện thông tin
đại chúng và trình độ hiểu biết còn rất lạc hậu. Những người lao động này dễ dàng
tham gia vào những công việc của thực dân Pháp vì bị ru ngủ bởi những lời lừa
gạt về cơ hội việc làm và có mức sống cao hơn hiện tại. Với điều kiện làm việc rất
khó khăn, thường là công việc liên quan trực tiếp đến lao động chân tay: khai thác
hầm mỏ, đồn điền, trồng một số loại cây công nghiệp ngắn ngày: mía, đay, cói…
và bị bóc lột nghiêm trọng về sức lao động thậm chí còn là đánh đập nếu không có
năng suất lao động hoặc nói chuyện trong giờ làm và mức lương không thoả đáng,
người lao động Việt nam bị bóc lột sức lao động ngay trên quê hương của mình.
Giai đoạn tiếp theo khi nước ta bước vào thời kì bao cấp thì xuất khẩu lao
động lại có những bước phát triển. Lao động nước ta chủ yếu được đưa sang các
thị trường Liên xô và một số nước khác trong khối Xã hôi chủ nghĩa(Rumani,
Cộng hoà Séc và nhiều nước Đông Âu khác…) Lao động của nước ta được đưa đi
nước ngoài theo chương trình hỗ trợ đào tạo lao động và chuyên gia sau chiến
tranh Chính phủ các quốc gia tạo những điều kiện tốt nhất cho lao động của nước
ta có điều kiện học tập kinh nghiệm và làm việc tại những nước này. Thông qua

bản hợp tác giữa nước ta và Liên Xô, tất cả vấn đề về số lượng lao động, mức
lương, lĩnh vực làm việc. Sau sụp đổ của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa thì
mối quan hệ của nước ta với khối gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực lao
động. Lao động nước ta ở thị trường này phải trở về nước làm việc. Tuy nhiên,
lực lượng lao động này cũng mang lại lợi ích nhất định cho riêng bản thân họ và
cho quốc gia
Từ sau năm những năm 90, hoạt động xuất khẩu lao động đặc biệt sôi động
ở nước ta vì chính sách mở trong quan hệ đối ngoại của nước ta là đa phương hoá
và đa dạng hoá, nước ta đã đặt quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong khu vực

13


và trên thế giới trong đó đặc biệt chú trọng tới mở cửa thị trường xuất khẩu lao
động của nước ta. Do đó, qui mô hoạt động xuất nhập khẩu tăng lên nhanh chóng.
Cho đến những năm 1980 hoạt động xuất khẩu lao động được coi là một
phần trong chính sách kinh tế của nước ta, tuy nhiên hoạt động này không có
nhiều chuyển biến đáng kể. Đầu thập kỷ 90, hoạt động xuất khẩu lao động được
chính thức thể chế hoá thành luật, hoạt động hợp tác xuất khẩu lao động của nước
ta chuyển sang hoạt động thương mại dịch vụ. Điều này đồng nghĩa với việc cho
phép các doanh nghiệp đơn lẻ được phép tuyển dụng và đào tạo lao động cho xuất
khẩu.(......). Ngoài các kênh thuộc nhà nước thì các kênh xuất khẩu lao động của
các doanh nghiệp cũng được mở rộng đa dạng các hình thức hoạt động. Để điều
chỉnh trực tiếp vấn đề xuất khẩu lao động: (đàm phán và thực hiện) nước ngoài
Nhà nước đã cho thành lập Cục quản lý Lao động nước ngoài trực thuộc Bộ lao
động Thương binh và xã hội có trách nhiệm quản lý trực tiếp vấn đề này. Từ
1991, Molisa cấp giấy phép cho các doanh nghiệp đào tạo lao động xuất khẩu lao
động và trực tiếp giam sát hoạt động của các tổ chức này.
So với các nước trong khu vực, nước ta tham gia vào diễn đàn kinh tế khu
vực khá muộn (Asean 1995), chưa tận dụng được nhiều cơ hội xuất khẩu lao động

vào các thị trường này (Xuất khẩu lao động, chính sách và thực tiễn)
Vào 1995, nước ta có 10 000 lao động ở trên 15 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Hiện tại, con số này lên tới 500 000 ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ
với trên 30 nhóm ngành nghề khác nhau thu về từ 1.6 đến 2 tỷ đô la một năm
(Molisa, 2006), chiếm 1.6 tổng kim ngạch xuất khẩu lao động của nước ta. Nó
chiếm vị trí quan trọng trong tổng nguồn thu ngoại tệ của nước ta.
Tuy nhiên, rất khó thống kê chính thức được khi người lao động còn
được gửi qua những kênh không chính thức. Chính phủ đặt mục tiêu 1 triệu lao
động xuất khẩu đến 2010
3. Chất lượng lao động xuất khẩu
Vấn đề chất lượng lao động được đề cập rất nhiều từ trước cho đến nay đối
với nguồn nhân lực của nước ta, đặc biệt là chất lượng lao động cho xuất khẩu.
14


Chất lượng lao động xuất khẩu của nước ta đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế. Theo số liệu đưa ra của Hội nghị việc làm và xuất khẩu lao động, số lao
động có tay nghề tăng từ 35% năm 2003 lên 50% hiện nay. Chất lượng lao động
là yếu tố quyết định nhất trong việc có thu được nhiều nguồn lợi cho quốc gia hay
không? Lao động nước ta được đánh giá là lao động giản đơn chất lượng không
cao mà lại phải cạnh tranh với lao động của các nước có nguồn lực tương tự nên
thu nhập không cao. Theo thống kê, trong tổng số lao động xuất khẩu thì chỉ mới
có 50 % là được đào tạo nghề nhưng là ngắn hạn và 90 % được đào tạo định
hướng một khái niệm rất mơ hồ với bản than người lao động. Chất lượng lao động
là yếu tố quan trọng nhất quyết định khả năng ta có giữ được thị trường của mình
hay không và có mở rộng được thị trường trong tương lai hay không? Theo như ý
kiến của chuyên gia trong giai đoạn mà người lao động vẫn chưa được đào tạo
nghề bài bản thì vẫn có thể chấp nhận mức lương của lao động phổ thông. Tuy
nhiên, để tránh khỏi tình trạng bóc lột lao động và lạm dụng thì việc nâng cao chất
lượng lao động là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển xuất khẩu lao

động về lâu về dài.
Chất lượng lao động Việt nam xếp thứ 11/12 nước châu Á. Chất lượng lao
động Việt nam mới chỉ đạt 3.79 điểm thang điểm 10 đứng thứ 11 trong số 12
nước được xem xét ở châu Á, theo đánh giá mới của Ngân hang thế giới. Một
nghiên cứu khác cho thấy lao động Việt nam chỉ xếp hạng 32/100 điểm. Trong khi
đó những nền kinh tế dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Năng suất lao động của nước ta chỉ đứng thứ 77/125 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Các tiêu chí đánh giá chất lượng lao động do WB đưa ra bao gồm
những ấn tương chung về hệ thống giáo dục và đào tạo nhân lực; mức độ sẵn có
của nguồn nhân lực
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và hội nhập kinh tế đòi
hỏi người lao động phải có sự thích ứng nhanh chóng và kiến thức để tiếp nhận
được công nghệ đó. Trong quá khứ, lao động Việt nam được đào tạo theo phương
pháp cũ, ở đó người lao động được đào tạo một theo hướng chung, không đi sâu
15


vào chuyên môn kỹ thuật. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, người lao
động đặc biệt nguồn lực cho xuất khẩu đòi hỏi có tay nghề và chuyên môn kỹ
thuật đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công việc. Người lao động phải đặc biệt
thích ứng nhanh với yêu cầu đòi hỏi của công việc và công nghệ thay đổi, do đó
đòi hỏi giáo dục đào tạo phải có định hướng nhất định cho sự lựa chọn nghề
nghiệp
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng
phát triển thể lực, trình độ kiến thức tay nghề, tác phong nghề nghiệp, cơ cấu về
tuổi và giới tính. Như vậy chất lượng nguồn nhân lực là sự tổng hợp, kết tinh của
nhiều yếu tố tạo nên. Ba yếu tố cơ bản nhất của chất lượng nguồn nhân lực đó là
thể lực, trí lực và tâm lực.
CHƯƠNG II. CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
1.


Thể lực người lao động

Thể lực là tình trạng sức khoẻ của con người, biểu hiện ở sự phát triển bình
thường, có khả năng lao động. Đây là cơ sở quan trọng cho hoạt động lao động
thực tiễn của con người, có thể đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao
động trong quá trình sản xuất với những công việc cụ thể khác nhau và đảm bảo
cho con người có khả năng học tập và lao động lâu dài.
Tất cả những người tham gia xuất khẩu lao động đều phải trải qua những
cuộc kiểm tra sức khoẻ nghiêm ngặt nhằm đảm bảo đủ điều kiện sức khoẻ cho
công việc với cường độ cao kéo dài và liên tục hay không? Có mắc các bệnh lây
nhiễm hay không?
Vấn đề thể lực là một trong những bất lợi với người lao động nước ta. So
với các nước trong khu vực và trên thế giới thể lực yếu, sức khoẻ của lao động
Việt nam ở mức thấp dưới trung binh. Không đạt yêu cầu và chuẩn cho công việc
nên mặc dù nhiều yếu tố khác đã đầy đủ nhưng điều kiện sức khoẻ không được
16


chấp nhận. Những cuộc kiểm tra sức khoẻ thường được tiến hành trước khi người
lao động đi nước ngoài: kiểm tra bệnh lây nhiễm qua đường máu (HIV- AIDS,
viêm gan B) hay một số bệnh lây nhiễm qua da. Một số thị trường khó tính như
Nhật Bản còn kiểm tra ngặt nghèo hơn kiểm tra cả những bệnh liên quan tới răng
miệng (sâu răng…)
Thực tế: hiện tượng trả về vì điều kiện sức khoẻ không đảm bảo, lây nhiễm
các bệnh. Theo nld.com.vn việc người lao động Việt nam bị trả về nước ngay cả
khi đã sang tới nước ngoài lao động không phải là chuyện hiếm vì lý do sức khoẻ.
Dẫn chứng từ thị trường lao động Malaysia năm 2006, trên 40 000 lao động nước
ngoài bị trả về nước vì lý do sức khoẻ. Theo Bộ trưởng Y tế nước này cho biết
trên 40 000 lao động do không đủ điều kiện sức khoẻ qua các đợt kiểm tra sức

khoẻ bắt buộc tại đây. Số lao động bị trả về chiếm khoảng 3.4 % trong tổng số 1.3
triệu lao động khám sức khoẻ tại Malaysia. Mà tại thị trường này lao động Việt
nam chiếm tới trên 100 000 lao động nên cũng bị ảnh hưởng.
2.

Yếu tố ngoại ngữ, am hiểu về văn hoá, phong tục tập quán

nước tiếp nhận
Là điều kiện cơ bản để thích nghi của người lao động khi xuất ngoại.
“Thiếu” và “yếu” về ngoại ngữ được đánh giá là yếu tố rất kém của người lao
động Việt nam hiện nay. Điều này giảm sức cạnh tranh của lao động nước ta so
với lao động nước khác.
Thị trường xuất khẩu lao động của nước ta cũng bị hạn chế ở một số khu
vực. Với những thị trường mức thu nhập cao, muốn được cấp visa, người lao động
xuất khẩu lao động phải trải qua cuộc kiểm tra tiếng trực tiếp của doanh nghiệp
doanh nghiệp nước ngoài và đạt chuẩn. Nếu qua thì mới được chấp nhận. Đối với
thị trường truyền thống của nước ta Malaysia, Đài loan, Trung Đông…chủ yếu là
công việc lao động giản đơn nên yêu cầu về ngoại ngữ không cao và cuộc kiểm
tra về ngoại ngữ không ngặt nghèo như các thị trường khác. Với thị trường mới
khai thác như Mỹ và Canada, châu Âu là thị trường yêu cầu cao về chất lượng
17


nguồn nhân lực thì yếu tố ngoại ngữ được đánh giá rất cao. Các cuộc kiểm tra
ngoại ngữ tiến hành khá nghiêm ngặt và đòi hỏi đạt chuẩn.
Không am hiểu về phong tục tập quán của nước sở tại khi hoà nhập vào
cộng đồng nước đó sẽ dễ dẫn đến tình trạng sốc về văn hoá cho người lao động.
Thậm chí gây ra mâu thuẫn không đáng có
3.


Tác phong lao động , ý thức kỷ luật

Đề cập vấn đề ý thức chấp hành kỷ luật lao động
Phần lớn lao động Việt nam trước khi đi xuất khẩu đều được tìm hiểu và
hướng dẫn về kỷ luật lao động, và tìm hiểu cơ bản về những quy tắc lao động của
nước tiếp nhận để tránh khỏi bỡ ngỡ khi trong điều kiện lao động mới.
Theo như ý kiến của những người đã từng đi xuất khẩu lao động nước
ngoài họ đều bị shock vì tác phong lao động cuả người nước ngoài. Trước hết,
thời gian lao động làm việc trong hợp đồng là lao động thực sự, nghiêm túc và đòi
hỏi hiệu quả cao và xứng đáng với đồng tiền công mà chủ bỏ ra thuê lao động
nước ngoài.
Sở dĩ có sự khó thích nghi như vậy là do tập quán lao động và tác phong
đã hình thành từ rất lâu của người Việt. Hơn nữa, với truyền thống và xuất thân từ
nông nghiệp không coi trọng năng suất công việc và nghiêm túc trong thời gian
nên ảnh hưởng rất lớn đến tác phong công nghiệp của người lao động.
Các biểu hiện của tác phong lao động là: đi muộn giờ làm, trốn giờ
làm, bỏ việc, nói chuyện trong giờ làm, thậm chí là đánh nhau, gây gổ với chủ
thuê lao động
Nguyên nhân của tình trạng trên có thể được lý giải trên lịch sử nguồn lao
động Việt nam. Người lao động Việt nam quen với tác phong nông nghiệp và chế
độ làm việc từ thời bao cấp làm chung, hưởng chung nên thường thiếu trách
nhiệm với công việc, bỏ bê công việc.

18


Thái độ với chủ lao động, không chấp hành kỷ luật lao động và công việc
được giao thậm chí có trường hợp gây gổ cả với chủ lao động gây ấn tượng không
tốt về lao động Việt nam.
Tình trạng bỏ trốn ra ngoài làm việc khá phổ biến, phá hợp đồng gây mất

uy tín cho Dn Việt nam và thiệt hại cho quốc gia. Do sức ép về điều kiện làm việc
và mức lương không thoả đáng nên nhiều trường hợp bỏ trốn ra ngoài làm việc
mong muốn một điều kiện làm việc và mức lương cao hơn. Nhiều trường hợp lao
động phá hợp đồng bỏ hợp đồng trước hạn đã gây ra thiệt hại cho doanh nghiệp
xuất khẩu thậm chí phải đền bù và mất toàn bộ số tiền đặt bảo đảm.
4.

Tay nghề

Lao động xuất khẩu được xem xét trên các khía cạnh khác nhau: tuỳ thuộc
vào loại hình lao động tham gia như: làm công việc gia đình hay công việc trong
các công ty nên đòi hỏi kỹ năng chuyên môn và tay nghề rất khác nhau.
Quốc gia tiếp nhận Tổng số LĐ
LĐXK
Đài Loan

90. 000

Loại công việc

Thu nhập bình

- công nhân sản xuất

quân
300- 500 USD

- công nhân xây dựng
- thợ đóng tàu và thuyền
viên

- người giúp việc nhà
Malayxia

- chăm sóc sức khoẻ
Hơn 100. 000 - công nhân sản xuất
trong lĩnh vực điện tử

150- 200 USD

- CN may mặc
- CN may mặc
- CN xây dựng
- CN các ngành dịch vụ
Hàn Quốc

50. 000

- CN sản xuất
19


- tu nghiệp sinh

450- 1000 USD

- thợ đóng tàu và thuyền
viên
- CN trong lĩnh vực nông
Nhật Bản


19. 000

nghiệp
- tu nghiệp sinh
- CN trong lĩnh vực điện
tử
- thợ đóng tàu và thuyền

Vương Quốc Anh

400

viên
- nhân viên nữ

1.

300-

2500

USD
Hoa Kỳ

10

- nghành nông nghiệp

1.250- 1600 USD


Các Tiểu Vương Hơn 1. 000

- CN điện tử

400- 1000 USD

quốc Ả rập thống

- CN xây dựng

nhất

- nhân viện phục vụ

Tiểu Vương quốc 200

khách sạn và nhà hàng
- CN xây dựng

Ả Rập

- giúp việc theo giờ

160- 300 USD
( trên 1000 USD
với kỹ sư)

Nguồn: Bộ lao động Thương binh và Xã hội, 2006
Khu vực Đông bắc á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan ngày càng đòi hỏi có
tay nghề cao, những lao động có nghề thực thụ có nhiều khả năng đi lao động theo

chương trình cấp phép cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc hay chương trình
tu nghiệp sinh của Nhật Bản làm việc trong công xưởng Đài loan. Đặc biệt, Nhật
Bản và Hàn Quốc đều có chính sách dành cho lao động và chuyên gia nước ngoài
với chế độ lao động và chuyên gia và cấp visa dài hạn

20


Khu vực Đông nam Á: Malaysia là thị trường lớn của Việt nam mặc dù
tuyển số lượng lớn lao động phổ thông nhưng, nhưng nhiều công ty vẫn yêu cầu
lao động có kỹ thuật. Những lao động này thường có thu nhập cao hơn hẳn so với
lao động chưa qua đào tạo nghề. Singapo mới nhận lao động có kỹ năng của nước
ta
Khu vực Trung Đông, châu Phi: có nhận lao động không có nghề nhưng
thu nhậo rất thấp so với lao động có nghề. Lao động có tay nghề trong xây dựng
và công xưởng đang có nhu cầu lớn và được trả lương khá cao. Thị trường Mỹ,
Canada, Úc là các thị trường cao nhất về cả mức lương và điều kiện nhập cảnh.
Đó là lý do vì sao yêu cầu trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, và trình độ
ngoại ngữ rất cao.
Trước kia, chủ yếu xuất khẩu lao động nước ta chủ yếu không được qua đào
tạo, không có nghề chủ yếu làm công việc trông trẻ, làm vườn, quản gia..... nên
gặp nhiều bất lợi: Lương không thoả đáng, bị lạm dụng, sự đối xử bất bình đẳng
của chủ, sự hạn chế về phạm vi thị trường tiếp nhận
Theo báo cáo mới nhất của Cục việc làm ( Bộ lao động thương binh xã hội
cho biết, hiện nay, Việt nam đã đưa được gần 459 000 lao động đi làm việc ở
nước ngoài , tuy nhiên trong đó chỉ có 30 % là lao động có tay nghề, riêng lao
động có chứng chỉ nghề chỉ đạt 14.3 %, một tỷ lệ quá thấp so với nhu cầu thực tế.
Do đó, như hệ quả tất yếu tay nghề thấp hoặc không có tay nghề làm cho
lao động Việt nam chỉ tập trung được ở một số thị trường như Đài Loan,
Malaysia, Trung Đông…Là những thị trường có nhu cầu lớn về lao động, không

đòi hỏi quá khắt khe trong việc tuyển dụng. Đây cũng là lý do chính trong việc tại
sao các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chỉ tập trung khai thác và thành công ở
những thị trường truyền thống và bình dân mà không thâm nhập vào thị trường có
thu nhập cao. Nếu thị trương yêu cầu chất lượng lao động quá cao thì không có
nguồn lao động đáp ứng được nhu cầu của thị trường (Nguyễn Xuân Vui, Tổng
giám đốc công ty thương mại cổ phần Hàng không). Những nhà tuyển dụng lao
động cho xuất khẩu hoàn toàn bị động trong khâu tuyển dụng nguồn lao động có
chất lượng cao. Cũng liên quan đến vấn đề chất lượng lao động xuất khẩu, chỉ cần
21


phía đối tác Đài loan hoặc Trung đông yêu cầu tốt nghiệp trung cấp và 3 năm kinh
nghiệm là các doanh nghiềp gần như “bó tay” (Nguyễn Thiện Mỹ, tổng giám đốc
công ty Simco- Sông đà).
Trong khi những thị trường truyền thống ngày càng bị thu hẹp thì việc khai
thác mở rộng các thị trường mới trở thành nhu cầu bức thiết. Tuy nhiên, khi tiếp
cận các thị trường mới này không ít doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam
đã bị chùn bước vì những rào cản do thị trường này tạo ra. Thị trường mới mẻ của
ta là châu Mỹ, Úc, Phần Lan, Séc… là thị trường yêu cầu rất cao về kinh nghiệm
làm việc, ngoại ngữ, và bằng cấp nên số lượng lao động của ta ở các thị trường
này rất hạn chế.. Muốn thâm nhập được vào các thị trường này thì người lao động
phải được đào tạo nghề và được cấp chứng chỉ bởi các cơ quan các nước đó sau
đó mới được cấp visa.. Để trúng tuyển thì người lao động phải nói được tiếng Anh
lưu loát. Do đó mới có nhận định thị trường lao động nước ta yếu cả số lượng và
chất lượng. Nguyên nhân chính được nhìn nhận ở đây là thiếu chất kết dính giữa
cơ sở đào tạo nghề và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Đó là một nghịch lý
tồn tại hiện nay, các doanh nghiệp không tìm được lao động phù hợp với nhu cầu
thị trường thì các cơ sở đào tạo nghề không biết đào tạo bao nhiều cho đủ cung
cập cho thị trường. Một trong những công ty bền bỉ với thị Mỹ là công ty cổ phần
quốc tế Mỹ AIC. Bà Nguyễn Thanh Nhàn, giám đốc công ty đã tìm kiếm được

những hợp đồng lên tới 1200- 1500 USD/ tháng nhưng cuối cùng lại không tìm
được nguồn lao động đáp ứng được nhu của thị trường. Vấn đề chính ở chỗ người
lao động Việt nam có thể có tay nghề thực sự và bằng cấp đại học nhưng vốn
ngoại ngữ lại quá yếu không đáp ứng được nhu cầu công việc. Do không tìm được
nguồn cung tương ứng nên đành chấp nhận thất bại là bỏ “miếng bánh ngon” (Thị
trường lao động: Bế tắc mọi nẻo đường vcci.com.vn). Thị trường Canada cũng
không lạc quan hơn là mấy. Thị trường này có nhu cầu về một số ngành nghề mà
ta có thể hoàn toàn đáp ứng được như: xây dựng, khai thác mỏ, nông nghiệp, giúp
việc gia đình và làm ở viện dưỡng lão. Cùng với yêu cầu về tuyển dụng là những
tiêu chuẩn cho người lao động rất khắt khe. Nhà tuyển dụng Canada đều yêu cầu
22


có chứng chỉ nghề tương đương hoặc chứng chỉ nghề do chính hệ thống giáo dục
của Canada cấp. Nó không chỉ đòi hỏi về trình độ tay nghề mà còn đòi hỏi rất cao
về trình độ ngoại ngữ và các kỳ thi sát hạch được tổ chức rất nghiêm túc. Đó là
một trong những nguyên nhân chính làm cho thị trường lao động Việt nam ngày
càng thu hẹp.
Trình độ kiến thức, kỹ năng nghề không chỉ đơn giản căn cứ vào bằng cấp,
chứng chỉ của cơ quan, cơ sở đào tạo nghề trong nước mà phải trải qua kiểm tra,
đánh giá của cơ quan tuyển dụng nước ngoài, có thực sự đáp ứng được nhu cầu
cao của công việc hay không? Được đào tạo cơ bản và chuyên sâu, phù hợp với
từng công nghệ sản xuất cụ thể
Doanh nghiệp xuất khẩu vận hành các trung tâm đào tạo nghề, hướng
nghiệp
Tuy nhiên, phần lớn lao động qua đào tạo ở Việt nam không đáp ứng được
yêu cầu của công việc nên nhiều lao động sang nước ngoài lại phải tham gia các
khoá đào tạo lại của công ty doanh nghiệp bên nước tiếp nhận.
Có trường hợp không đáp ứng được yêu cầu công việc đã bị trả về nước sau
khi trải qua kì thi kiểm tra tay nghề.

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG
1. Về phía người lao động
+ Tự trang bị cho mình thông tin kiến thức kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ
khi có ý định tham gia xuất khẩu lao động. Vấn đề thiếu và yếu về kỹ năng
chuyên môn tạo nên bất lợi rất lớn cho người lao động. Trước hết đó là tự định
hướng nghề nghiệp cho mình. Nghề là vấn đề cần thiết khi tham gia xuất khẩu lao
động. Hành trang của người lao động là tay nghề của họ. Việc của doanh nghiệp
xuất khẩu lao động là xếp đúng người đúng việc và phát huy hết năng lực họ trong
công việc

23


+ Tham gia khoá đào tạo cơ bản, đào tạo định hướng của trung tâm xuất
khẩu lao động về ngoại ngữ, về kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu. Tuỳ vào từng
thị trường mà người lao động tham gia vào những khoá đào tạo khác nhau phục
vụ cho yêu cầu công việc khác nhau. Nhưng những khoá đào tạo cơ bản là rất cần
thiết cho người lao động, đặc biệt là kỹ năng ngoại ngữ
+ Rèn luyện, nâng cao thể lực đáp ứng được nhu cầu lao động thực tế công
việc. Có sức khoẻ là có tất cả, người lao động phải rèn luyện cho mình một sức
khoẻ thất tốt để đáp ứng được đòi hỏi của công việc. Người lao động phải có một
chế độ ăn uống hợp lý và làm việc khoa học thì mới mong có sức khoẻ tốt. Đặc
biệt đối với người phải làm việc nặng với cường độ cao kéo dài thì đòi hỏi sức
dẻo dai càng quan trọng
_ Do tỷ lệ lao động có tay nghề còn rất thấp chỉ đạt 30 % lao động xuất
khẩu nên nhà nước cần có nhiều biệp pháp để nâng cao chất lượng lao động xuất
khẩu. Hiện nay Nhà nước đã quy hoạch và chuẩn hoá hệ thống trường và trung
tâm dạy nghề trong cả nước, trong đó sẽ đầu tư 7000 tỷ đồng tập trung vào hệ
thống dạy nghề kỹ thuật thực hành. Xây dựng 40 trung tâm dạy nghề chuẩn quốc

gia trong đó có 15 trung tâm đạt chuẩn khu vực, 3 trường đạt chuẩn quốc tế. Đồng
thời phát triển mạnh hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ và liên thông giữa các
trình độ. Nhà nước còn có chính sách khuyến khích đầu tư liên kết đầu tư đào tạo
nghề ở góc độ nhỏ, theo khả năng và nhu cầu của doanh nghiệp. Mục tiêu trước
hết của doanh nghiệp là nâng cao tỷ lệ lao động có tay nghề từ 55 đến 60 % vào
2010.
2. Về phía doanh nghiệp
Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đào nguồn nhân lực cho
xuất khẩu. Trước tiên, doanh nghiệp thực hiện việc tuyển dụng nguồn nhân lực
cho xuất khẩu. Nhưng ở Việt nam, doanh nghiệp thực hiện mọi công tác từ tìm thị
24


trường, tuyển dụng, đào tạo, đến lo mọi thủ tục chi phí cho người lao động đi xuất
khẩu đều được các doanh nghiệp đảm nhiệm. Do đó chất lượng lao động có cao
hay không có đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng hay không đều phụ thuộc
vào doanh nghiệp tuyển dụng. Bất cứ doanh nghiệp tuyển dụng nào cũng mong
muốn tuyển dụng được nguồn lao động chất lượng cao, nhưng điều này không
phải chuyện dễ dàng. Xuất phát từ đặc điểm nguồn nhân lực nước ta, chất lượng
thấp và chậm được cải thiện thì nguồn nhân lực cho xuất khẩu chất lượng cao vẫn
còn là vấn đề khó khăn. Mặt khác, những người lao động tham gia hoạt động xuất
khẩu lao động đều là những người nông dân, không có tay nghề và thiếu kỹ năng
chuyên môn. Vai trò doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
xuất khẩu là rất lớn. Các doanh nghiệp thực hiện rất nhiều biện pháp nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực
Đầu tư lớn hơn cho công tác xuất khẩu lao động đặc biệt là công tác đào tạo
và hướng nghiệp. Xây dựng cơ sở vật chất cho công tác đào tạo nghề và ngoại
ngữ. Bên cạnh đó, đầu tư cho thuê đội ngũ giáo viên giảng dạy và trang thiết bị
cần rất nhiều vốn và nguồn tài trợ. Đây là thách thức rất lớn với các doanh nghiệp
khi thành lập ra những trung tâm tuyển dụng kèm dạy nghề. Điều đó càng đòi hỏi

vai trò và sự giúp đỡ của cơ quan nhà nước đặc biệt là hỗ trợ về vốn và thể chế.
Bên cạnh đó, việc tìm thị trường thích hợp với khả năng lao động cũng là
thách thức với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Việc thâm nhập vào thị
trường lao động ngoài rất khó khăn, đặc biệt là những thị trường thu nhập cao lại
càng đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược lâu dài và ổn định thì mới có thể
xâm nhập và giữ được thị trường.
Các doanh nghiệp phải phối kết hợp với nhau trong việc lựa chọn thị trường
sao cho có lợi nhất cho tất cả các bên tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động.
Chú trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực trong đó đào tạo định
hướng là quan trọng. Nhiều người lao động không biết hoặc rất mù mờ về thông
tin trước khi đi xuất khẩu lao động. Họ thậm chí còn không được biết rõ về nội
dung hợp đồng lao động quyên và nghĩa vụ của mình. Nâng cao chất lượng lao
động xuất khẩu đòi hỏi nỗ lực rất lớn doanh nghiệp.
25


×