NHẶN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
—soGQlGa—
LUẬN VĂN TÓT NGHIỆP cử NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2008-2012
ĐÈ TÀI :
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIÊT
NAM VÀ CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VÈ HỢP ĐONG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TÉ
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Quốc Việt
MSSV: 5086015
Lớp : Luât Thương Mại 2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẰU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VÈ HỢP ĐÒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TÉ............................................................................................................................4
1.1.
Khái niệm hạp đồng, họp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua
bán hàng
hóa quốc tế .........................................................................................................................4
1.1.1. Khái niệm họp đồng............................................................................................4
1.1.2. Khái niệm họp đồng mua bán hàng hóa...........................................................4
1.1.3. Khái quát họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .............................................. 6
1.1.3.1. Khái niệm họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam
........................................................................................................................................6
1.1.3.2. Khái niệm họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế qua các văn bản pháp luật
quốc tế ...................................................................................................................9
1.2.................................................................................................................................Ng
uyên tắc giao kết họp đồng và hình thức giao kết họp đồng............................ 10
1.2.1. Nguyên tắc giao kết họp đồng .........................................................................10
1.2.2. Hình thức giao kết họp đồng ........................................................................... 11
1.3.
Đặc điểm họp đồng mua bán hàng hóa trong nước và họp đồng mua
bán hàng
hóa quốc tế .......................................................................................................................12
1.3.1.............................................................................................................................. Đ
ặc điểm họp đồng mua bán hàng hóa trong nước ....................................................... 12
1.3.2.............................................................................................................................. Đ
ặc điểm họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.............................................................. 13
1.4.................................................................................................................................Ng
uồn luật điều chỉnh họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế................................15
1.4.1. Pháp luật quốc gia.............................................................................................16
1.4.2. Điều ước quốc tế .............................................................................................. 17
2.2.2.2. Châp nhận giao kêt ................................................................................. 32
2.3..........................................................................................................................Hì
nh thức hợp đồng...........................................................................................34
2.3.1............................................................................................................................. Hì
nh thức hợp đồng theo luật Việt Nam .........................................................................34
2.3.2............................................................................................................................. Hì
nh thức họp đồng theo CISG ...................................................................................... 35
2.4..........................................................................................................................Qu
yền và nghĩa yụ các bên................................................................................ 36
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ các bên theo luật Việt Nam ............................................. 36
2.4.1.1. Nghĩa vụ cơ bản của bên bán ..................................................................36
2.4.1.2. Nghĩa vụ cơ bản bên mua ....................................................................... 43
2.4.2. Quyền và nghĩa vụ các bên theo CISG ...........................................................45
2.4.2.1. Nghĩa vụ của người bán...........................................................................45
2.4.2.2. Nghĩa vụ của người mua..........................................................................48
2.5..........................................................................................................................Tr
ách nhiệm do vi phạm................................................................................... 49
2.5.1. Trách nhiệm do vi phạm theo luật Việt Nam ................................................. 50
2.5.1.1. Căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm họp đồng mua bán hàng hóa .. 50
2.5.1.2 Các hình thức trách nhiệm do vi phạm họp đồng mua bán hàng hóa 52
2.5.1.3. Miễn trách nhiệm do vi phạm họp đồng..................................................56
2.5.2. Trách nhiệm do vi phạm theo CISG ...............................................................57
2.5.2.1. Chế tài hủy họp đồng...............................................................................57
2.5.2.2. Buộc thực hiện đúng họp đồng ...............................................................58
2.5.2.3. Chế tài bồi thường thiệt hại..................................................................... 59
2.5.2.4. Các trường họp miễn trách ..................................................................... 59
CHƯƠNG 3 NHỮNG ĐÈ XUẤT TỪ VIỆC so SÁNH LUẬT VIỆT NAM VÀ
CISG VÀ VẤN ĐÈ GIA NHẬP CISG...........................................................................61
3.1................................................................................................................................Nh
ững đề xuất sửa đổi, bổ sung luật Việt Nam .................................................... 61
3.1.1. Bổ sung khái niệm họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và hoàn thiện hình
thức họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế vào luật Việt Nam.............................61
3.1.1.1. Bổ sung khái niệm họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế........................ 61
3.1.1.2. Hoàn thiện hình thức họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.....................63
3.1.2. Hoàn thiện các vấn đề về giao kết họp đồng................................................... 64
3.1.2.1. Đề nghị giao kết ......................................................................................64
3.1.2.2. Chấp nhận giao kết.................................................................................. 66
3.1.3. Hoàn thiện quy định về thời hạn khiếu nại, thời hạn trả lời chấp nhận giao kết
trong họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .........................................................69
3.2.1. Lợi ích của Việt Nam khi gia nhập CISG .......................................................74
3.2.1.1. Đối với hệ thống pháp luật...................................................................... 74
3.2.1.2...................................................................................................................... Đ
ối với doanh nghiệp ................................................................................................76
3.2.2. Những điểm bất cập của CISG mà Việt Nam cần lưu ý .................................77
KẾT LUẬN .....................................................................................................................79
LỜI NÓI ĐẰU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Lịch sử phát triển của nhân loại đã trải qua nhiều bước thăng trầm khác nhau và
đặc biệt là trước những biến động to lớn của thế giới. Cuộc cách mạng khoa học công
nghệ ngày nay đang phát triển nhanh chóng với trình độ ngày càng cao đã thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những cơ hội phát triển trong đó, những ưu thế về
vốn, công nghệ thị trường thuộc về các nước phát triển buộc các nước chậm phát triển
và đang phát triển phải đối đầu với những thách thức to lớn. Trong quan hệ quốc tế, xu
hướng hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng ưở thành những đòi hỏi bức
xúc của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Các nước đều dành ưu tiên cho phát triển
kinh tế, coi tăng trưởng kinh tế, có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh
tổng họp của quốc gia đồng thời tham gia vào quá trình họp tác, liên kết khu vực và thế
giới trong mọi lĩnh vực.
Tự do hóa thương mại là xu thế tất yếu và ngày càng có tác động lớn đến hoạt
động của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực ký kết, thực hiện họp
đồng thương mại quốc tế nói chung và họp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. Các
doanh nghiệp Việt Nam có được sự chủ động ừong việc ký kết và thực hiện các loại
họp đồng thương mại quốc tế hay không còn phụ thuộc vào sự hiểu biết, nắm bắt các
quy định của pháp luật thương mại quốc tế cũng như các tập quán thương mại quốc tế
của từng doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy, sự hiểu biết luật pháp quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế.
Để hòa chung với nhịp độ phát triển của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã và
đang thực hiện các chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mở rông quan hệ với các nước
trong khu vực cũng như trên thế giới ở nhiều lĩnh vực. Hơn nữa, trước yêu cầu đổi mới
phát triển kinh tế từ cơ chế tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
(CISG) quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được cộng đồng quốc tế đánh
giá cao về tính ổn định và được nhiều quốc gia áp dụng, kể cả quốc gia không là thành
viên của công ước trong đó có Việt Nam áp dụng. Công ước Viên 1980 sẽ được người
viết giới thiệu ở phàn sau. Hiện nay Việt Nam chưa là thành viên của Công ước trong
khi giao dịch thương mại quốc tế đang ngày càng trở thành một phàn hết sức quang
họng trong nền kinh tế nước ta.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn có những quy định về hoạt
động mua bán hàng hóa được áp dụng chủ yếu trong nước. Người viết xét thấy giữa luật
Việt Nam và Công ước viên có những điển tương đồng và những điểm cần bổ sung cho
nhau về hoạt động mua bán hàng hóa nên người viết chọn đề tài “So sánh về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế trong Công ước Viên và luật Việt Nam” với mục đích hoàn
thiện luật Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam chưa là thành viên công ước.
Qua đề tài, người viết mong muốn pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa của
Việt Nam trở nên hoàn thiện hơn nhằm giảm bớt khó khăn cho các chủ thể Việt Nam
khi tham gia vào thương mại quốc tế. Tuy vậy, theo nhiều quan điểm của các chuyên
gia Việt Nam cần khẩn trương gia nhập công ước vì: gia nhập sẽ giúp hoàn thiện pháp
luật về mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng và pháp luật mua bán hàng hóa nói chung
của Việt Nam, giúp thống nhất pháp luật mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam với
nhiều quốc gia ừên thế giới và tạo điều kiện để việc giải quyết tranh chấp nếu có từ hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế thuận lợi hơn.
2. Phạm vi nghiên cứu
Khi nghiên cứu về đề tài này, mục đích của tác giả là muốn hiểu sâu hơn về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế từ pháp luật Việt Nam và CISG. Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế có đặc điểm như thế nào; luật Việt Nam và CISG quy định ra sao về
đề xuất hoàn thiện luật Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế lẫn trong nước. Ngoài
ra, người viết còn nêu những nhận định của mình trong việc gia nhập Công ước Viên
1980 của Việt Nam.
4. Bố cục đề tài
Người viết chia đề tài làm ba chưomg.
Chương 1: Khái quát chung về họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
CHƯƠNG1
1.1.
Khái niệm hạrp đồng, hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua
bán
hàng
hóa quốc tế
1.1.1. Khái niệm họp đồng
Có nhiều định nghĩa cho từ họp đồng. Nói chung họp đồng là một giao ước bị
ràng buộc pháp lý và có thể thi hành pháp lý hay một loại giao ước giữa hai hay nhiều
bên có thẩm quyền. Nói cách khác, họp đồng là “ một giao ước hay một loạt giao ước
mà sự vi phạm các giao ước đó, luật pháp sẽ điều chỉnh hay công nhận việc thực hiện
các giao ước đó”. Trong một vài phương thức nào đó, luật pháp công nhận như là
một trách nhiệm,
về
thực chất, một họp đồng là bất kỳ thỏa thuận nào giữa hai hay
nhiều bên mà tòa án sẽ công nghận là một thỏa thuận tạo lập những trách nhiệm và
nghĩa vụ bị ràng buộc pháp lý giữa các bên
Theo đó khái niệm họp đồng theo nghĩa chung nhất là “sự thỏa thuận giữa hai
hay nhiều bên về một vẩn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đối hay
chẩm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên đó”. Hiện nay pháp luật Việt Nam quy
định ba loại họp đồng cơ bản là họp đồng dân sự, kinh tế, lao động.
Ví dụ: A và B giao kết họp đồng mua bán ô tô. Trong đó A là bên bán và B là
bên mua. Trong họp đồng A có nghĩa vụ giao hàng tại nơi A cư trú, nếu có thay đổi nơi
giao hàng A phải thông báo cho B trước ngày giao hàng 10 ngày, A có quyền nhận đầy
đủ số tiền đã thỏa thuận trong họp đồng. B có quyền nhận ô tô theo đúng tiêu chuẩn đã
thỏa thuận, B có nghĩa vụ trả số tiền đã thỏa thuận trong họp đồng.
1.1.2. Khái niệm về họp đồng mua bán hàng hóa
Điều 428 BLDS 2005
2
Điều 3 khoản 8 luật thương mại 2005
Dựa vào chủ thể, mục đích của chủ thể thực hiện hành vi mua bán và đối tượng
giao dịch mua bán có thể phân chia thành giao dịch mua bán tài sản có tính chất dân sự
và mua bán tài sản trong thưomg mại (mua bán hàng hóa). Mua bán tài sản mang tính
dân sự thông thường mục đích các chủ thể hướng đến không mang tính lợi nhuận. Mua
bán tài sản trong thương mại mục đích các chủ thế hướng đến là nhằm sinh lợi và các
bên chủ thể đều là thương nhân. Mua bán hàng hóa là nội dung trọng tâm của hoạt động
thương mại. Chính vì thế ban đầu khái niệm về hoạt động thương mại hầu như chỉ được
biết đến như là hoạt động mua bán hàng hóa.
Theo luật thương mại 2005, mua bán hàng hóa được định nghĩa là: “hoạt động
thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho
bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng
và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận ”2.
Hoạt động mua bán hàng hóa và các dịch vụ gắn kiền với mua bán hàng hóa
được gọi là thương mại hàng hóa. Với đối tượng là hàng hóa, các giao dịch thương mại
hàng hóa được pháp luật điều chỉnh có những nội dung khác biệt nhất định với các giao
dịch thương mại khác.
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp
lý là họp đồng mua bán hàng hóa. Họp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của
họp đồng là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ mua bán. Luật thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về họp đồng
mua bán hàng hóa song có thể xác định bản chất pháp lý của họp đồng mua bán hàng
hóa trong thương mại trên cơ sở quy định Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) về họp
đồng mua bán tài sản. Từ đó cho thấy họp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là
một dạng cụ thể của họp đồng mua bán tài sản. Một họp đồng mua bán hàng hóa có thể
là thỏa thận về việc mua bán hàng hóa ở hiện tại hoặc mua bán hàng hóa sẽ có ở một
Ví dụ 2: Nhà máy A ký kết hợp đồng mua máy xay lúa với công ty B nhằm tăng
năng suất sản suất của nhà máy. Dựa vào chủ thể và mục đích của chủ thể, đây là hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa được chia làm hai loại là hợp đồng mua bán hàng
hóa trong nước và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
1.1.3. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
I.I.3.I. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp
luật Việt Nam
Xem xét các quy định của pháp luật Việt Nam từ trước đến nay, cũng như các
điều ước quốc tế có liên quan thì họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều được xác
định (dù trực tiếp hay gián tiếp) là một họp đồng mang tính chất thương mại. Vì thế, sẽ
phù họp và thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu và kiến giải để hoàn thiện pháp luật nếu
chúng ta tiếp cận họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dưới góc độ là họp đồng mua bán
hàng hóa bong lĩnh vực thương mại (vì mục đích lợi nhuận) có yếu tố nước ngoài, có
nghĩa chỉ là một nhóm họp đồng trong tổng thể các họp đồng mua bán có yếu tố nước
ngoài. Với quan điểm này thì họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không bao hàm các
họp đồng mua bán hàng hóa trong lĩnh vực dân sự truyền thống (vì mục đích sinh hoạt
tiêu dùng hàng ngày) có yếu tố nước ngoài.
Họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là họp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố
3
PGS.Ts.
Nguyễn
Văn
Luyện,
Ts.
Dương
Văn
Sơn,
Ts.
Lê
Thị
Bích
Thọ,
Giáo
trình
luật
hợp
đồng
quốc tế, Nxb Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2005
bán hàng hóa quốc tế, hay nói cách khác là phải có cách xác định tương đối thống nhất
tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế.3
Luật thương mại 2005 không định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
song có thể dựa vào quy định của BLDS 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
để nhận biết họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 758 BLDS 2005: một quan hệ
dân sự (bao gồm quan hệ thương mại) có sự hiện diện của một trong ba dấu hiệu sau
đây thì được xem là quan hệ dân sự (bao gồm quan hệ thương mại) có yếu tố nước
ngoài:
- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài,
phát sinh tại nước ngoài.
- Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
thương
mại
- Xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật” (Điều 28 Khoản 1).
- Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước
ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thố Việt Nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật” (Điều 28 Khoản 2).
- Tạm nhập, tái xuất hàng hoá là việc hàng hoá được đưa từ lãnh thổ nước ngoài
hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và
làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam” (Điều 29 Khoản 1).
- Tạm xuất, tái nhập hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa
vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm
thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam” (Điều 29 Khoản 2).
- Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán
sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu
vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam” (Điều 30 Khoản 1).
Chuyển Khẩu hàng hóa được thực hiện qua các hình thức:
Người viết nhận thấy, pháp luật Việt Nam nhận biết họp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng yếu tố nước ngoài của họp đồng mà chưa có khái niệm về họp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.
I.I.3.2. Khái niệm họp đồng mua bán hàng hóa qua các văn bản pháp
luật quốc tế
Theo Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình:
tính chất quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có trụ sở thương mại ở các
nước khác nhau và hàng hoá, đối tượng của họp đồng, được chuyển qua biên giới một
nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những nước
khác nhau (Điều 1 của Công ước). Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì
sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Yeu tố quốc tịch của các bên không có ý
nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của họp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Họp đồng Mua bán Quốc
tế Hàng hoá (United Nations Convention on Contracts for International Sales of Goods,
Vienna 1980 - CISG, gọi tắt là Công ước Viên năm 1980): tính chất quốc tế được xác
định chỉ bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là các bên giao kết họp đồng có trụ sở thương
mại đặt ở các nước khác nhau (điều 1 Công ước Viên năm 1980). Và, giống như Công
ước Lahaye năm 1964, Công ước này cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của
các bên khi xác định tính chất quốc tế của họp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Khác
với Công ước Lahaye năm 1964, Công ước Viên năm 1980 không đưa ra tiêu chí hàng
hoá phải được chuyển qua biên giới của một nước để xác định tính chất quốc tế của họp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
4
- Hợp đồng thương mại quốc tế - những nội dung
-
Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội:
Bộ luật Dân sự quy định cho các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo
điều kiện cho các chủ thể có thể thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Dựa trên
nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều có thể
tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch/ hợp đồng dân sự nào, nếu muốn. Tuy nhiên, hợp
đồng chỉ có hiệu lực pháp luạt, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các
bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của nhà nước. Hay nói cách khác, sự tư do ý
chí giao kết hợp đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định giới hạn lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Neu
để các bên tự do vô hạn, thì hợp đồng dân sự sẽ trở thành phương tiện để kể giàu bóc lột
người nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, phải đi xa hơn
nữa trong vấn đề tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ pháp luật tư,
các việc dân sự... không được bỏ qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can
thiệp của nhà nước vào các quan hệ dân luật. Chính vì vậy, trong xã hội ta - xã hội xã
hội chủ nghĩa, lợi ích chung của toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội
không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức nào được lợi dụng ý chí tự do để biến những
hợp đồng dân sự thành phương tiện bóc lột. Bên cạnh việc bảo đảm lợi ích của mình,
các chủ thể phải chú ý tới quyền, lợi ích của người khác, của toàn xã hội; tự do của mỗi
chủ thể không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng, của toàn xã
hội được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí
của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng nói riêng, và trong mọi hành vi của chủ
thể nói chung.
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chỉ, hợp tác, trung thực và ngay thẳng:
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng
không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình; đồng thời thể hiện
bản chất của quan hệ pháp luật dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi tham
Như chứng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên
trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất ý chí của
chủ thể giao kết hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong nội dung hợp đồng mà chủ thể
này đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để xác định một hợp đồng đã đảm bảo nguyên
tắc tự nguyện hay chưa. Hay nói cách khác, việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự
nguyện khi hình thức của hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong
muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
Do đó, theo quy định của pháp luật thì tất cả những hợp đồng được giao kết do bị
nhầm lẫn, lừa dối hay bị đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao
kết và do đó bị vô hiệu.
Luật thương mại 2005 không quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng trong
thương mại. Nhưng pháp luật Việt Nam có đề ra nguyên tắc khi luật chuyên ngành (luật
thương mại 2005) không quy định thì áp dụng theo luật chung (BLDS 2005). Như vậy,
nguyên tắc giao kết hợp đồng trong thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng
hóa nói riêng cũng phải tuân thủ theo điều 389 BLDS 2005.
1.2.2. Hình thức giao kết hợp đồng
Hình thức giao kết hợp đồng là yếu tố luôn được các bên chủ thể tham gia vào
quan hệ mua bán quan tâm Vì khi hình thức giao kết được xác định cụ thể sẽ hỗ trợ về
mặt căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh trở nên hiệu quả hơn. Thông
thường, các bên nhận thức hình thức hợp đồng ở hai dạng đó là giao kết trực tiếp và
giao kết gián tiếp.
doanh nghiệp cần quan tâm, truy cập ngày 16/3/2012
5
Điều
3
khoản
6
nghị
định
138/2006/NĐ-CP
quy
định
chi
tiết
thi
hành
các
quy
định
của
BLDS
về
có yếu tố nước ngoài
gặp mặt hoặc trao đổi trực tiếp với nhau với trường hợp giao kết họp đồng giữa những
người không gặp mặt hoặc không trao đối trực tiếp với nhau.
Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn quy định về giao kết họp đồng dân sự vắng
mặt. Theo đó, “giao kết họp đồng dân sự vắng mặt là việc giao kết họp đồng dân sự
thông qua phưomg tiện điện tử hoặc các phưomg tiện khác mà các bên giao kết họp đồng
không có mặt tại cùng một địa điểm để ký kết họp đồng”5.
Như vậy, với những căn cứ trên tác giả có thể kết luận pháp luật Việt Nam có hai
hình thức giao kết họp đồng đó là giao kết trực tiếp và giao kết gián tiếp thông qua đề
nghị giao kết họp đồng và chấp nhận đề nghị.
- Đối với CISG, người viết dựa vào chào hàng và chấp nhận chào hàng để xác
định giao kết trực tiếp và giao kết gián tiếp
Trong quá trình tìm hiểu CISG, người viết không tìm thấy quy định về thời điểm
có hiệu lực của giao kết bằng văn bản hoặc bằng lời nói như BLDS 2005. Theo khoản 2
điều 18 CISG. “chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được
chấp nhận. Chấp nhận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy không
được gửi tới người chào hàng trong thời gian mà người này đã quy định trong chào
hàng, hoặc nếu thời gian đó không được quy định như vậy, thì trong một thời gian họp
quan
hệ
dân
sự
6
Điều 6 khoản 1 luật thương mại
- về chủ thể: hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể là
thương nhân. Theo quy định luật thương mại 2005, thương nhân gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh6.
- về đổi tượng: hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Hiểu theo
nghĩa thông thường hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm
mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người. Theo luật thương mại 2005, hàng hóa gồm
“tất cả các loại động sản kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn
liền với đất”7.
- về hình thức: hợp đồng, theo luật thương mại hợp đồng có thế lập thành văn
bản, bằng lời nói hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể, đối với các loại hợp đồng mua
bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định
đó. (điều 24 luật thương mại 2005)
1.3.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng có những đặc điểm tương tự với hợp
đồng mua bán hàng hóa trong nước nhưng vẫn có điểm khác biệt:
- Chủ thể: chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên, người
bán và người mua, có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau. Ví dụ, thương
7
Điều 3 khoản 2 luật thương mại
đồng USD như hợp đồng mua bán ô tô nhưng đó không phải là đặc điểm cơ bản của
hợp đồng trong nước về tiền tệ như hợp đồng quốc tế. Một điểm cũng khá quan
trọng của hợp đồng về tiền tệ là các bên thường sử dụng tỷ giá “cố định” (tỷ giá chết)
có nghĩa là sử dụng tỷ giá quy đổi tại thời điểm giao kết hợp đồng như 1 USD= 16
VNĐ. Việc sử dụng tỷ giá quy đổi “chết” sẽ thuận lợi cho các bên vì tại thời điểm ký
kết các bên đã xác định được lợi nhuận của mình đạt được. Khác với trường hợp các
bên sử dụng tỷ giá quy đổi dạng mở, như đồng USD quy đổi theo tỷ giá tại thời
điểm thanh toán hợp đồng. Tỷ giá mở có thể gây nguy cơ thiệt hại cho một trong
các bên khi tỷ giá thay đổi như lên hoặc xuống. Tỷ giá lên thì người bán được lợi,
người mua thiệt hại ngược lại tỷ giá giảm người mua được lợi.
về
phương thức thanh
toán cũng thế, khi ký hợp đồng các bên nên đưa vào hợp đồng điều kiện thanh toán
chẳng hạn sử dụng phương thức thanh toán L/C.Thanh toán quốc tế trong lĩnh vực
ngoại thương ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu bằng phương thức thanh toán L/C
thương mại. Áp dụng phương thức thanh toán bằng L/C sẽ thuận lợi vì ICC đã ban
hành một bộ tập quán quốc tế điều chỉnh về L/C và bộ tập quán này được 174 nước
thành viên của ICC tuyên bố áp dụng, trong đó có Việt Nam.
- về thủ tục hải quan: một trong những đặc điểm của hợp đồng mua bán là hàng
hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng được chuyên chở qua biên giới hai hay nhiều
quốc gia. Đe xuất hoặc nhập hàng hoá, dịch vụ cần thiết phải thực hiện một số thủ tục
hải quan do luật của mỗi quốc gia quy định. Vì vậy trong nội dung của hợp đồng,
nhiều trường hợp phải có điều kiện phân chia trách nhiệm của các bên trong việc
thực hiện các thủ tục nói trên, cũng như thủ tục quá cảnh qua một nước thứ ba. Thuế
quan cũng là một phần ảnh hưởng đến lợi ích của các bên. Thuế quan là do mỗi quốc
gia ấn định tùy vào từng loại hàng hóa cụ thể mà mức thuế khác nhau. Nhưng đối với
các quốc gia có ký kết các Hiệp định đa phương, Hiệp định song phương về thuế
quan thì sẽ được hưởng sự ưu đãi. Như Việt Nam ký kết với Nhật ưu đãi thuế về
các mặt hàng nông sản thì khi hàng hóa của Nhật hay của Việt Nam được nhập hay
xuất đến mỗi quốc gia khi 2 bên ký kết hợp đồng sẽ chịu thuế suất 0%. Điều này rất
có lợi cho những doanh nghiệp của những quốc gia đó.
của luật pháp nước đó mà cả của luật nước ngoài (luật nước người bán, luật nước người
mua hoặc luật của bất kỳ một nước thứ ba nào), thậm chí phải chịu sự điều chỉnh của
điều ước quốc tế, tập quán thưomg mại quốc tế hoặc cả án lệ (tiền lệ pháp) để điều chỉnh
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- về cơ quan giải quyết tranh chấp: tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực
hiện họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể là toà án hoặc trọng tài nước ngoài. Và
một lần nữa, vấn đề ngoại ngữ lại được đặt ra nếu muốn chủ động tranh tụng tại tòa án
hoặc trọng tài nước ngoài.
Họp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, dù được giao kết hoàn chỉnh, chi tiết đến
đâu, bản thân nó cũng không thể dự kiến, chứa đựng tất cả những vấn đề, những tình
huống có thể phát sinh trong thực tế. Do đó, cần phải bổ sung cho họp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách lựa chọn luật áp dụng cho họp
đồng đó. Vì họp đồng mua bán có tính chất quốc tế nên luật điều chỉnh họp đồng này
cũng có thể là luật người bán, cũng có khi là luật nước người mua... Neu luật áp dụng
là luật nước người mua thì luật này là luật nước ngoài đối với người bán. Người bán
phải có sự hiểu biết về nó, trong đó ít ra người bán phải hiểu rõ được luật này có bảo vệ
quyền lợi cho người bán hay không. Và ngược lại, đối với người mua cũng vậy. Như
vậy, không chỉ người bán và người mua cần có sự hiểu biết để lựa chọn, để tuân thủ luật
áp dụng mà ngay cả cơ quan giải quyết tranh chấp (tòa án hoặc trọng tài) cũng phải
nghiên cứu vấn đề luật áp dụng cho họp đồng đó thì mới có thể làm tốt được chức năng,
nhiệm vụ của mình.
1.4.
Nguồn luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
Các giao dịch mua bán hàng hóa thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa là hệ thống các quy phạm do nhà
- Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp chọn luật áp dụng (khi các bên
không đạt được thỏa thuận về luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng).
Trong trường hợp có hai hay nhiều hệ pháp luật khác nhau cùng có thể được áp
dụng để điều chỉnh mối quan hệ họp đồng mua bán hàng hóa, xung đột pháp luật sẽ nảy
sinh và đòi hỏi phải được giải quyết. Thực chất của việc giải quyết xung đột pháp luật
về họp đông mua bán hàng hóa là lựa chọn một hệ thống pháp luật để áp dụng cho quan
hệ họp đồng mua bán. Khi được chọn áp dụng, luật quốc gia được hiểu là toàn bộ hệ
thống pháp luật. Neu luật của Việt Nam được chọn áp dụng thì toàn bộ các quy định có
liên quan đến họp đồng mua bán hàng hóa sẽ được áp dụng.
Các bên trong họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể lựa chọn áp dụng pháp
luật nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam (khoản 2 điều 5 luật thương mại).
Pháp luật Việt Nam điều chỉnh về họp đồng mua bán quốc tế chủ yếu được quy
định trong BLDS 2005 và luật thương mại 2005, ngoài ra còn được điều chỉnh bởi luật
hàng hải, luật hàng không dân dụng... Trong giới hạn đề tài, người viết chỉ nghiên cứu
chủ yếu ở BLDS 2005 và luật thương mại 2005.
Nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, BLDS 2005 và luật thương mại
2005 ra đời thay thế BLDS 1995 và luật thương mại 1997. BLDS 2005 có hiệu lực ngày
01/01/2006, quy định những vấn đề pháp luật mang tính chất chung về họp đồng. Luật
thương mại 2005 có hiệu lực ngày 01/01/2006 quy định những vấn đề mang tính chuyên
8
Khoản 1 điều 5 luật thương mại 2005
xã hội Việt Nam thời kỳ đó. Cho đến nay, Việt Nam vẫn theo hệ thông pháp luật dân sự.
Với chính sách kinh tế thị trường bắt đầu từ năm 1987, việc tích lũy và cải cách tư nhân
được khuyến khích và như một hệ quả tất yếu, lưu thông dân sự phát triển nhanh. Nhằm
kịp thời điều chỉnh các quan hệ tài sản càng lúc càng trở nên phong phú và đa dạng, nhà
nước đã xây dựng hàng loạt quy phạm pháp luật dân sự. Những kinh nghiệm từ việc áp
dụng các văn bản ấy đã được đúc kết nghiên cứu nhằm đặt cơ sở cho việc xây dựng
BLDS Việt Nam hoàn thiện hom. BLDS Việt Nam 2005 tuy còn nhiều bất cập nhưng đã
thể hiện rõ hơn nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ
thế trong quan hệ dân sự, giảm bớt sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào các quan
hệ dân sự.
Tuy vậy, chất lượng của luật Việt Nam có một số quy định còn chưa được thống
nhất với các văn bản pháp luật liên quan; mặc dù mối quan hệ với các luật khác đã được
xác định nhưng chưa thật rõ ràng; tính nhất quán chưa cao; không được áp dụng trực
tiếp mà phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành như việc áp dụng khái niệm “vi phạm cơ
bản” gặp nhiều khó khăn vì không có hướng dẫn, giải thích cụ thể.
1.4.2 . Điều ước quốc tế
Trong lĩnh vực thương mại và mua bán hàng hóa nói riêng, có rất nhiều điều ước
quốc tế song phương và đa phương đã được thiết lập mà Việt Nam đã hoặc trong tương
lai gần sẽ là thành viên.
Điều ước quốc tế được áp dụng đối với các họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
trong trường họp:
Trên thực tế, nỗ lực thống nhất nguồn luật áp dụng cho họp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế đã được khởi xướng từ những năm 30 của thế kỷ 20 bởi Unidroit (Viện
nghiên cứu quốc tế về thống nhất luật tư). Unidroit đã cho ra đời hai Công ước La Haye
năm 1964: một Công ước có tên là “Luật thống nhất về thiết lập họp đồng mua bán
quốc tế các động sản hữu hình”, Công ước thứ hai là về “Luật thống nhất cho mua bán
quốc tế các động sản hữu hình”. Công ước thứ nhất điều chỉnh việc hình thành họp
đồng (chào hàng, chấp nhận chào hàng). Công ước thứ hai đề cập đến quyền và nghĩa
vụ của người bán, người mua và các biện pháp được áp dụng khi mộưcác bên vi phạm
họp đồng.
Tuy vậy, hai Công ước La Haye năm 1964 trên thực tế rất ít được áp dụng. Theo
các chuyên gia có 4 lý do chính khiến các nước bài trừ ULIS và ULF và muốn phát triển
một công ước mới: Hội nghị La Haye chỉ có 28 nước tham dự với rất ít đại diện từ các
nước XHCN và các nước đang phát triển, vì thế người ta tin rằng các Công ước này
được soạn có lợi hơn cho người bán từ các nước tư bản; các Công ước này sử dụng các
khái niệm quá trừu tượng và phức tạp, rất dễ gây hiểu nhầm; các Công ước này thiên
hướng về thương mại giữa các quốc gia cùng chung biên giới hơn là thương mại quốc tế
liên quan đến vận tải biển; và (4) quy mô áp dụng của chúng quá rộng, vì chúng được
áp dụng bất kể có xung đột pháp luật hay không.
Năm 1968, trên cơ sở yêu cầu của đa số các thành viên Liên Họp Quốc về một
khuôn khổ mới với “sự mở rộng ra các nước có nền pháp lý, kinh tế chính trị khác
nhau”, UNCITRAL đã khởi xướng việc soạn thảo một Công ước thống nhất về pháp
luật nội dung áp dụng cho họp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm thay thế cho hai
Công ước La Haye năm 1964. Được soạn thảo dựa trên các điều khoản của hai Công
ước La Haye, song Công ước Viên 1980 có những điểm đổi mới và hoàn thiện cơ bản.
Công ước này được thông qua tại Viên (Áo) ngày 11 tháng 04 năm 1980 tại Hội nghị
của ủy ban của Liên họp quốc về Luật thương mại quốc tế với sự có mặt của đại diện
của khoảng 60 quốc gia và 8 tổ chức quốc tế. CISG có hiệu lực từ ngày 01/01/1988 (khi
việc này không chỉ phát sinh tại các quốc gia thành viên. Tại các quốc gia chưa phải là
thành viên, Công ước vẫn được áp dụng, hoặc do các bên trong họp đồng lựa chọn
Công ước Viên 1980 như là luật áp dụng cho họp đồng, hoặc do các tòa án, trọng tài
dẫn chiếu đến để giải quyết tranh chấp. Nhiều doanh nhân tại các quốc gia chưa phải là
thành viên CISG đã tự nguyện áp dụng CISG cho các giao dịch thưomg mại quốc tế của
mình, bởi vì họ thấy được những ưu việt của CISG so với luật quốc gia.
1.3.3. Tập quán thương mại
Tập quán thương mại là nguồn luật ngày càng phổ biến trong điều chỉnh các giao
dịch mua bán hàng hóa, đặc biệt là mua bán hàng hóa quốc tế. Theo luật thương mại
2005, tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương
mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các
bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
Tập quán thương mại thường được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng
hóa quốc tế khi các mối quan hệ này không được điều chỉnh bởi họp đồng giữa các bên
hoặc điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia. Ngoài ra, thói quen thương mại cũng là
nguồn quy phạm điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa. Theo luật thương mại 2005,
thói quen trong hoạt động thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình
thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc nhiên
thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
Hiện nay trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, một trong những tập quán
thương mại quốc tế được sử dụng phổ biến là các điều kiện thương mại quốc tế gọi tắt
2.1.
Hiệu lực hợp đồng
Một hợp đồng được ký kết, nếu không có hiệu lực thì hợp đồng đó chưa thể tạo
ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên, chưa ràng buộc các bên với nhau và pháp luật cũng
chưa tác động đến cách xử sự của các bên theo qui định của hợp đồng đó. Vì vậy,
trước khi giao kết hợp đồng, thậm chí ngay trong quá trình thực hiện hợp đồng, các
bên tham gia hợp đồng phải biết về hợp đồng và những qui định của pháp luật liên
quan đến tính hiệu lực của hợp đồng. Có thể nói, pháp luật về hiệu lực của hợp đồng
càng hoàn thiện thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể ngày càng
thuận lợi.
2.1.1. Hiệu lực họp đồng theo luật Việt Nam
Luật thưomg mại 2005 không quy định cụ thể các điều kiện để họp đồng mua bán
có hiệu lực. Vì vậy, khi xem xét hiệu lực của họp đồng mua bán hàng hóa, cần dựa vào
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định trong BLDS 2005. Theo BLDS
2005, họp đồng phải tuân thủ các điều kiện bắt buộc để họp đồng có hiệu lực: chủ thể
họp đồng phải có năng lực hành vi dân sự; đối tượng họp đồng không trái pháp luật;
mục đích họp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
các bên ký kết họp đồng hoàn toàn tự nguyện.
* Chủ thể:
Chủ thể của họp đồng là cá nhân hoặc pháp nhân tham gia xác lập, thực hiện họp
đồng có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ họp đồng và chịu trách nhiệm cho những gì đã
thỏa thuận.
9
Điều 13 luật doanh nghiệp 2005
về
tình trạng tư pháp, cá nhân không rơi vào trường hợp pháp luật quốc gia
không cho phép hoạt động kinh doanh thương mại. Đó là: người chưa thành niên; người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; người đang
chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh; người có tiền
án về các tội do lỗi cố ý hoặc người đã bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác
nhưng chưa đủ thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; người nghiện
ma túy; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản
Theo luật một số nước cá nhân hoạt động trong những ngành nghề nhất định
không được tham gia hoạt động thương mại. Theo quy định của luật Việt Nam cá nhân
đó gồm: “cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; sĩ quan,
hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam”.
Như vậy, người viết nhận định, đối với cá nhân muốn tham gia hoạt động thương
mại trong nước càn thỏa mãn các điều kiện về nhân thân và nghề nghiệp như đã nêu ở
trên. Từ đó cá nhân đó có tư cách chủ thể để tham gia hoạt động thương mại quốc tế
cũng như giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- Đối với pháp nhân:
Thuật ngữ pháp nhân (tổ chức) dùng để phân biệt với thể nhân (con người). Neu
một tổ chức có "tư cách pháp nhân" thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
pháp nhân mà luật dành cho pháp nhân. Một tổ chức có tư cách pháp nhân đáp ứng các
điều kiện của BLDS năm 2005: