Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Biện pháp bảo lãnh: so sánh quy định của BLDS 2005 và 2015; phân tích, đánh giá những điểm mới trong BLDS 2015 và cho ví dụ minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.41 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

Từ viết tắt
Bộ luật Dân sự :

BDLS

LỜI NÓI ĐẦU
Để tạo điều kiện cho người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ có được thế chủ
động trong thực tế hưởng quyền dân sự, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa
thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện
các nghĩa vụ dân sự bao gồm những biện pháp như: thế chấp, cầm cố, đặt cọc, ký
cược, ký quỹ,… Trong đó, bảo lãnh cũng được coi là một biện pháp bảo đảm giao
dịch dân sự và được sử dụng rất nhiều trong thực tiễn. Ngày 24 tháng 11 năm
2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật
Dân sự 2015 để đáp ứng với sự phát triển của các quan hệ pháp luật dân sự trong
thực tiễn. Trong đó, biện pháp bảo lãnh được quy định tại Bộ luật này có những
điểm khác biệt và tiến bộ hơn so với biện pháp bảo lãnh được quy định tại Bộ luật
Dân sự 2005. Trong nội dung bài viết của mình, em xin tìm hiểu và trình bày “Vấn
đề số 7: Biện pháp bảo lãnh: so sánh quy định của BLDS 2005 và 2015; phân
tích, đánh giá những điểm mới trong BLDS 2015 và cho ví dụ minh họa.”

1


NỘI DUNG
I.
1.

Khái quát về bảo lãnh trong pháp luật dân sự Việt Nam
Định nghĩa


Bảo lãnh là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
được quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam. Cũng như ở Việt Nam, các nước
trên thế giới cũng đã và đang coi bảo lãnh là một trong những chế định quan trọng
của pháp luật dân sự. Trong hầu hết các bộ luật lớn trên thế giới đều có những quy
định cụ thể về bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Đứng dưới góc độ luật học, theo quy định của pháp luật hiện hành thì bảo lãnh
được hiểu như sau:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”(Điều 361 BDLS

2.

2005).
Đặc điểm
Thứ nhất, bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
người được bảo lãnh nếu như người được bảo lãnh sau này không thực hiện, thực
hiện không đúng hoặc không đầy đủ. Người thứ ba ở đây có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân.
Thứ hai, chủ thể của quan hệ bảo lãnh gồm hai bên là bên bảo lãnh và bên nhận
bảo lãnh.
Thứ ba, bảo lãnh là một biện pháp đối nhân. Có thể hiều bảo đảm đối nhân là
việc bên bảo đảm được quyền yêu cầu đối với chính bên cam kết bảo đảm. Đối
với biện pháp bảo lãnh, bên có quyền chỉ được trao quyền yêu cầu đối với bên bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và không được trao quyền đối với một tài
sản cụ thể nào của bên bảo lãnh. Bản chất của bảo lãnh không phải là việc người
bảo lãnh bằng danh dự , uy tín của mình mà thực chất bằng toàn bộ khối tài sản của
mình để cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh nếu người
2



này không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Trong bảo lãnh – bảo đảm đối
nhân, cái mà người nhận bảo lãnh quan tâm là người đứng ra bảo lãnh và khả năng
tài chính của anh ta ( toàn bộ khối tài sản mà người nhận bảo lãnh có) mà không
hướng vào một tài sản cụ thể nào.
Thứ tư, về thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh khi bên có ngĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
hoặc chỉ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Người có quyền (bên nhận bảo lãnh) chỉ có quyền yêu cầu người thứ ba (bên bảo
lãnh) phải thực hiệssn nghĩa vụ bảo lãnh khi đến thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ
mà người có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Đồng thời, bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong
phạm vi đã cam kết.
Thứ năm, về tính phụ thuộc của nghĩa vụ bảo lãnh và nghĩa vụ được bảo lãnh.
Nghĩa vụ bảo lãnh là một nghĩa vụ phụ , nó có thể được thể hiện là hợp đồng phụ
bảo đảm cho hợp đồng chính và cũng có thể là các điều kiện để thực hiện hợp đồng
chính. Nghĩa vụ bảo lãnh luôn tồn tại và phụ thuộc vào nghĩa vụ của bên được bảo
lãnh, việc giao kết nghĩa vụ bảo lãnh chỉ được đưa ra bàn bạc khi có một nghĩa vụ
tài sản mà một chủ thể khác phải thực hiện và việc thực hiện nghĩa vụ này cần
được bảo đảm, người bảo lãnh cam kết không phải với nghĩa vụ tài sản đó mà như
là người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp chính người có nghĩa
vụ không thực hiện. Chính vì vậy , các nghĩa vụ bảo lãnh không thể xuất hiện trước
nghĩa vụ được bảo lãnh(nghĩa vụ chính). Từ đó có thể thấy rằng giá trị của nghĩa
vụ bảo lãnh lệ thuộc vào giá trị của nghĩa vụ được bảo lãnh và vi phạm nghĩa vụ
bảo lãnh không thể rộng hơn phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh. Sự phụ thuộc được
thể hiện: xác lập biện pháp bảo lãnh nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ khác thực hiện;
nghĩa vụ được bảo lãnh là cơ sở để quy định nghĩa vụ bảo lãnh như thời hạn, nội

3



dung, hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh phải phù hợp và phụ thuộc vào nghĩa vụ được
II.
1.

bảo lãnh.
So sánh quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015
Điểm giống nhau giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển BLDS 2005, ngoài những
điểm mới được quy định nhằm điều chỉnh những quan hệ dân sự phát sinh ngày
một phức tạp trong đời sống thực tiễn tại BLDS 2015, Bộ luật mới này vẫn giữ
nguyên nội dung một số điều đã được quy định tại BLDS 2005 về bảo lãnh: khái
niệm Bảo lãnh, quy định về thù lao, nhiều người cùng bảo lãnh, quyền yêu cầu của
bên bảo lãnh, chấm dứt bảo lãnh.
Thứ nhất, khái niệm Bảo lãnh được quy định tại BDLS 2005 ghi nhận :
“Điều 361 Bảo lãnh
Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có
thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo
lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”.
Còn theo quy định tại Điều 355 BLDS 2015 thì:
“Điều 355. Bảo lãnh
1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa
vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
4



2.Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”
Như vậy, ta có thể nhận thấy rõ ràng rằng: quy định về khái niệm bảo lãnh tại
BLDS 2005 và BLDS 2015 về cơ bản là giống nhau. Chỉ có điều quy định này tại
BLDS 2015 được tách làm 2 khoản, thể hiện sự rõ ràng, rành mạch và tính logic
của luật: khoản 1 là khái niệm về bảo lãnh, khoản 2 quy định về việc có thể thỏa
thuận giữa các bên về thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó, khái niệm bảo lãnh được
quy định tại BLDS 2015 được bổ sung những từ ngữ cần thiết (như đã được in đậm
trong phần trích dẫn luật ở trên) để làm sáng tỏ nội dung của điều luật, tránh dẫn
đến sự hiểu sai và áp dụng sai.
Thứ hai, về quy định Thù lao, cả hai Bộ luật đều quy định giống nhau, cụ thể là
BLDS 2005 ghi nhận tại Điều 364 và BLDS 2015 ghi nhận tại Điều 337: “Bên bảo
lãnh được hưởng thù lao nếu bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có thỏa thuận.”
Thứ ba,vấn đề nhiều người cùng bảo lãnh, quyền yêu cầu của bên bảo lãnh và
chấm dứt bảo lãnh cũng được BLDS 2015 giữ nguyên so với quy định tại BLDS
2005. Những vấn đề này được ghi nhận lần lượt tại Điều 365, Điều 367, Điều 371
BLDS 2005 và lần lượt tại Điều 338, Điều 340, Điều 343 BLDS 2015.
2.

Điểm khác nhau giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015
So quy định về bảo lãnh tại BLDS 2005, BLDS 2015 ghi nhận những điểm
tương đối khác biệt nhằm đáp ứng nhu cầu điều chỉnh những vấn đề dân sự về bảo
lãnh nảy sinh trong đời sống xã hội ngày nay. Những quy định về bảo lãnh tại
BLDS 2015 có sự khác biệt so với quy định về bảo lãnh tại Bộ luật Dân sự 2005
bao gồm: quy định về Phạm vi bảo lãnh (Điều 336 BLDS 2015), quy định về Quan
hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (Điều 339), Miễn việc thực hiện nghĩa
5



vụ bảo lãnh (Điều 341),… Ngoài ra BLDS 2015 còn ghi nhận quy định về Trách
nhiệm dân sự của bên bảo lãnh tại Điều 342 và loại bỏ quy định về Hình thức bảo
III.
1.

lãnh và Hủy bỏ việc bảo lãnh.
Một số điểm mới về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự 2015 và ví dụ minh họa.
Hình thức bảo lãnh
Khác với BLDS 2005, BLDS 2015 đã loại bỏ quy định về hình thức bảo lãnh.
Theo đó, việc bảo lãnh không nhất thiết phải được lập bằng văn bản như theo quy
định tại Bộ luật Dân sự 2005 mà có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào
của hợp đồng như bằng thỏa thuận miệng, văn bản và hành vi cụ thể…Thực tiễn
cho thấy, trong nhiều trường hợp, các bên xác lập biện pháp bảo lãnh dưới nhiều
hình thức khác nhau. Việc BLDS 2005 quy định biện pháp bảo lãnh bắt buộc phải
bằng văn bản là không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn . Như vậy, có thể thấy
rằng Bộ luật Dân sự 2015 đã hoàn toàn tôn trọng sự tự do ý chí của các bên trong
việc lựa chọn hình thức của hợp đồng bảo lãnh. Theo quan điểm của cá nhân thì
quy định như vậy có ưu điểm nhưng cũng có những nhược điểm nhất định. Ưu
điểm ở đây là các bên có thể giao kết hợp đồng bảo lãnh dưới bất kỳ hình thức nào
mà không bị bó buộc trong một hình thức nhất định, theo đó thì không bắt buộc
phải thực hiện những thủ tục rườm rà (như trong trường hợp phải công chứng,
chứng thực), tiết kiệm thời gian và công sức. Tuy nhiên, việc Bộ luật Dân sự 2015
cho phép các bên tham gia quan hệ bảo lãnh tự do lựa chọn hình thức bảo lãnh có
thể là một hạn chế vì nếu hợp đồng bảo lãnh không được lập thành vản bản và có
công chứng, chứng thực trong một số trường hợp cụ thể thì xác suất xảy ra tranh
chấp là rất cao. Ví dụ: trường hợp việc bảo lãnh chỉ được các bên thỏa thuận bằng
lời nói, khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện
nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh cũng không có chứng cứ gì chứng minh

cho việc đã giao kết hợp đồng bảo lãnh để yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh. Như vậy, rủi ro cho bên nhận bảo lãnh là rất cao. Do đó, khi lựa chọn

6


hình thức của hợp đồng bảo lãnh, các bên cần cân nhắc về quyền lợi, nghĩa vụ của
2.

các bên để có thể lựa chọn ra hình thức phù hợp nhất.
Phạm vi bảo lãnh(Điều 336 Bộ luật Dân sự 2015)
So với quy định về phạm vi bảo lãnh tại Điều 363 BLDS 2005, quy định này
tại Điều 336 của BLDS 2015 được phân ra thành các khoản cụ thể rất chi tiết và



ghi nhận một số điểm mới, cụ thể là:
Thứ nhất, theo quy định tại BLDS 2015 thì nghĩa vụ bảo lãnh ngoài việc bao gồm
cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại (như theo quy định tại
BLDS 2005) thì còn bao gồm cả lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác. Như vậy, theo quy định tại BLDS 2015 thì nếu các bên không có thỏa
thuận khác thì nghĩa vụ bảo lãnh ngoài việc bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền
phạt, tiền bồi thường thiệt hại và lãi trên số tiền chậm trả. Quy định này có thể



được coi là đã hoàn thiện hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo lãnh.
Thứ hai, BLDS 2015 ghi nhận quy định mới tại Khoản 3 Điều 336 : “Các bên có
thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh”. Đây cũng được coi là một điểm mới có những ưu điểm nhất

định so với quy định lại BLDS hiện hành.
Việc quy định như vậy tại BLDS 2015 có thể giải quyết được những mâu thuẫn
trong pháp luật dân sự hiện hành trong trường hợp bên bảo lãnh và bên nhận bảo
lãnh thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm giao dịch dân sự khác để bảo lãnh cho
việc thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh. Ví dụ, A vay của B 100 triệu đồng,
C là anh của A đứng ra bảo lãnh cho A vay số tiền này của B. C và B thỏa thuận
với nhau và lập hợp đồng bảo lãnh cho việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền của A. Nội
dung của hợp đồng là C thế chấp chiếc ô tô trị giá 200 triệu của C cho B, nếu đến
thời hạn trả tiền mà A không trả hoặc trả không đủ tiền cho B và sau đó C không
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì chiếc ô tô đó sẽ là của B. Như vậy, theo
quy định của pháp luật dân sự hiện hành thì sẽ rất khó để xác định xem đây là hợp

7


đồng bảo lãnh hay hợp đồng thế chấp tài sản. Theo quy định của BLDS 2015 thì ta
hoàn toàn có thể xác định được đây là hợp đồng bảo lãnh.
Bên cạnh đó, với quy định này, BLDS 2015 vẫn tiếp tục kế thừa BLDS 2005
và thừa nhận biện pháp bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm đối nhân thuần túy, tức
là người thứ ba đứng ra cam kết với người có quyền về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ
cho người được bảo lãnh nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà người được bảo lãnh
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện, mà không chỉ ra một tài sản cụ
thể nào nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ của mình. Điểm tiến bộ hơn so với BLDS hiện
hành là ở chỗ BLDS 2005 cho phép các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp
bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh. Quy định như vậy không
làm mất đi bản chất của bảo lãnh – một biện pháp bảo đảm đối nhân do biện pháp
bảo đảm bằng tài sản được dùng ở đây là để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh chứ
không phải là nghĩa vụ được bảo lãnh. Theo đó, biện pháp bảo đảm bằng tài sản có
thể được các bên thỏa thuận để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của
người bảo lãnh. Như vậy, người nhận bảo lãnh ngoài việc có quyền xử lý tài sản

bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh còn có quyền yêu cầu người bảo lãnh thực


hiện nghĩa vụ bằng toàn bộ khối tài sản mà người bảo lãnh có.
Thứ ba, BLDS 2015 ghi nhận quy định mới tại Khoản 4 Điều 336: “Trường hợp
nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh
không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân

3.

bảo lãnh chấm dứt tồn tại”.
Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
So sánh hai quy định tại Khoản 1 Điều 368 BLDS 2005 và Khoản 1 Điều 341
BLDS 2015, ta có thể thấy rẳng trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn việc
thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì việc bên được bảo lãnh có phải thực hiện
nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh hay không được quy định rất khác nhau. Theo
quy định tại BLDS 2005 thì trong trường hợp này “bên được bảo lãnh vẫn phải
thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc
8


pháp luật quy định phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh” , còn theo quy định
tại BLDS 2015 thì “bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên
nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác”.
Theo quan điểm cá nhân thì BLDS 2015 quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý, phù
hợp với thực tiễn giao kết hợp đồng bảo lãnh cũng như thể hiện sự tôn trọng quyền
quyết định của bên nhận bảo lãnh. Nói như vậy là bởi khi người nhận bảo lãnh đã
quyết định việc miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh tức là bản thân người đó
không còn cần đến sự thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh cũng như người được
bảo lãnh nữa. Nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật quy định thì

theo BLDS 2005 bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận
bảo lãnh. Quy định như vậy là thiếu hợp lý, thiếu logic. Các bên trong hợp đồng
bảo lãnh không nắm rõ được quy định của pháp luật có thể sẽ dẫn đến sự thiệt thòi
cho người được bảo lãnh. Còn theo quy định tại BLDS 2015 thì điểm này đã được
khắc phục, cụ thể là trong trường hợp này bên được bảo lãnh sẽ không phải thực
hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định khác. Ví dụ: Anh Hải và anh Minh là hai người bạn thân thiết của
nhau. Vì nhà cửa đã quá xuống cấp nên anh Hải rất cần tiền để sửa nhà gấp. Biết
vậy nên anh Minh đã giới thiệu anh Hải vay tiền của anh Tâm là anh ruột của anh
Minh. ngày 20/11/2015, anh Hải vay của anh Tâm 100 triệu để sửa nhà và cam kết
sẽ trả trong thời hạn một năm. Anh Minh là bạn thân thiết với anh Hải đứng ra ký
hợp đồng bảo lãnh với anh Tâm để anh Hải vay tiền của anh Tâm. Tuy nhiên, hết
thời hạn một năm mà anh Hải vẫn chưa trả được số tiền trên do làm ăn thua lỗ, nợ
nần chồng chất. Cùng lúc đó, Minh cũng đang bận phải lo tiền để chữa chạy bệnh
cho vợ mình nên không thể trả tiền cho anh Tâm ngay được. Minh- bên bảo lãnhliền kể sự tình với anh ruột của mình là anh Tâm – bên nhận bảo lãnh. Thấy vậy,
Tâm thương em và bạn của em mình nên đã miễn việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền
cho Minh và viết giấy các bên cùng ký vào. Nếu như theo BLDS 2005 thì trường
9


hợp này Hải vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho Tâm mặc dù thực tế Tâm
không còn muốn bất cứ người nào thực hiện nghĩa vụ cho mình nữa. Còn theo
BLDS 2015 thì trong trường hợp này cả Hải và Minh đều không phải thực hiện
nghĩa vụ trả tiền cho Tâm nữa. Rõ ràng quy định như BLDS 2015 là hợp lý hơn và
4.

phù hợp với thực tiễn giao kết hợp đồng bảo lãnh hơn
Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh (Điều 342 Bộ luật Dân sự 2015)
Về vấn đề này, BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp đã đến hạn thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của
mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”.
Khác với quy định tại BLDS 2005, BLDS 2015 tại Điều 342 ghi nhận :
“2. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên
nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm
và bồi thường thiệt hại.”
Quy định này của BLDS 2015 đã thể hiện rõ quan điểm bảo lãnh là biện pháp
bảo đảm đối nhân, không phải là biện pháp bảo đảm đối vật – đảm bảo bằng bằng
tài sản cụ thể. Mặc dù BLDS 2005 đã thừa rằng bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm
đối nhân ( khác biệt so với BLDS 1995), tuy nhiên với quy định như trên tại bộ
luật này dễ dẫn đến sự hiểu nhầm rằng bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm đối vật
khi buộc người bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu tài sản của mình để thanh
toán cho bên nhận bảo lãnh trong trường hợp người bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh. Đến quy định tại Bộ luật Dân sự 2015,
nội dung này đã được sửa đổi và thể hiện một cách rõ ràng hơn bản chất của biện
pháp bảo lãnh là bảo đảm đối nhân. Theo đó, trường hợp bên bảo lãnh không thực
hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thay vì phải “đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để
thanh toán cho bên nhận bảo lãnh” như theo quy định tại BLDS 2005 thì theo
BLDS 2015, nghĩa vụ này của bên bảo lãnh đã được chuyển thành quyền yêu cầu
10


của bên nhận bảo lãnh: “quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi
phạm và bồi thường thiệt hại”. Có thể nói đây là một bước tiến của BLDS 2015 vì
quy định như vậy là rất phù hợp, thể hiện được rõ bản chất của bảo lãnh – một biện
pháp bảo đảm đối nhân.

KẾT LUẬN
Chế định bảo lãnh được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 được sửa đổi và bổ
sung theo hướng tích cực nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia

quan hệ bảo lãnh cũng như tôn trọng quyền tự do quyết định của các bên trong
quan hệ bảo lãnh. Tuy nhiên, những hạn chế nhất định vẫn cần phải được đề cập
đến để khắc phục và hoàn thiện hơn nữa quy định về bảo lãnh trong pháp luật dân
sự Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động ngân hàng”,Nguyễn Thị
Thảo, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2006.
2. “Bảo lãnh trong pháp luật dân sự Việt Nam”, Phạm Văn Lợi, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
3. “Hoàn thiện các quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”, Hồ
Quang Huy.
4. />11


5. “Bình luận chế định giao dịch bảo đảm trong Bộ luật Dân sự 2005”,
Ls.Trương Thanh Đức – Phó Tổng giám đốc Maritime Bank.
6. />7. Chế định bảo lãnh của Việt Nam nhìn từ góc độ của Luật so sánh, THS. BÙI
ĐỨC GIANG, Công ty Luật Audier and Partners Vietnam LLC (A&P) & NCS
khoa Luật, Đại học Paris 2 Panthéon Assas, Pháp.
8. />Detail.aspx?ItemID=588&TabIndex=2&TaiLieuID=1618
9. />
12



×