Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Những vấn đề cần nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.11 KB, 14 trang )

Đề tài: Những vấn đề cần nắm vững ngọn cờ Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện
nay


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

3

I. NHẬN THỨC VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN SỬ HỌC

3

II. TÍNH ĐẢNG VÀ TÍNH KHOA HỌC TRONG SỬ HỌC MÁC XÍT

6

1. Khái niệm tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu lịch sử

6

2. Nguyên tắc tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu lịch sử

8

2.1 Yêu cầu của việc xác định tính khoa học và tính đảng trong



8

nghiên cứu sử học
2.2 Nội dung của tính khoa học và tính đảng cộng sản trong sử học

10

mácxít
2.3 Nhận thức, nắm vững quan điểm, đường lối, chính sách của

11

Đảng, nhà nước để vận dụng vào việc nghiên cứu lịch sử
2.4 Tính chiến đấu của khoa học lịch sử mácxít-lêninnít

12

2.5 Có tinh thần sáng tạo

13

2.6 Có ý thức tổ chức kỷ luật

13

3 Quan niệm về tính đảng, tính khoa học trong khoa học Lịch sử 14
Đảng
3.1 Tính đảng


14

3.2 Tính khoa học

19

3.3 Mối quan hệ giữa tính đảng, tính khoa học trong khoa học Lịch
sử Đảng

22

KẾT LUẬN

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO

25


1.1. Cơ sở khoa học của bài học kinh nghiệm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội
Tổng kết lịch sử xã hội loài người từ khi phân chia thành giai cấp, hình thành nên các quốc
gia, dân tộc độc lập, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định: Dân tộc và giai cấp có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Dân tộc bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, không
có dân tộc chung chung, dân tộc phi giai cấp. Mỗi giai cấp có quan điểm riêng của mình về vấn đề dân
tộc. Ở mỗi một thời đại lịch sử, đều có giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại đó, giai cấp ấy có khả
năng nắm vững ngọn cờ dân tộc, giải quyết đúng vấn đề dân tộc, đưa dân tộc tiến lên.
Trong khoảng từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản đứng ở vị trí trung tâm của thời đại,

nhất là ở các nước châu Âu, giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ dân tộc, chống chế độ phong kiến lỗi thời.
Thắng lợi của phong trào dân tộc lúc đó là thắng lợi của giai cấp tư sản, của chủ nghĩa tư bản. Dân tộc gắn liền
với giai cấp tư sản, mang bản chất của giai cấp tư sản. Vào những năm đó, giai cấp công nhân là những người
“không có Tổ quốc”. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, muốn giải phóng dân tộc, trước hết phải giải phóng giai cấp.
Giai cấp công nhân ở mỗi nước phải “Tự mình trở thành dân tộc”.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản chẳng những bóc lột,
áp bức giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong nước mà còn đi xâm lược, áp bức, bóc lột nhiều dân
tộc khác trên thế giới, biến các nước này trở thành thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Ở các nước thuộc địa
và phụ thuộc trong mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp phải đi từ giải phóng dân
tộc mới giải phóng được giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917), giai cấp vô sản, đại biểu cho phương thức sản
xuất mới, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, là giai cấp duy nhất có khả năng nắm vững ngọn cờ dân
tộc, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, đưa dân tộc tiến lên, dân tộc đó là dân tộc xã hội chủ nghĩa, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra thời đại mới, thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Các nước sau khi được giải phóng khỏi áp bức
nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, xu hướng chung là đi lên chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp tư sản là lực lượng quốc tế, muốn thắng chúng phải có sự đoàn kết, liên minh chiến đấu
giữa giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Cách mạng ở mỗi nước là một bộ
phận cách mạng thế giới, gắn liền với cách mạng thế giới, luôn nhận được sự giúp đỡ quốc tế cả tinh thần
và vật chất. Đồng thời cách mạng mỗi nước thành công sẽ góp phần thúc đẩy cách mạng thế giới phát
triển. Ngày nay, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là mục tiêu chung
của thời đại.


Trên thế giới đã diễn ra các cuộc cách mạng tư sản điển hình như Cách mạng tư sản Mỹ (1776),
Cách mạng tư sản Pháp (1789). Đó là các cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo. Nhưng các cuộc
cách mạng này không triệt để, thành quả cách mạng trao cho số ít là giai cấp tư sản, nhân dân lao động
tiếp tục bị áp bức bóc lột.
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), do giai cấp vô sản lãnh đạo, giành thắng lợi triệt để, dân tộc
độc lập thực sự, giai cấp công nhân, nhân dân lao động được giải phóng, từ người nô lệ trở thành người

làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra thời đại mới, thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (9/1858), từng bước biến xã hội Việt Nam từ xã hội phong kiến
độc lập thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến, dân tộc ta mất độc lập, nhân dân ta mất mọi quyền tự do,
dân chủ. Nhân dân Việt Nam quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, liên tiếp đứng lên đấu
tranh chống bọn đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc, hạnh phúc cho mình. Tiêu biểu là phong trào
Cần Vương do Tôn Thất Thuyết và Vua Hàm Nghi khởi xướng kéo dài từ năm 1885 đến năm 1896, tuy
không thành công, nhưng đã khiến cho chính quyền thực dân phong kiến lâm vào tình trạng không ổn
định nhiều năm và chịu nhiều tổn thất.
Trong lúc nhân dân nhiều địa phương nổi dậy đấu tranh dưới ngọn cờ Cần Vương thì tại Yên Thế
(Bắc Giang), dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám, nông dân đứng lên khởi nghĩa
kéo dài đến 30 năm (1884 - 1913), cuối cùng cũng thất bại vì vẫn mang “cốt cách phong kiến”, không đủ
sức lãnh đạo thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Đầu thế kỷ XX, đảm đương vai trò lãnh đạo phong trào yêu nước Việt Nam là tầng lớp trí thức Nho
giáo giàu lòng yêu nước, thấm nhuần tư tưởng dân chủ tư sản. Tiêu biểu là các phong trào Đông Du (1906 1908) do Phan Bội Châu khởi xướng. Phan Bội Châu chủ trương dựa vào nước Nhật để đánh đuổi thực dân
Pháp, nhưng không thành. Năm 1912, Ông lập ra Việt Nam Quang Phục hội với ý định tập hợp lực lượng,
vũ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng cũng không thành công. Song song với xu hướng
bạo động còn xuất hiện xu hướng cứu nước bằng con đường cải lương do cụ Phan Chu Trinh và một số nhà
yêu nước khác đề xướng và tổ chức. Chủ trương cứu nước của họ được xác định là: “Khai dân trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh”. Năm 1907, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí thành lập Trường Đông
Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, để bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước của nhân dân, truyền bá tư tưởng
dân tộc, tự do tư sản và nếp sống văn minh tiến bộ, nhưng bị thực dân Pháp sớm ra lệnh đóng cửa, phong
trào bị thất bại.
Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX trở đi, phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản Việt Nam chống
các thế lực tư bản nước ngoài, chống độc quyền, đòi cải cách dân chủ cũng được đẩy mạnh. Đầu năm 1930, khởi
nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo thất bại, chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp tư sản trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX các phong trào yêu nước Việt Nam đã trải nghiệm qua các cuộc đấu
tranh do giai cấp phong kiến lãnh đạo, hoặc các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản liên tiếp



nổ ra, nhưng đều thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo, thiếu một đường lối cứu
nước đúng đắn, không nhận thức được và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam
trong thời đại mới.
Nhận rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào cứu nước, chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo
của các sỹ phu yêu nước và các lãnh tụ nông dân, biết những hạn chế của các cuộc cách mạng theo xu
hướng dân chủ tư sản, với nhiệt tình cách mạng cháy bỏng và tầm cao trí tuệ của mình, Nguyễn Ái Quốc
đã ra đi tìm đường cứu nước, tìm ra phương hướng giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc, giai cấp của
cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản” 1. Và “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được
dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới”2, “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”3.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định con
đường cách mạng Việt Nam “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” 4.
Đường lối đó biểu hiện sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đường lối cơ bản đó, chỉ đạo
cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, giành nhiều thắng lợi vĩ đại, trở thành bài học kinh nghiệm lớn của cách
mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1.2. Nội dung bài học kinh nghiệm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 - 1975)
1.2.1. Sớm xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, trải qua
hai giai đoạn và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai giai đoạn trong cách mạng Việt Nam
Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2/1930) đã khẳng định
con đường phát triển cách mạng Việt Nam là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đến Luận cương Chính trị tháng 10 năm 1930 Đảng ta chỉ rõ:
“Trong lúc đầu cuộc cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền... Tư sản dân
quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng” 5. Đó là cuộc cách mạng tư sản dân quyền
kiểu mới do giai cấp vô sản lãnh đạo. Sau khi hoàn thành cách mạng tư sản dân quyền sẽ tiến lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đến Đại hội lần thứ II của Đảng (2/1951),
Đảng ta khẳng định, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là: Sau khi hoàn thành cách mạng dân

tộc dân chủ nhân dân sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.
Từ Hội nghị thành lập Đảng đến Đại hội lần thứ II của Đảng (2/1951), Đảng ta đều khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu làm cách mạng dân tộc dân chủ
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.314.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 416.
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.128.
4 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.1.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 93.
1
2


nhân dân, giai đoạn hai, làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường cách mạng đó đã chỉ rõ, cách mạng
Việt Nam bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ cách mạng giải phóng dân tộc và đi đến đâu? Sẽ đi đến chủ nghĩa xã
hội, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản.
Cách mạng Việt Nam nhất thiết phải trải qua hai giai đoạn. Vì mỗi giai đoạn cách mạng đều có mâu
thuẫn xã hội, kẻ thù, nhiệm vụ, mục tiêu, lực lượng, phương pháp tiến hành, hình thức tổ chức nhà nước khác
nhau. Do đó, không thể nhập hai giai đoạn làm một. Nhưng hai giai đoạn cách mạng đó đều nằm trong quỹ
đạo của cách mạng vô sản, do giai cấp vô sản Việt Nam lãnh đạo; lực lượng chủ yếu tiến hành cách mạng là
công nhân và nông dân, mục tiêu chung là đấu tranh giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu
làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tất yếu phải đi qua. Giai đoạn hai, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất
yếu phải đi tới. Có giải phóng được dân tộc, giành độc lập dân tộc thực sự, mới tiến lên xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong triển vọng tiến lên chủ nghĩa xã hội, sẽ quyết định
bản chất, tính chất triệt để của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng
dân tộc phải chuyển ngay sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý
luận Mác-Lênin về tư tưởng cách mạng không ngừng vào điều kiện cụ thể Việt Nam.
Trong chỉ đạo thực tiễn Đảng luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách
mạng đó.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chính quyền được
thiết lập trên phạm vi toàn quốc, từ Trung ương đến cơ sở; Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, nhân dân ta
trở thành người làm chủ đất nước. Theo quy luật chung lúc này Việt Nam có thể chuyển sang giai đoạn xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Song, căn cứ vào tình hình thực tiễn của cách mạng nước ta Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đúng khi quyết định không chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà khẳng định:
“Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”6 và tiếp tục đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu với khẩu hiện “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Nội dung dân tộc lúc
này là phải giữ vững chính quyền vừa mới giành được. Đó là nhiệm vụ trọng tâm.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (7/1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng đi lên
chủ nghĩa xã hội, miền Nam chưa hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa hoàn
thành, phải tiếp tục làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đảng ta quyết định đường lối cả nước tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam. Với quyết định đúng đắn đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo
kết hợp sức mạnh độc lập dân tộc với sức mạnh của chủ nghĩa xã hội, sức mạnh trong nước với sức mạnh thời
đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam. Sức mạnh đó quyết định thắng lợi giải phóng
miền Nam (30/4/1975) , thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống
phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 26.


Đặc trưng cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến là sự cấu kết giữa đế quốc và phong kiến để
thống trị, áp bức nhân dân ta. Do đó, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược:
chống đế quốc và chống phong kiến. Quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng luôn giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược đó. Cụ thể:
Thứ nhất: Đảng luôn xác định: Chống đế quốc, chống phong kiến đồng thời (song song) với nhau là
nguyên tắc trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến có sự cấu kết giữa đế quốc và địa chủ phong kiến để thống trị,
bóc lột nhân dân. Do đó trong xã hội ấy phát sinh hai mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế
quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Do đó,

Đảng khẳng định, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai kẻ thù phải đánh đổ là chủ nghĩa đế quốc xâm
lược và địa chủ phong kiến làm tay sai cho đế quốc để giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày, hai mục
tiêu đó luôn gắn bó với nhau, là nguyện vọng lâu đời của nhân dân. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
không thể chỉ đánh đế quốc giành độc lập dân tộc dân tộc hoặc chỉ đánh phong kiến giành ruộng đất cho dân cày.
Muốn có độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày phải đánh đổ đồng thời cả đế quốc và phong kiến.
Thứ hai: Về chỉ đạo chiến lược, chống đế quốc, chống phong kiến song song với nhau, nhưng
không nhất loạt ngang nhau. Phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, tay sai giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
nhiệm vụ chống phong kiến rải ra từng bước, phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
Đây là nét độc đáo, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong vận dụng lý luận Mác-Lênin về
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Quá trình phát triển của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sự vận động của hai mâu thuẫn cơ
bản dẫn đến mâu thuẫn chủ yếu, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với bọn đế quốc xâm lược. Từ
đó xuất hiện kẻ thù chủ yếu là đế quốc xâm lược và nhiệm vụ chủ yếu nhất của cách mạng là chống đế
quốc, tay sai giải phóng dân tộc nổi lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến luôn phải phục tùng, phục
vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Đảng ta luôn tập trung mọi lực lượng cách mạng vào
nhiệm vụ chống đế quốc, tay sai giải phóng dân tộc, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu, nhưng không quên nhiệm vụ
chống phong kiến.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta chủ trương nhiệm vụ chống phong kiến rải ra
từng bước, phục tùng, phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc. Bước thứ nhất, đánh đổ sự thống trị của giai
cấp địa chủ phong kiến, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và tay sai phản động trong giai cấp địa chủ
chia cho dân cày nghèo; bước thứ hai, thực hiện giảm tô, giảm tức, hoãn nợ, xóa nợ của địa chủ đối với
nông dân; bước thứ ba, thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện triệt để quyền của bần, cố nông.


Tuy vậy, trong tổ chức thực tiễn có thời kỳ Đảng ta thực hiện giải quyết mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến chưa phù hợp, khi đó cách mạng gặp khó khăn, không
giành được thắng lợi.
Thời kỳ 1930 - 1931, giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó, ta phạm sai lầm “tả”

khuynh. Đảng chủ trương chống đế quốc, phong kiến đồng thời, ngang bằng nhau, để thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày. Cách mạng không đạt được các mục tiêu đề ra, trái lại
đã đưa cách mạng vào thời kỳ khó khăn, dẫn đến thoái trào. Thời kỳ 1936 - 1939 giải quyết mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược đó lại có biểu hiện hữu khuynh. Đến thời kỳ 1939-1945,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: Đặt nhiệm vụ chống đế
quốc và tay sai giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất; giải
quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước trên bán đảo Đông Dương. Với chủ trương đúng đắn
đó đã góp phần quyết định thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc thời kỳ 1939 - 1945.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1950, trong khi tập trung vào nhiệm vụ chống đế
quốc, nhiệm vụ chống phong kiến lại có biểu hiện hữu khuynh, ngay cả những nhiệm vụ giảm tô cũng
chưa được thực hiện. Từ cuối năm 1953 trở đi, Đảng mới tập trung chỉ đạo tiến hành cải cách ruộng đất.
Thực tiễn cách mạng chứng minh rằng, khi nào giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ
chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, khi đó cách mạng giành thắng lợi. Khi nào giải quyết mối
quan hệ đó phạm sai lầm hữu khuynh, hoặc “tả” khuynh, cách mạng gặp khó khăn, thậm chí thất bại.
1.2.3. Cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (1954 - 1975)
Sau tháng 7/1954, đất nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị và nhiệm vụ
chiến lược khác nhau.
Miền Bắc, hoàn toàn được giải phóng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam còn dưới
ách thống trị của Mỹ-Ngụy, do đó phải tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam.
Mỗi nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở mỗi miền có yêu cầu cụ thể, mục tiêu nhiệm vụ khác nhau,
nhưng đều hướng tới mục tiêu chung của cách mạng cả nước là: giành độc lập, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, hai nhiệm vụ chiến lược đó phải được tiến hành đồng thời với
nhau, song song với nhau.
Hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam có mối quan hệ khăng khít, tác động, chi phối lẫn nhau.
Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, vừa
giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam vừa có sức
mạnh của ngọn cờ độc lập dân tộc, vừa có sức mạnh ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Cách mạng của cả nước
phải giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chỉ có như vậy cách mạng mới tạo ra



sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi ở mỗi miền, góp phần giành thắng lợi chung của cả nước, giành độc
lập, thống nhất tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Bắc-Nam là chủ trương chiến lược của Đảng,
phải phát huy sức mạnh tổng hợp của mỗi miền, sức mạnh của cả nước, sức mạnh thời đại, bảo đảm cho việc
thực hiện thắng lợi mỗi chiến lược cách mạng và thực hiện mục tiêu chung của cách mạng cả nước.
Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng thời kỳ (1954 - 1975) là nét tiêu biểu, độc đáo của
đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Thực hiện
chiến lược đó, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội sau 30/4/1975.
Quá trình Đảng lãnh đạo đất nước ta thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng (1954 - 1975), Đảng ta
luôn chủ động đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, chỉ nhấn mạnh nhiệm vụ này mà coi nhẹ nhiệm vụ kia,
hoặc tách rời hai nhiệm vụ chiến lược đó. Thực hiện độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời tranh thủ sự giúp
đỡ về tinh thần và vật chất của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam.
1.2.4. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
Giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới có mối quan hệ khăng khít với nhau, luôn ảnh
hưởng, tác động lẫn nhau. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, luôn nhận được
sự giúp đỡ của cách mạng thế giới về tinh thần và vật chất, góp phần giành thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đồng thời cách mạng Việt Nam góp phần thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới.
Trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ đạo giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới thể hiện tập trung ở ba nội dung cơ
bản sau:
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế.
Luôn xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam phù hợp với nhiệm vụ mục tiêu của thời
đại.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết thành công
nhiều vấn đề mới nảy sinh trong phong trào cách mạng thế giới.
1.3. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện

nay
1.3.1. Yêu cầu khách quan nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hiện nay
Sau 30/4/1975, cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, mở ra thời kỳ phát triển mới
của cách mạng Việt Nam, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hòa quyện vào nhau. Dân tộc Việt Nam là


dân tộc xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ mới, Đảng ta luôn kiên trì, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng của mọi chiến lược, sách lược trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do quy luật phát triển không đều, chủ nghĩa xã hội không thể đồng thời được xây dựng trên phạm
vi toàn thế giới, mà chỉ được xây dựng trên một số nước. Trong điều kiện đó, các nước xã hội chủ nghĩa
muốn tồn tại và phát triển, chiến thắng được mọi kẻ thù bên trong và bên ngoài phải kết hợp chặt chẽ giữa
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là quy luật
của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, đất nước ta đã giành được độc lập, song nền độc lập còn bị đe dọa bởi âm mưu và thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Nền độc lập mới giành được trong quá trình cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân còn phải tiếp tục củng cố, xây dựng trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, làm
cho nền độc lập nước ta thực sự bền vững, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.Trong điều
kiện như thế, chúng ta tiếp tục phải giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc.
Ngày nay, cả nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trực tiếp mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang thực hiện. Công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta đã và đang giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử tạo nên
sức mạnh to lớn để bảo vệ Tổ quốc, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, nâng cao địa vị quốc tế của
Đảng ta, cách mạng nước ta. Song bên cạnh đó, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta còn
nhiều sai lầm, khuyết điểm, cách mạng nước ta đang đứng trước nguy cơ to lớn. Những nguy cơ đó là: Sự
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tệ
quan liêu, tham nhũng; “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi những
nguy cơ, thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đạt hiệu quả, giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng và nhân dân ta phải kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn.
Từ thực tiễn quá trình cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, nếu nước nào

giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cách mạng ở đó sẽ thành công, vừa giữ vững độc
lập dân tộc, vừa giữ vững được chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, ở đâu không giương cao cả hai ngọn
cờ, ở đó độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đứng trước sự thử thách một mất một còn. Đó là bài học kinh
nghiệm lớn đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới hiện nay.
Từ lý luận, thực tiễn Việt Nam và thế giới trong những năm qua, đã khẳng định trong giai đoạn
cách mạng xã hội chủ nghĩa phải tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không
thể chỉ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, hạ thấp ngọn cờ độc lập dân tộc hoặc ngược lại. Như vậy,
cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ bị thất bại.
1.3.2. Nội dung nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn cách
mạng hiện nay


Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
nhân dân ta đã lựa chọn.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã kiểm nghiệm, chủ nghĩa xã hội là con
đường bảo đảm cho độc lập bền vững và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Vì vậy, đổi mới
là làm cho chủ nghĩa xã hội tiếp tục được nhận thức đầy đủ hơn, được thực hiện bằng những nội dung,
hình thức mới, làm cho chủ nghĩa xã hội sống động, phát triển chứ không phải thay đổi chủ nghĩa xã
hội. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong thời gian qua tuy có nhiều khó khăn, thậm chí có lúc tưởng
chừng không thể vượt qua nổi. Đặc biệt là tác động từ sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô đã ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Nhưng do kiên trì với
những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội, cho nên cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi khó
khăn, liên tiếp giành được những thành tựu to lớn, giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế cao,
đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện… qua đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, ngày càng phát
huy hiệu quả to lớn.
Vì vậy, bên cạnh việc khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là tất yếu khách quan và có
thể thực hiện được, chúng ta cần phê phán những biểu hiện lệch lạc, dao động, hoài nghi, suy giảm lòng
tin mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, phê phán những khuynh hướng nhân danh đổi mới, tìm
kiếm con đường phát triển đất nước để lái con đường cách mạng Việt Nam theo con đường chủ nghĩa xã

hội dân chủ, chủ nghĩa tư bản…
Hai là, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự vận dụng lý luận Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn
năm lịch sử vào điều kiện mới.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011)
của Đảng đều xác định đúng đắn và ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc. Mặt
khác, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
cuộc sống của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển ổn
định, vững chắc.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, cần phải đổi mới tư duy về kết hợp
hai nhiệm vụ đó cho phù hợp với đặc điểm tình hình mới. Hiện nay, phải tranh thủ mọi điều kiện thuận
lợi để đẩy nhanh tốc độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong xây dựng đã chứa đựng nội dung bảo vệ, xây


dựng đất nước đạt hiệu quả, tạo điều kiện bảo vệ Tổ quốc. Do đó, phải tăng cường sức mạnh đất nước
để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, bảo vệ tốt sẽ tạo điều kiện để xây dựng có hiệu quả.
Kết hợp xây dựng và bảo vệ trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của mọi cấp, mọi
ngành. Sự kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay phải được quán triệt trong đường lối, chủ
trương, chính sách, trong quy hoạch, kế hoạch cụ thể, từ Trung ương đến địa phương.
Trong khi thực hiện sự kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quân và
dân ta cần phải phê phán tư tưởng và hành động muốn tuyệt đối hóa một nhiệm vụ nào đó, hoặc tách rời
mối quan hệ mật thiết hai nhiệm vụ chiến lược đó với nhau.
Ba là, nắm vững và vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, định

ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng.
Chủ nghĩa xã hội không có mô hình chung, nhưng có quy luật chung, nguyên tắc chung mà bất cứ
ở đâu cũng phải tuân theo, đó là những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa xã hội lại
xây dựng trên mỗi quốc gia, dân tộc với những đặc điểm lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa khác nhau. Vì
vậy, Đảng Cộng sản cầm quyền ở mỗi nước phải biết vận dụng sáng tạo những quy luật phổ biến của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước để định ra đường lối, phương pháp cách mạng phù hợp.
Đối với nước ta, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam chỉ đạo cách mạng nước ta. Đó là cơ sở lý luận để định ra đường
lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Muốn vậy, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
không ngừng nắm vững, có hệ thống, toàn diện bản chất cách mạng, khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; biết vận dụng, phát triển sáng tạo trong điều kiện cụ thể Việt Nam, để từng bước
hình thành nên tư duy mới, quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. đồng thời chúng ta phải phê phán, đấu tranh với các quan điểm sai trái, góp phần bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng.
Bốn là, phát huy mọi nguồn lực trong nước, ngoài nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực chất, đó là sự kết hợp nội lực với ngoại lực nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng vào
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát huy nội lực có ý nghĩa quyết định, yếu tố ngoại lực rất
quan trọng, nhưng phải thông qua các yếu tố bên trong mới có thể phát huy được tác dụng.
Nguồn lực bên trong bao gồm các yếu tố lịch sử, truyền thống dân tộc; đường lối, phương pháp cách
mạng đúng đắn; thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại do công
cuộc đổi mới đưa lại; tài nguyên đất nước, tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo của nhân dân.
Nguồn lực bên ngoài là, sự phát triển của khoa học, công nghệ trên thế giới; tinh thần đoàn kết, hợp tác
quốc tế; xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác kinh tế quốc tế, phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và


tiến bộ xã hội. Vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải chủ động
thực hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Muốn vậy, Đảng, Nhà nước phải định ra đường lối đối nội, đối ngoại, chủ trương, chính sách, chỉ
đạo sự kết hợp đó có hiệu quả. Phải phát huy tính năng động, tự chủ, sáng tạo của mọi cấp, mọi ngành

trong quá trình mở rộng hợp tác quốc tế, nhất là lĩnh vực kinh tế.
Quá trình thực hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại không thể trông chờ, ỷ lại
vào bên ngoài; khắc phục tư tưởng tự ti dân tộc, hoặc tư tưởng nước lớn trong quan hệ quốc tế. Giữ vững
độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia trong quá trình thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại.



×