Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Đặc điểm ngoại hình và khả năng sinh trưởng của vịt CV Super M3 (SM3) nuôi tại Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.77 KB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
------- š&› -------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

“ĐẶC ĐIỂM NGOẠI HÌNH VÀ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG
CỦA VỊT CV SUPER M3 (SM3) NUÔI TẠI TRUNG TÂM
NGHIÊN CỨU VỊT ĐẠI XUYÊN – HÀ NỘI”

Người thực hiện: Mai Hương Thu
Lớp: Chăn nuôi
Khoá: 52
Người hướng dẫn: Th.S Lê Mạnh Dũng
Bộ môn: Sinh học động vật

HÀ NỘI, NĂM 2011


Lời cam đoan
Chúng tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả thu được là do bản thân
trực tiếp theo dõi, thu thập với một thái độ hoàn toàn khách quan trung thực,
các tài liệu đã trích dẫ của các tác giả đều được liệt kê đầy đủ, không sao
chép bất cứ tài liệu nào mà không có trích dẫn.

1



Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Lê Mạnh Dũng, người đã trực tiếp
hướng dẫn và giúp đỡ em trong thời gian thực tập. Xin cảm ơn Trung tâm
nghiên cứu vịt Đại Xuyên đã tạo điều kiện cho em trong quá trình thực hiện
đề tài và viết báo cáo kết quả.

2


Danh mục các chữ viết tắt
TC
TL
TTTĂ

: Tiêu chuẩn
: Tỷ lệ
: Tiêu tốn thức ăn

Danh mục bảng biểu
3


Bảng 4.1. Chế độ chăm sóc được áp dụng tại trung tâm
Bảng 4.2. Chế độ dinh dưỡng nuôi vịt sinh sản
Bảng 4.3. Lịch tiêm phòng cho đàn vịt tại trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên
Bảng 4.4. Tỷ lệ nuôi sống giai đoạn 1- 24 tuần tuổi (%)
Bảng 4.5. Khối lượng cơ thể dòng trống giai đoạn 1 – 24 tuần tuổi (g/con)
Bảng 4.6. Khối lượng cơ thể dòng mái giai đoạn từ 1 – 24 tuần tuổi (g/con)
Bảng 4.7. Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)
Bảng 4.8. Lượng thức ăn thu nhận của vịt CV Super M3 giai đoạn 1 – 24

tuần tuổi
Bảng 4.9. Tuổi đẻ của vịt CV Super M3
Bảng 4.10. Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của vịt CV Super M3
Bảng 4.11. Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng giống của vịt CV Super M3
Bảng 4.12. Hiệu quả sử dụng thức ăn trên đàn vịt CV Super M3
Danh mục các biểu đồ và đồ thị
Hình 4.1. Tỷ lệ nuôi sống của vịt ở các giai đoạn
Hình 4.2. Khối lượng cơ thể dòng trống so với tiêu chuẩn.
Hình 4.3. Khối lượng cơ thể dòng mái so với tiêu chuẩn
Hình 4.4. Khối lượng của vịt ông bà ở các giai đoạn tuổi
Hình 4.5. Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối
Hình 4.6. Lượng thức ăn thu nhận ở các giai đoạn tuổi
Hình 4.7. Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của vịt SM3

Phần I
4


MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Chăn nuôi gia cầm là một ngành sản xuất truyền thống lâu đời, chiếm
vị trí quan trọng trong kinh tế hộ gia đình của người nông dân Việt Nam;
cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng. Trong những năm qua, nghề chăn nuôi gia cầm nước ta
được tạo điều kiện để phát triển mạnh mẽ về cả số lượng, chất lượng và quy
mô chăn nuôi. Năm 1986 tổng đàn gia cầm là 99,6 triệu con, đến năm 2003
đạt 254 triệu con với tốc độ tăng đầu con bình quân là 7,85% một năm. Do
ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm nên đến năm 2006 tổng đàn gia cầm giảm
còn 214,6 triệu con. Theo số liệu thống kê của FAO năm 2009: Tổng đàn gia
cầm Việt Nam là 284 triệu con, trong đó thuỷ cầm có 84 triệu con, đứng thứ

hai trên thế giới sau Trung Quốc. Trước xu thế hội nhập, Cục Chăn nuôi đã
định hướng phát triển chăn nuôi gia cầm giai đoạn 2010 – 2015, phấn đấu
đạt tốc độ tăng trưởng đầu con thuỷ cầm là 5% một năm, tăng trưởng về sản
lượng thịt, trứng từ 12% /năm trở lên.
Để đạt được những mục tiêu trên, nước ta đã nhập về những giống gia
cầm ngoại nuôi theo phương thức chăn nuôi công nghiệp như: vịt CV Super
M, M2, Star 71, Star 53… Các giống này đều có năng suất và chất lượng
cao, dễ nuôi, ít bệnh tật, có thể phát triển ở các vùng khác nhau trong cả
nước. Trong đó giống vịt CV Super M là giống siêu thịt của công ty Cherry
Valley Vương Quốc Anh, tạo ra từ năm 1976. Hiện nay giống vịt này đã
được phát triển mạnh ở nhiều nước trên thế giới. Theo tài liệu của Hãng, vịt
dòng ông bà đẻ 170 - 180 quả/ 40 tuần, chi phí thức ăn cho 1kg tăng khối
lượng của dòng trống là 2,76 kg, của dòng mái là 3,01 kg. Từ giống vịt CV
Super M, Hãng Cherry Valley đã tạo ra giống vịt CV Super M2 và CV
Super M3.
Nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ về di
truyền giống của thế giới để làm phong phú thêm nguồn gen của các bộ
5


giống vịt siêu thịt đồng thời làm tươi máu cho các bộ giống vịt SM đã nhập
trước đây, năm 2011 Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên đã nhập về giống
vịt CV Super M3 ông bà. Để có cơ sở khoa học đánh giá khả năng sản xuất
của giống vịt CV Super M3 nuôi tại Việt Nam, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Đặc điểm ngoại hình và khả năng sinh trưởng của vịt CV Super M3 (SM3)
nuôi tại Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên – Hà Nội”
1.2. Mục tiêu của đề tài
Nêu được đặc điểm ngoại hình và có được thông tin về khả năng sinh
trưởng của vịt CV Super M3 ông bà.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Nghiên cứu một cách có hệ thống về đặc điểm ngoại hình và sinh
trưởng để có số liệu công bố về khả năng sản xuất của giống vịt CV Super
M3
Trên cơ sở xác định được một số đặc điểm năng suất cơ bản của
giống, từ đó góp phần đánh giá khả năng phát triển của giống vịt này trong
sản xuất.
Cung cấp thông tin tham khảo cho học tập, nghiên cứu và sản xuất
chăn nuôi.

Phần II

6


TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm ngoại hình của thủy cầm.
Màu sắc lông: Màu sắc lông của gia cầm là một đặc điểm ngoại hình
quan trọng để phân biệt giống, dòng; thể hiện tình trạng sức khoẻ và khả
năng sản xuất của chúng. Gia cầm khoẻ mạnh có lông bóng mượt, sạch sẽ và
đồng đều; ngược lại, gia cầm ốm lông xỉn màu, xơ xác, bẩn. Đối với các
giống vịt, khi thay lông chúng sẽ ngừng đẻ, vì thế chỉ cần quan sát lông cánh
để phân biệt khả năng sản xuất trứng của từng cá thể và loại thải ngay tránh
những lãng phí trong chăn nuôi.
Màu sắc lông còn liên quan đến giá trị kinh tế. Trong chăn nuôi gia
cầm lấy thịt người ta thường chọn những giống lông trắng để khi bán sản
phẩm làm sẵn có thể hạn chế những lỗ chân lông màu đen trên da của sản
phẩm, trông gia cầm sẽ trắng đẹp và ngon mắt hơn. Ngoài ra màu sắc lông
cũng liên quan đến một số chỉ tiêu chất lượng của giống, dòng như là tính
kháng bệnh và khả năng sản xuất.
Trong sản xuất, những giống vịt chuyên thịt thường có màu lông trắng

như CV. Super M, M2, M3; M14; Star76, 53. Các giống vịt chuyên trứng có
lông màu kaki, màu cánh sẻ như vịt Khaki Campbell, vịt Cỏ, vịt Triết Giang.
Mỏ và chân: là sản phẩm của da, được tạo thành từ lớp sừng có màng
dày bao bọc. Ở vịt, mỏ có nhiều nhánh thần kinh và các hàng răng cưa, chứa
nhiều thể xúc giác nên chúng có thể mò được thức ăn trong nước. Mỏ có
nhiều màu khác nhau: vàng, đen, xám, xanh lục.... và là đặc trưng cho giống.
Chân vịt có màu phù hợp với màu của mỏ, có màng bơi là phần cấu tạo
không có lông của da giữa các ngón chân giống mái chèo giúp vịt bơi lội
linh hoạt trong nước.
2.2. Tính trạng số lượng của vật nuôi
Khi nghiên cứu các tính trạng về tính năng sản xuất của một giống gia
súc, gia cầm trong một điều kiện chăn nuôi cụ thể thực chất là nghiên cứu
đặc điểm di truyền và ảnh hưởng của những tác động xung quanh lên các
7


tính trạng đó. Phần lớn các tính trạng về năng suất của vật nuôi như sinh
trưởng, sinh sản, sản xuất thịt, lông, trứng đều là các tính trạng số lượng. Cơ
sở di truyền học của tính trạng số lượng do các gen nằm trên nhiễm sắc thể
quy định.
Tính trạng số lượng còn được gọi là tính trạng đo lường (metric
character) vì sự nghiên cứu của chúng phụ thuộc vào sự đo lường như mức
độ tăng trọng, kích thước các chiều đo, khối lượng trứng.... tuy nhiên, có
những tính trạng mà giá trị của chúng có được bằng cách đếm như: Số lợn
con đẻ ra trong một lứa, số lượng trứng gia cầm đẻ ra trong một năm vẫn
được coi là tính trạng số lượng, đó là những tính trạng số lượng đặc biệt.
Theo Nguyễn Văn Thiện (1995), các tính trạng số lượng do giá trị kiểu
gen và sai lệch môi trường quy định. Giá trị kiểu gen (Genotypic value) do
các gen có hiệu ứng riêng biệt nhỏ, nhưng khi tập hợp nhiều gen thì có ảnh
hưởng rõ rệt tới tính trạng, chúng gây ra các hiệu ứng cộng gộp, trội và át

gen. Tính trạng số lượng chịu tác động lớn của ngoại cảnh.
Theo Đặng Vũ Bình (1999), để hiển thị đặc tính của những tính trạng
số lượng người ta sử dụng khái niệm giá trị, đó là các số đo dùng để đánh
giá các tính trạng số lượng. Giá trị thu được khi đánh giá một tính trạng số
lượng trên một cá thể được gọi là giá trị kiểu hình (phenotypic value) của cá
thể đó. Các giá trị có liên hệ với kiểu gen là giá trị kiểu gen (genotypic
value) và giá trị có liên hệ với môi trường là sai lệch môi trường
(environmental deviation). Như vậy có nghĩa là kiểu gen quy định một giá
trị nào đó của cá thể và môi trường gây ra một sự sai lệch với giá trị kiểu gen
theo hướng này hoặc hướng khác. Quan hệ trên có thể biểu thị như sau:
P=G+E
Trong đó:

P: là giá trị kiểu hình (phenotypic value)
G: là giá trị kiểu gen (genotypic value)
E: là sai lệch môi trường (environmental deviation)

8


Giá trị kiểu gen của tính trạng số lượng do nhiều gen có hiệu ứng nhỏ
cấu tạo thành, đó là các gen mà hiệu ứng riêng biệt của từng gen thì rất nhỏ,
nhưng tập hợp nhiều gen nhỏ sẽ có ảnh hưởng rõ rệt tới tính trạng nghiên
cứu, hiện tượng này gọi là hiện tượng đa gen. Giá trị kiểu gen được phân
theo 3 phương thức hoạt động, đó là sự cộng gộp, sai lệch trội lặn và tương
tác giữa các gen như sau:
G=A+D+I
Trong đó: G: là giá trị kiểu gen (genotypic value)
A: là giá trị cộng gộp (additive value)
D: là sai lệch do tác động trội lặn (dominance deviation)

I: là sai lệch do tương tác giữa các gen (interaction devition)
Các tính trạng số lượng còn chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường bao
gồm:
Sai lệch môi trường chung (general environmental deviation): Là sai
lệch do các yếu tố môi trường có tính chất thường xuyên và không cục bộ
tác động lên toàn bộ các cá thể trong một nhóm vật nuôi.
Sai lệch môi trường riêng (special environmental deviation): Là sai lệch
do các nhân tố môi trường có tính chất không thường xuyên và cục bộ tác
động riêng rẽ lên từng cá thể trong cùng một nhóm vật nuôi. Do đó, khi một
kiểu hình của một cá thể được quy định bởi từ hai locus trở lên thì giá trị
kiểu hình của nó được biểu thị như sau:
P = A + D + I + Eg + Es
Trong chăn nuôi, các giống vật nuôi luôn luôn nhận được từ bố mẹ một
số gen quy định tính trạng số lượng nào đó và được xem như là được nhân
từ bố mẹ một khả năng di truyền, tuy nhiên khả năng đó có phát huy tốt hay
không còn phụ thuộc rất lớn vào điều kiện của vật nuôi.
Khi quan sát cá tính trạng số lượng (cân, đo, đếm....) người ta thường
xác định các tham số sau:
+ Số trung bình của các tính trạng ( X )
9


+ Hệ số biến dị (CV%)
+ Hệ số di truyền các tính trạng (h2)
+ Hệ số lặp lại các tính trạng (Rs)
+ Hệ số tương quan các tính trạng (r)
2.3. Sức sống và khả năng kháng bệnh.
Sức sống là tính trạng di truyền số lượng đặc trưng cho từng cá thể, là
yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gia
cầm. Tổn thất do bệnh tật ở gia cầm gây thiệt hại rất lớn vì khi mắc bệnh,

đàn gia cầm thường bị suy giảm sức đề kháng, dễ nhiễm các bệnh khác, chết
nhiều, nhanh và đồng loạt. Đặc điệt khi đàn gia cầm mắc bệnh truyền nhiễm
sẽ phải tăng thêm chi phí vacxin và các biện pháp thú y khác.
Sức sống và khả năng kháng bệnh thường được thể hiện gián tiếp thông
qua chỉ tiêu tỷ lệ nuôi sống. Tỷ lệ nuôi sống của gia cầm con là chỉ tiêu chủ
yếu đánh giá sức sống của gia cầm sau khi nở ra, sự giảm sức sống được thể
hiện ở tỷ lệ chết cao qua các giai đoạn sinh trưởng. Tỷ lệ nuôi sống được xác
định bằng tỷ lệ phần trăm số cá thể còn sống ở cuối kỳ so với số cá thể có
mặt đầu kỳ.
Nhiều tác giả cho rằng hiện tượng cận huyết làm giảm tỷ lệ nuôi sống,
ưu thế lai làm tăng tỷ lệ sống. Sự giảm sức sống sau khi nở phần lớn là do
tác động của môi trường, chế độ nuôi dưỡng và chăm sóc. Có thể nâng cao
tỷ lệ nuôi sống bằng các biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng tốt, vệ sinh tiêm
phòng kịp thời. Các giống vật nuôi nhiệt đới có khả năng chống bệnh truyền
nhiễm, bệnh ký sinh trùng cao hơn các giống vật nuôi vùng ôn đới; do đó
cần tiêm phòng đầy đủ khi nhập các giống gốc từ vùng ôn đới để nâng cao tỷ
lệ nuôi sống, tăng khả năng sản xuất của con giống.
Xét về khả năng thích nghi khi điều kiện sống bị thay đổi, như thay đổi
thức ăn, thời tiết khí hậu, quy trình chăn nuôi, môi trường vi sinh vật xung
quanh... Trong gia súc và gia cầm thì vịt là loài vật nuôi có khả năng thích
ứng rộng rãi hơn đối với môi trường sống nhờ có tiềm năng sinh học đặc
10


biệt. Vịt có khả năng sử dụng chất thải và đồng thời cũng là vật nuôi có khả
năng kỳ diệu về việc tìm kiếm mồi. Tiềm năng này giúp vịt thích ứng với
các điều kiện chăn nuôi và quy trình nuôi dưỡng ở môi trường mới.
Ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường ở các nước nóng ẩm với vịt có thể
nói là không lớn vì vịt có khả năng tự điều chỉnh thân nhiệt. Vịt chỉ bị ảnh
hưởng của stress khi nuôi nhốt mà sự thông thoáng và trao đổi khí kém.

2.4. Cơ sở khoa học về khả năng sinh trưởng của gia cầm
2.4.1. Khái niệm về sinh trưởng
Sinh trưởng là quá trình tích lũy hữu cơ do đồng hóa và dị hóa, là sự
tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng các bộ phận và toàn bộ cơ
thể của con vật trên cơ sở di truyền từ đời trước. Sinh trưởng chính là quá
trình tích lũy dần dần các chất mà chủ yếu là protein, nên tốc độ và khối
lượng tích lũy các chất, tốc độ và sự tổng hợp protein cũng chính là tốc độ
hoạt động của các gen điều khiển sự sinh trưởng của cơ thể.
Theo Trần Đình Miên và Nguyễn Kim Đường (1992), quá trình sinh
trưởng là quá trình phân chia tế bào, tăng thể tích tế bào và thể tích giữa các
tế bào để tạo nên sự sống. Tính giai đoạn của sinh trưởng biểu hiện ở nhiều
hình thức khác nhau. Thời gian của các giai đoạn dài hay ngắn, số lượng giai
đoạn và sự đột biến trong sinh trưởng của từng giống, từng cá thể có sự khác
nhau. Giai đoạn này nối tiếp giai đoạn khác, không đi ngược trở lại, không
bỏ qua thời kỳ nào, ở mỗi giai đoạn, thời kỳ đều có đặc điểm riêng. Căn cứ
vào sự sinh trưởng ta có thể phân chia thành các thời kỳ phát triển của gia
cầm như sau: Thời kỳ phát triển của phôi trong trứng trước khi đẻ, thời kỳ
phát triển của phôi trong quá trình ấp, thời kỳ gia cầm con và thời kỳ gia
cầm trưởng thành.
Thời kỳ gia cầm con: Thời kỳ này số lượng tế bào tăng nhanh nên quá
trình sinh trưởng diễn ra rất nhanh, một số cơ quan nội tạng chưa phát triển
hoàn chỉnh, các men tiêu hóa chưa đầy đủ, khả năng điều tiết thân nhiệt
11


kém, gia cầm con dễ bị ảnh hưởng bởi thức ăn và điều kiện môi trường. Vì
vậy, thức ăn và nuôi dưỡng trong thời kỳ này rất quan trọng, ảnh hưởng lớn
đến tốc độ sinh trưởng của gia cầm. Cần cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng
trong thức ăn và quan trọng nhất là các axit amin không hạn chế như lysine,
methionine, tryprophan...

Thời kỳ gia cầm trưởng thành: Thời kỳ này các cơ quan trong cơ thể gia
cầm gần như đã phát triển hoàn thiện. Số lượng tế bào tăng chậm, chủ yếu là
quá trình phát dục. Quá trình tích lũy chất dinh dưỡng của gia cầm một phần
là để duy trì sự sống, một phần để tích lũy mỡ, tốc độ sinh trưởng chậm hơn
thời kỳ gia cầm con. Đối với gia cầm sinh sản, cần phải có chế độ ăn hạn chế
phù hợp để vừa không ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát dục vừa không
quá béo, tránh tình trạng giảm năng suất và chất lượng trứng.
2.4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng
Có rất nhiều yếu tố về di truyền và ngoại cảnh ảnh hưởng đến sinh
trưởng của gia cầm như: giống, tính biệt, tốc độ mọc lông, ngoại hình và sự
phát triển của cơ lưỡi hái, khối lượng bộ xương, dinh dưỡng, điều kiện chăn
nuôi....
Ảnh hưởng của giống, dòng đến sinh trưởng: Giống, dòng có ảnh
hưởng lớn tới quá trình sinh trưởng của gia súc, gia cầm. Nhiều công trình
nghiên cứu đã khẳng định sự sinh trưởng của từng cá thể giữa các giống, các
dòng, có sự khác nhau.
Tác giả Hoàng Văn Tiệu và cộng sự (1993) cho biết: Khối lượng cơ thể
các cặp lai Anh Đào x Cỏ; Anh Đào x (Anh Đào x Cỏ); Anh Đào x Bầu lúc
70 ngày tuổi có khối lượng cơ thể lần lượt là: 1761 - 1853g; 2138 - 2269g;
1656g.
Theo tác giả Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự (1994), sự khác nhau về
khối lượng giữa các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn
giống gà hướng trứng 500 - 700g tức là khoảng 13 - 30%.

12


Ảnh hưởng của tính biệt: Giới tính khác nhau thì đặc điểm và chức
năng sinh lý cũng khác nhau nên khả năng đồng hóa, dị hóa và quá trình trao
đổi chất dinh dưỡng của chúng là khác nhau. Nhiều thí nghiệm cho biết, ở

gia cầm cùng một giống, dòng, lứa tuổi nhưng nhu cầu năng lượng, protein,
axit amin...cho trao đổi cơ bản của gia cầm trống luôn cao hơn gia cầm mái
trưởng thành; nên khối lượng của gia cầm trống luôn cao hơn gia cầm mái.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh, Hoàng Văn Tiệu, Phạm Văn
Trượng (1996) trên vịt Cỏ màu cánh sẻ nuôi tại Trung tâm nghiên cứu vịt
Đại Xuyên cho biết: Khối lượng cơ thể của vịt Cỏ màu cánh sẻ thế hệ thứ 5
lúc vào đẻ của con đực là 1582g và con mái là 1467g.
Kết quả nghiên cứu của Dương Xuân Tuyển (1998) cho biết: Vịt CV Super M nuôi thịt cho ăn tự do, khối lượng cơ thể ở 8 tuần tuổi dòng trống
vịt đực là 3323g và vịt mái là 3062g; dòng mái, vịt trống là 3126g, vịt mái là
2879g.
Ảnh hưởng của lứa tuổi: Lứa tuổi ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát
triển của gia cầm cũng tuân theo quy luật đường cong sinh trưởng, do mối
tương quan giữa hai quá trình đồng hóa, dị hóa ở mỗi giai đoạn quy định.
Đây là cơ sở quan trọng để tính toán thời gian nuôi dưỡng, nhu cầu thức ăn
và điều kiện chăm sóc thích hợp để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Theo Lê Viết Ly và cộng sự (1998), tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của vịt
Cỏ đực ở 3 tuần tuổi là 8,31g/con/ngày và ở 8 tuần tuổi là 18,05g/con/ngày;
của con mái ở 3 tuần tuổi là 6,90 g/con/ngày và 8 tuần tuổi là 16,55
g/con/ngày.
Ảnh hưởng của tốc độ mọc lông: Tốc độ mọc lông của vịt có ảnh hưởng
tới tốc độ sinh trưởng. Những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã
xác định trong cùng một giống, cùng tính biệt ở gia cầm có tốc độ mọc lông
nhanh cũng có tốc độ sinh trưởng, phát triển tốt hơn. Gia cầm có tốc độ mọc
lông nhanh thì sự thành thục về thể trọng sớm hơn, chất lượng thịt tốt hơn

13


gia cầm mọc lông chậm. Song dù có tốc độ mọc lông chậm thì từ 8 - 12 tuần
tuổi gia cầm cũng mọc lông đủ. Warren, 1994 dẫn theo Trần Long, (1994).

Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng: Dinh dưỡng có ảnh hưởng lớn đến
sự sinh trưởng và phát triển của gia cầm. Dinh dưỡng là một quá trình sinh
học nhằm duy trì cơ thể và không ngừng đổi mới những vật chất tạo nên cơ
thể. Cơ thể đòi hỏi được cung cấp các chất dinh dưỡng để duy trì sự sống và
phát triển. Do đó trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng việc xác định nhu cầu
các chất dinh dưỡng hay chế độ dinh dưỡng hợp lý cho vật nuôi là rất cần
thiết và có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ sinh trưởng. Tỷ lệ sinh trưởng các
phần cơ thể khác nhau ở độ tuổi và phụ thuộc vào mức độ dinh dưỡng.
Theo Chamber và cộng sự (1990), chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng tới tốc
độ sinh trưởng, đến sự phát triển của từng mô khác nhau và gây nên sự biến
đổi trong quá trình phát triển của mô này đối với mô khác. Dinh dưỡng
không chỉ ảnh hưởng tới sự sinh trưởng mà còn ảnh hưởng đến sự di truyền
về sinh trưởng.
Theo Bùi Hữu Lũng và cộng sự (1992), để phát huy được tốc độ sinh
trưởng tối đa cần cung cấp thức ăn tối ưu với đầy đủ chất dinh dưỡng được
cân bằng nghiêm ngặt giữa protein và các axit amin với năng lượng. Ngoài
ra trong thức ăn hỗn hợp còn được bổ sung hàng loạt các chế phẩm hóa sinh
không mang ý nghĩa dinh dưỡng nhưng nó kích thích sinh trưởng, làm tăng
năng suất và chất lượng thịt.
Các yếu tố môi trường: Các yếu tố môi trường như nhiệt độ, ẩm độ, ánh
sáng và độ thông thoáng có ảnh hưởng không nhỏ tới sự sinh trưởng của gia
cầm nói chung và vịt nói riêng.
Khi các yếu tố môi trường không thuật lợi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
sức đề kháng, khả năng thu nhận thức ăn và từ đó ảnh hưởng lớn đến sinh
trưởng, phát triển của vật nuôi. Do đó cần đảm bảo chuồng nuôi có độ thông
thoáng tốt, mật độ nuôi dưỡng và chế độ chiếu sáng thích hợp để nâng cao
hiệu quả chăn nuôi.
14



Ngoài ra ẩm độ môi trường cũng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng
của gia cầm. Ẩm độ quá thấp sẽ làm tăng lượng bụi trong chuồng nuôi nên
gia cầm dễ mắc một số bệnh hô hấp, bệnh về mắt.... Mặt khác độ ẩm thấp
còn làm da khô, gầy yếu và khó chịu. Song nếu ẩm độ cao dễ làm gà mắc
bệnh đường ruột, làm giảm khả năng tăng trưởng nhất là trong điều kiện
nóng ẩm nước ta.
Như vậy, trong chăn nuôi vịt thịt, đặc biệt là những giống cao sản thì
ngoài yếu tố giống tốt, dinh dưỡng hợp lý là nhằm mục đích khai thác tối đa
tiềm năng sinh học về khả năng tăng khối lượng cơ thể của vịt, đồng thời tốc
độ tăng khối lượng cơ thể khác nhau qua các giai đoạn tuổi cho phép các nhà
chăn nuôi xác định thời điểm giết thịt cho hiệu quả kinh tế cao nhất.
2.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự sinh trưởng
Sinh trưởng là một quá trình sinh lý, sinh hóa phức tạp từ khi phôi thai
được hình thành đến khi con vật thành thục về thể vóc. Để đánh giá sức sinh
trưởng của gia cầm người ta thường dùng các chỉ tiêu chính như: Sinh
trưởng tích lũy (khối lượng cơ thể), sinh trưởng tuyệt đối, sinh trưởng tương
đối và đường cong sinh trưởng. (Theo Chambes 1990)
Sinh trưởng tích lũy (khối lượng cơ thể): Khối lượng cơ thể ở một
thời điểm nào đó là một chỉ số được sử dụng quen thuộc nhất về sinh trưởng.
Khối lượng cơ thể không nói lên được mức độ khác nhau về tốc độ sinh
trưởng trong một thời gian. Xác định được khối lượng cơ thể ở các khoảng
thời gian khác nhau, như ở các tuần tuổi ta có thể biểu thị trên đồ thị gọi là
đồ thị sinh trưởng tích lũy.
Đối với gia cầm thịt, đây là tính trạng năng suất quan trọng được tính
bằng kg hoặc gam/con và cũng là căn cứ để so sánh được khối lượng cơ thể
của các tổ hợp lai, từ đó lựa chọn tổ hợp lai tốt nhất.
Sinh trưởng tuyệt đối: là sự tăng lên về khối lượng, kích thước, thể
tích cơ thể trong khoảng thời gian giữa hai lần khảo sát. Đồ thị sinh trưởng

15



tuyệt đối có dạng Parabol, với vịt hướng thịt thường đạt đỉnh cao từ 6 – 7
tuần tuổi. Sinh trưởng tuyệt đối thường tính bằng gam/con/ngày.
Sinh trưởng tương đối: là tỷ lệ phần trăm (%) tăng lên của khối lượng,
kích thước và thể tích cơ thể từ lúc kết thúc khảo sát so với lúc đầu khảo sát.
Đơn vị tính %. Đồ thị sinh trưởng tương đối có dạnh Hypebol. Đối với gia
cầm thịt thường có tốc độ tương đối tăng từ tuần tuổi đầu đến tuần tuổi thứ
3-4 sau đó giảm dần qua các tuần tuổi.
Đường cong sinh trưởng: dùng để biểu thị tốc độ sinh trưởng của gia
súc, gia cầm nói chung. Thông thường người ta sử dụng khối lượng cơ thể
vật nuôi ở các tuần tuổi để thể hiện bằng đồ thị sinh trưởng tích lũy và cho
biết một cách đơn giản nhất về đường cong sinh trưởng. Đường cong sinh
trưởng không chỉ sử dụng để chỉ rõ về số lượng mà còn làm rõ về chất
lượng, sự sai khác giữa các dòng, các giống, giới tính, điều kiện nuôi dưỡng,
chăm sóc, môi trường
2.5. Cơ sở khoa học về tiêu tốn thức ăn
Tiêu tốn thức ăn/ kg tăng trọng là tỷ lệ chuyển hóa thức ăn để đạt được
tốc độ tăng trọng, vì vậy tăng trọng đã phản ánh hiệu quả của quá trình
chuyển hóa thức ăn, hay nói cách khác tiêu tốn thức ăn là hiệu suất giữa thức
ăn trên kilogam tăng trọng.
Trong chăn nuôi, thức ăn thường chiếm 70% giá thành sản phẩm, do
vậy thức ăn/một đơn vị sản phẩm càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và
ngược lại.
Hệ số tương quan giữa khối lượng cơ thể và tăng trọng với tiêu tốn thức
ăn đã được xác định là 0,5 – 0,9. Tương quan giữa sinh trưởng và chuyển
hóa thức ăn là âm và thấp từ - 0,2 đến - 0,8.
Đối với gia cầm sinh sản, thường tính tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng
hay 1kg trứng. Hiện nay, nhiều cơ sở chăn nuôi trên thế giới đã áp dụng
phương pháp tính mức tiêu tốn thức ăn bằng lượng chi phí thức ăn cho gia

cầm từ lúc 1 ngày tuổi cho đến kết thúc 1 năm đẻ.
16


Tiêu tốn thức ăn cho tăng trọng có liên quan đến tính biệt, biện pháp
nuôi dưỡng và những tác động kỹ thuật. Do vậy, để hạ thấp TTTA cần thực
hiện cho gia cầm ăn theo những nhu cầu đặc điểm sinh lý, cải thiện khả năng
tăng trọng, giảm thời gian nuôi vỗ béo kết hợp với quy trình chọn lọc.
2.6. Cơ sở khoa học của sức sinh sản ở gia cầm
2.6.1. Tuổi đẻ quả trứng đầu tiên
Tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là một chỉ tiêu đánh giá sự thành thục sinh
dục, chỉ tiêu này cũng là một yếu tố cấu thành năng suất. Tuổi đẻ quả trứng
đầu được xác định bằng số ngày tuổi kể từ khi nở đến khi đẻ quả trứng đầu
tiên.
Gudeil, Lerner và một số tác giả khác cho rằng: có các gen trên nhiễm
sắc thể giới tính cùng tham gia hình thành tính trạng này (dẫn theo Trần
Đình Miêu, Nguyễn Kim Đường (1992)) có ít nhất 2 cặp gen cùng quy định.
Tuổi đẻ quả trứng đầu phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng, các yếu tố môi
trường, đặc biệt là thời gian chiếu sáng, thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy
gia cầm đẻ trứng sớm. Khối lượng cơ thể và cấu trúc thành phần cơ thể là
những nhân tố ảnh hưởng đến tính thành thục của gia cầm mái, gà càng nặng
cân lại càng đẻ ít trứng, nguyên nhân là do tồn tại nhiều bao noãn lấn át
buồng trứng. Giữa tuổi thành thục sinh dục và kích thước cơ thể có mối
tương quan nghịch, chọn lọc theo hướng tăng khối lượng trứng sẽ dẫn đến
sự tăng khối lượng cơ thể và tăng tuổi đẻ quả trứng đầu tiên.
2.6.2. Sức sản xuất trứng của gia cầm
Sức đẻ trứng của gia cầm là chỉ tiêu chủ yếu của gia cầm hướng trứng,
nó phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục; là chỉ
tiêu quan trọng của gia cầm hướng thịt hoặc kiêm dụng, đồng thời nó cũng
là đặc điểm sinh vật học quan trọng và là chỉ tiêu kinh tế, sử dụng trong việc

sản xuất trứng thương phẩm và trứng ấp để bổ sung đàn và sản xuất gia cầm
con.

17


Sức đẻ trứng là số lượng trứng một gia cầm mái sinh ra trên một đơn
vị thời gian, thông thường người ta tính sản lượng trứng cho một năm, cũng
có khi tính sản lượng trứng theo một năm sinh học (số trứng đẻ ra trong 365
ngày kể từ khi đẻ quả trứng đầu tiên hay 500 ngày tuổi kể từ khi gia cầm nở
ra).
Những yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng
Sức sản xuất trứng chịu sự chi phối của các tập hợp gen khác nhau, các
gen quy định tính trạng này nằm trên nhiễm sắc thể thường và bị hạn chế bởi
giới tính. Năng suất trứng được truyền lại cho đời sau từ bố mẹ. Sức đẻ
trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của 5 yếu tố di truyền cá thể là: tuổi thành
thục sinh dục, cường độ đẻ, thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học, tính
nghỉ đẻ mùa đông và tính ấp bóng.
Tuổi thành thục sinh dục: thường tuổi thành thục sinh dục của vịt dao
động trong khoảng 20-26 tuần tuổi. tuổi thành thục sinh dục càng sớm thì
thời gian đẻ trứng càng dài, năng suất trứng càng cao. Tuy nhiên nếu tuổi
thành thục sinh dục sớm hơn tuổi thành thục thể vóc thì sức bền đẻ trứng
không cao. Vì lúc này cơ thể vịt mái chưa thành thục về thể vóc và vẫn đang
sinh trưởng phát dục để hoàn thiện cấu trức chức năng cơ thể, nhưng chất
dinh dưỡng không thể tập trung cho hoàn thiện cấu trúc cơ thể được mà phải
cung cấp cho quá trình tạo trứng nên ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng về
sau.
Sản lượng trứng 3 – 4 tháng đầu tiên có mối tương quan dương với sản
lượng trứng cả năm. Vì vậy, để xác định chỉ tiêu về sức đẻ trứng người ta
thường tính sản lượng trứng của 3 – 4 tháng đầu để có phán đoán sớm và kịp

thời trong công tác giống.
Tuổi thành thục sinh dục sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, loài, giới
tính, thời gian nở trong năm…. Cụ thể, giống vịt hướng trứng có tuổi thành
thục sinh dục sớm hơn giống vịt hướng thịt, vịt thành thục sinh dục sớm hơn

18


ngan và ngỗng. Vịt con nở vào mùa thu thường có tuổi thành thục sinh dục
sớm hơn các mùa khác trong năm.
Cường độ đẻ: cường độ đẻ trong 3 – 4 tháng đầu có tương quan rất chặt
chẽ với sản lượng trứng của gia cầm. Nếu cường độ đẻ trứng càng cao thì
sản lượng trứng cao và ngược lại.
Thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học: chu kỳ đẻ trứng sinh học
được tính từ khi gia cầm đẻ quả trứng đầu tiên đến khi gia cầm nghỉ đẻ để
thay lông, đó là chu kỳ thứ nhất và lại tiếp tục chu kỳ thứ hai. Sản lượng
trứng phụ thuộc vào thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học, thời gian
này càng dài càng tốt. Chỉ tiêu này có tương quan dương với tuổi thành thục
sinh dục, sức bền đẻ trứng dài, nhịp độ đẻ trứng đều và thời gian nghỉ đẻ
ngắn, còn những gia cầm đẻ kém có dấu hiệu ngược lại. Nói chung, thời
gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học có tính di truyền phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau nhất là chế độ chăm sóc, dinh dưỡng, mùa vụ.
Tính nghỉ đẻ mùa đông: vào mùa đông, nhiệt độ thấp nên cơ thể gia
cầm phải huy động năng lượng để chống rét, tuy nhiên với những giống gia
cầm tốt thì thời gian nghỉ đẻ rất ngắn thậm chí không có. Tính nghỉ đẻ có
mối tương quan nghịch với năng suất trứng, tính nghỉ đẻ mùa đông càng dài
thì năng suất trứng càng thấp.
Tính ấp bóng: tính ấp bóng hay bản năng ấp liên quan đến khả năng đẻ
trứng là phản xạ không điều kiện của gia cầm. Bản năng đòi ấp của gia cầm
nhằm bảo vệ nòi giống và là điều kiện để sản xuất ra thế hệ con cháu, bản

năng đòi ấp càng mạnh thì thời gian nghỉ đẻ càng lớn. Vì vậy, để tăng hiệu
quả chăn nuôi, người ta chọn lọc và loại bỏ dần bản năng đòi ấp nhằm rút
ngắn thời gian nghỉ đẻ.
Ngoài 4 yếu tế di truyền cá thể, sức đẻ trứng còn bị ảnh hưởng bởi các
yếu tố khác nhau như giống, dòng, lứa tuổi, dinh dưỡng, chế độ chăm sóc,
tiểu khí hậu chuồng nuôi…

19


Giống, dòng ảnh hưởng lớn đến sức sản xuất trứng của gia cầm, giống
gia cầm khác nhau thì sức sản xuất trứng khác nhau. Trong cùng một giống,
các dòng khác nhau cho năng suất trứng khác nhau, những dòng được chọn
lọc kỹ cho sản lượng trứng cao hơn những dòng chưa được chọn lọc kỹ
khoảng 15 – 20%.
Tuổi gia cầm cũng ảnh hưởng đến năng suất trứng của nó. Ở vịt, sản
lượng trứng giảm dần theo tuổi, thường sản lượng trứng trung bình năm thứ
hai giảm 15 – 20% so với năm thứ nhất.
Mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến sức đẻ trứng của vịt, mùa hè sức đẻ trứng
giảm xuống nhiều so với mùa xuân và đến mùa thu sức đẻ trứng lại tăng lên.
Nhiệt độ môi trường xung quanh cũng ảnh hưởng đến sản lượng trứng.
Nhiệt độ thích hợp đối với gia cầm đẻ trứng là 14 – 20 0C. Khi nhiệt độ thấp
hơn nhiệt độ giới hạn thấp, gia cầm phải huy động năng lượng để chống rét;
nếu nhiệt độ cao hơn nhiệt độ giới hạn, gia cầm thải nhiệt nhiều ảnh hưởng
đến sản lượng trứng và làm giảm sản lượng trứng.
Thời gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng yêu cầu đối với vịt đẻ là
16 – 18 giờ/ngày với cường độ chiếu sáng là 3 – 3,5 W/m2.
Thay lông: sau mỗi chu kỳ đẻ trứng sinh học vịt nghỉ đẻ và thay lông.
Trong điều kiện bình thường, lúc thay lông lần đầu tiên là thời điểm quan
trọng để đánh giá đàn vịt đẻ tốt hay không. Những đàn vịt thay lông sớm,

thường thời gian thay lông bắt đầu từ tháng 6 – 7 và quá trình thay lông diễn
ra chậm, kéo dài 3 – 4 tháng là những đàn vịt đẻ kém. Ngược lại, có những
đang thay lông muộn, thời gian thay lông bắt đầu từ tháng 10 – 11, quá trình
thay lông lại diễn ra nhanh và những đàn vịt đẻ tốt. Đặc biệt ở một số đàn
cao sản, thời gian nghỉ đẻ chỉ 4 – 5 tuần và đẻ lại ngay khi chưa hình thành
xong bộ lông mới, có những con đẻ ngay trong thời gian thay lông. Như vậy,
thay lông liên quan mật thiết đến sản lượng trứng của gia cầm.
Trong chăn nuôi có một yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng đến hiệu quả
kinh tế suốt cả quá trình chăn nuôi là tác động của con người. Ngày nay, mô
20


hình chăn nuôi từng bước đã thay đổi, dù là cơ sở chăn nuôi lớn hay chăn
nuôi nhỏ đều rất quan tâm đến các tiến bộ kỹ thuật về mọi lĩnh vực trong
chăn nuôi như: con giống, dinh dưỡng, quy trình chăn nuôi… Dưới ảnh
hưởng của công tác giống, điều kiện thức ăn, nuôi dưỡng đã không ngừng
nâng cao hiệu quả của chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng.
2.7. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.7.1. Tình hình nghiên cứu và phát triển chăn nuôi gia cầm trên thế giới
Cùng với sự phát triển nhanh của nông nghiệp, ngành chăn nuôi gia
cầm cũng có những bước tiến vượt bậc trong nghiên cứu chọn lọc, tạo giống
mới. Bên cạnh việc luôn chọn lọc, nhân giống để nâng cao năng suất và chất
lượng của các giống vịt lâu năm như Khaki Campbell nuôi ở Ấn Độ, vịt Anh
Đào nuôi ở Hungari, các công ty giống gia cầm cũng luôn tập trung nghiên
cứu để tạo ra các giống mới như các giống vịt siêu thịt SM; SM2; SM3
(hãng Cherry Valley của Vương quốc Anh) giống vịt Star 42, Star 53, Star
76, M14, M15 (của hãng Grimaud Frères cộng hoà Pháp)….
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Nông lương thế giới – FAO năm
2009 số lượng đầu gia cầm chính của thế giới như sau: Gà 14.191,1 triệu con
và tổng đàn vịt là 1.008,3 triệu con. Tổng sản lượng thịt sản xuất năm 2009

của thế giới trên 281 triệu tấn, trong đó thịt gà đạt 79,5 triệu tấn, chiếm
28,5% , thịt vịt đạt 3,8 triệu tấn. Về chăn nuôi gà: Trung Quốc 4.702,2 triệu
con gà, Indonesia 1.341,7 triệu, Brazin 1.205,0 triệu, Ấn Độ 613 triệu và
Iran 513 triệu con gà. Việt Nam có 200 triệu con đứng thứ 13 thế giới. Chăn
nuôi vịt Trung Quốc có 771 triệu con, Việt Nam 84 triệu, Indonesia 42,3
triệu, Bangladesh 24 triệu và Pháp có 22,5 triệu con vịt. Tổng sản lượng
trứng của thế giới năm 2009 là 67,4 triệu tấn.
Theo số liệu thống kê của FAO năm 2009 ở châu Á tổng đàn gà là
9101,3 triệu con và vịt 953 triệu con. Thịt gà 21.287,1 nghìn tấn và thịt vịt

21


2.884,9 nghìn tấn, thịt gà chiếm 18,21%, thịt vịt chiếm 2,40% tổng sản
lượng thịt.
Vịt CV. Super M3 ông bà có nguồn gốc từ hãng Cherry Valley Vương
Quốc Anh, là giống vịt có năng suất thịt, trứng cao hơn hẳn so với các dòng
vịt siêu thịt đã nhập khác. Tuổi đẻ của vịt bố mẹ là 25 tuần, năng suất trứng
từ 180 – 220 quả/mái/67 tuần tuổi. Vịt thương phẩm nuôi nhốt (56 ngày
tuổi) hoặc nuôi nhốt kết hợp với chăn thả có khoanh vùng (70 ngày tuổi) đạt
khối lượng 3 – 3,4kg, tiêu tốn 2,6 – 2,8kg thức ăn/kg tăng trọng. Vịt có thể
trọng lớn, khả năng tự kiếm mồi kém, thiên về hướng chăn nuôi công nghiệp
hoặc bán công nghiệp, vịt có thể nuôi trên khô không cần bơi lội.
Phương thức chăn nuôi hiện nay của các nước trên thế giới vẫn có ba
hình thức cơ bản đó là: Chăn nuôi quy mô công nghiệp thâm canh công nghệ
cao, chăn nuôi trang trại bán thâm canh và chăn nuôi nông hộ quy mô nhỏ
và quảng canh.
Phương thức chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô lớn thâm canh sản xuất
hàng hóa chất lượng cao chủ yếu ở các nước phát triển ở Châu Âu, Châu
Mỹ, Châu Úc và một số nước ở Châu Á, Phi và Mỹ La Tinh. Chăn nuôi

công nghiệp thâm canh các công nghệ cao về cơ giới và tin học được áp
dụng trong chuồng trại, cho ăn, vệ sinh, thu hoạch sản phẩm, xử lý môi
trường và quản lý đàn. Các công nghệ sinh học và công nghệ sinh sản được
áp dụng trong chăn nuôi như nhân giống, lai tạo nâng cao khả năng sinh sản
và điều khiển giới tính.
Chăn nuôi bán thâm canh và quảng canh gia súc gia cầm tại phần lớn
các nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La Tinh và các nước
Trung Đông. Trong chăn nuôi quảng canh, tận dụng, dựa vào thiên nhiên sản
phẩm chăn nuôi năng suất thấp nhưng được thị trường xem như là một phần
của chăn nuôi hữu cơ.
Chăn nuôi hữu cơ, chăn nuôi sạch đang được thực hiện ở một số nước
phát triển, sản phẩm chăn nuôi được người tiêu dùng ưu chuộng. Xu hướng
22


chăn nuôi gắn liền với tự nhiên đang được đặt ra cho thế kỷ 21 không chăn
nuôi gà công nghiệp trên lồng tầng và không chăn nuôi heo trên nền xi
măng. Tuy nhiên chăn nuôi hữu cơ năng xuất thấp, giá thành sản phẩm chăn
nuôi cao thường là mâu thuẫn với chăn nuôi công nghiệp quy mô lớn do đó
đang là thách thức của nhân loại trong mở rộng quy mô và phổ cập chăn
nuôi hữu cơ.
2.7.2. Tình hình nghiên cứu và phát triển chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam
Trong những năm gần đây chăn nuôi vịt đã trở thành một trong những
phương thức chủ yếu chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất hàng hoá, cung
cấp ¼ sản lượng trứng gia cầm ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Tổ
chức Nông Lương thế giới (FAO) năm 2009, số lượng vịt của Việt Nam xếp
thứ hai trên thế giới chỉ sau Trung Quốc. Các giống vịt nước ta như vịt Cỏ,
vịt Bầu, vịt Đốm (Pất lài) thường có tầm vóc nhỏ nhưng năng suất trứng khá
cao, ngoại hình đồng nhất, có sức đề kháng cao chống chịu bệnh tốt nhưng
năng suất thịt thấp.

Để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm từ chăn nuôi vịt, nước ta
đã nhập một số giống vịt cao sản của thế giới như Khaki Campbell;
CV2000; Triết Giang; CV Super M, SM2, SM3; M14; M15; Star 76, 53…
nuôi thích nghi và tiến hành nghiên cứu chọn lọc. Theo Nguyễn Thị Bạch
Yến (1997) khi nghiên cứu trên vịt Khaki Campbell cho biết: Tuổi đẻ quả
trứng đầu tiên là 134 – 155ngày, sản lượng trứng 247,5 – 263,8
quả/mái/năm, khối lượng trứng 53,1 – 73,3 gam/quả. Tỷ lệ trứng có phôi:
91,7 – 93,6%, tỷ lệ nở/ phôi là 81,3 – 88,1%. Theo Nguyễn Văn Diện,
Dương Xuân Tuyển, Đinh Xuân Tiến, Nguyễn Ngọc Hân và cộng sự (1997)
khi nghiên cứu trên vịt CV2000 cho biết: Tỷ lệ nuôi sống đến 7 tuần tuổi đạt
98,4 – 98,8%, tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là 156 ngày, tỷ lệ trứng có phôi đạt
82,5%, năng suất trứng đạt 104,5 quả/mái/19 tuần đẻ, tỷ lệ nở/phôi đạt
89,3%, tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng là 2,17 kg. Theo Nguyễn Đức
Trọng, Hoàng Văn Tiệu và cộng sự (1996): Khối lượng cơ thể vịt CV Super
23


M cho ăn hạn chế lúc 8 tuần tuổi với dòng trống là 2,14kg, dòng mái là
2,04kg, tỷ lệ nuôi sống đến 8 tuần tuổi của dòng trống là 98,5%, dòng mái là
98,7%, tuổi đẻ quả trứng đầu tiên của dòng trống là 182 ngày, dòng mái là
168 ngày, năng suất trứng của dòng trống là 174 quả/mái/40 tuần đẻ, dòng
mái là 183 quả/mái/40 tuần đẻ, tỷ lệ trứng có phôi của dòng trống là 93,5%,
của dòng mái là 96%, tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng với dòng trống là
5,2 kg, dòng mái là 4,9kg. Với vịt CV Super M2 theo Lê Sỹ Cương (2001)
cho biết: Tỷ lệ nuôi sống đến 8 tuần tuổi với dòng trống là 96,67%, dòng
mái là 98,97%, tuổi đẻ quả trứng đầu tiên của dòng trống là 199 ngày, dòng
mái là 180 ngày, năng suất trứng của dòng trống là 104,96 quả/mái/24 tuần
đẻ, dòng mái là 131,35 quả/mái/24 tuần đẻ, tiêu tốn thức ăn cho 10 quả
trứng với dòng trống là 5,17 kg, dòng mái là 5,12 kg. Cùng với việc nghiên
cứu chọn lọc và xây dựng quy trình chăn nuôi của từng giống vịt nhập nội,

các nhà di truyền giống trong nước còn tiến hành lai tạo các giống vịt nội
với các giống vịt ngoại nhằm mục đích nâng cao năng suất, thúc đẩy ngành
chăn nuôi thuỷ cầm phát triển. Các tổ hợp lai đã được nghiên cứu: Khaki
Campbell x CV2000 Layer; CV Super M x (Anh Đào x Cỏ); Khaki
Campbell x Cỏ; CV Super M x Anh Đào; CV Super M x ngan Pháp; SM x
Đốm; Triết Giang x Cỏ.… Theo Ngô Văn Vĩnh, Nguyễn Đức Trọng và cộng
sự (2009) khi nghiên cứu khả năng sản xuất của tổ hợp lai CV. Super M x
ngan Pháp cho biết: con lai có tỷ lệ nuôi sống đạt 95 – 100%, khối lượng cơ
thể khi nuôi đến 10 tuần tuổi đạt 3821,0 – 3938,0 gam/con, tỷ lệ thịt xẻ đạt
69,4 – 71,0%, tỷ lệ thịt có giá trị của bốn công thức lai đều đạt từ 32,79 –
33,84%. Nuôi con lai ngan vịt nhồi lấy gan béo đạt hiệu quả kinh tế cao.
Theo Nguyễn Đức Trọng, Nguyễn Văn Duy (2009) khi nghiên cứu khả năng
sản xuất của con lai giữa vịt SM và vịt Đốm cho biết: con lai có tỷ lệ nuôi
sống từ 95,2 – 97,6%, tuổi đẻ là 159 ngày, khối lượng vào đẻ là 2703,7 –
2798,4 gam/con, tỷ lệ phôi đạt 93,83 – 94,33%, tỷ lệ nở/ tổng số trứng ấp:
78,62 – 79,87%. Theo Đồng Thị Diệu Hiền, Nguyễn Thị Huệ (2009) khi
24


×