Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

ĐẢNG TA VẬN DỤNG DI SẢN HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TỪ NĂM 1969 ĐẾN 1985

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.58 KB, 10 trang )

ĐẢNG TA VẬN DỤNG DI SẢN HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TỪ NĂM 1969 ĐẾN 1985
PGS. TS. Nguyễn Quốc Bảo
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng lớn, là luận
điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Tư tưởng
đó được hình thành trong quá trình đi tìm con đường cứu nước của Người.
Qua khảo sát kỹ các cuộc cách mạng trên thế giới, nghiên cứu các nước tư
bản và thuộc địa, nhận thức rõ quá khứ của dân tộc mình và nhân loại, nhận
thức rõ con đường tất yếu của dân tộc mình cũng như các dân tộc thuộc địa
khác phải trải qua, Người đã rút ra kết luận: “ Muốn cứu nước, giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng Vô sản”, “ cách
mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng Xã hội chủ nghĩa
thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đó chính
là con đường kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc
để đi tới giải phóng xã hội, giải phóng con người. Trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh, mối quan hệ giữa độc lập cho Tổ quốc và tự do, hạnh phúc cho nhân
dân bao giờ cũng nổi bật và nhất quán. Người viết: “ Nếu nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Do đó, giành được độc lập rồi, phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ
1
nghĩa xã hội mới làm cho “ dân giàu, nước mạnh”, mọi người được sung
sướng, tự do. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là tư tưởng trung tâm, là nội dung cốt lõi và là sợi chỉ đỏ
quán xuyến toàn bộ hệ thống tư tưởng và lý luận của Người. Tư tưởng ấy có
giá trị chỉ đạo đối với toàn bộ tiến trình cách mạng nước ta.
Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã được
Đảng ta xác định: “ Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”. Điều đó có nghĩa là con đường của cách mạng


Việt Nam phải thực hiện là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng là đánh đuổi đế quốc và tay sai, giành độc
lập cho dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân và xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Đường lối đúng đắn đó đã phản ánh yêu cầu phát
triển khách quan của cách mạng Việt Nam, đồng thời nó cũng thể hiện sự
sáng tạo của Đảng trong việc vận dụng Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến hành
cách mạng tư sản dân quyền ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến với hai
nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống phong kiến, hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó chuyển thẳng lên cách mạng xã
hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong suốt quá
trình lãnh đạo, Đảng ta đã luôn luôn kết hợp tốt việc thực hiện hai nhiệm vụ
này, vì vậy Đảng đã giải quyết đúng đắn hàng loạt những vấn đề lớn của
cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong thời kỳ cả nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
( 1930 – 1954), sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trước
hết là tập trung sức mạnh của dân tộc và giai cấp vào nhiệm vụ chủ yếu là
chống đế quốc giành độc lập dân tộc, và chống phong kiến giành ruộng đất
cho nông dân. Đồng thời tạo những tiền đề cần thiết để tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ trực tiếp là hoàn thành cách
2
mạng dân tộc dân chủ, còn cách mạng xã hội chủ nghĩa là phương hướng và
mục tiêu, nhưng khi có điều kiện ( sau cách mạng tháng Tám, trong kháng
chiến), Đảng đã bắt tay ngay vào việc xây dựng những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, đồng thời coi trọng việc giác ngộ ý thức xã hội chủ nghĩa cho
quần chúng nhân dân.
Thành công lớn nhất và thể hiện rõ nhất trong thời kỳ này là ở chỗ
Đảng đã giải quyết rất đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc
với chống phong kiến, giữa vấn đề dân tộc với vấn đề dân chủ trong cách
mạng Việt Nam. Đó là hai nhiệm vụ cơ bản, không thể tách rời. Tuy nhiên,
do nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong thời kỳ này được đặt lên hàng đầu,

Đảng đã tập trung vào kẻ thù chính của dân tộc là bọn đế quốc và ưu tiên
thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc trước. Còn đối với nhiệm vụ chống
phong kiến, với cách mạng ruộng đất thì Đảng chủ trương tiến hành dần dần,
chia thành nhiều bước, phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Chủ
trương nói trên của Đảng một mặt có tác dụng cô lập kẻ thù, lợi dụng mâu
thuẫn để phân hóa kẻ thù, biết thắng từng bước để tiến tới giành thắng lợi
hoàn toàn. Mặt khác, nhờ kết hợp chặt chẽ mục tiêu chiến lược và mục tiêu
cụ thể, Đảng đã tập hợp, lôi cuốn được đông đảo lực lượng quần chúng nhân
dân cùng với khối liên minh công nông bước lên trận tuyến cách mạng
chống đế quốc và phong kiến. Thực tiễn cho thấy, với đường lối đúng đắn
đó, Đảng đã không chỉ đem lại thắng lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc, mà còn đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thành công,
bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ nền độc lập dân tộc, giải phóng
miền Bắc, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thành công trên của Đảng cũng đã khắc phục được sai lầm thiên về
một nhiệm vụ hoặc chỉ chống đế quốc, hoặc chỉ chống phong kiến của các
nhà yêu nước đương thời và khắc phục được sự dập khuôn máy móc của
3
khuynh hướng tả trong phong trào cộng sản lúc đó, bổ sung đóng góp cả lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một
nước thuộc địa.
Trong thời kỳ cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng
(1954 – 1975), mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được
thể hiện rất sinh động bằng chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam và chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Từ sau Hiệp nghị Giơnevơ (7 – 1954), đặc điểm lớn nhất của nước ta
là đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ chính trị đối
lập. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng hai miền có tầm
quan trọng đặc biệt. Nhận thức rõ điều đó, ngay từ Hội nghị Trung ương
Tám (8 – 1955), trên cơ sở phân tích tình hình thế giới, trong nước, chỉ ra

hai mâu thuẫn cơ bản ở nước ta cần phải giải quyết. Đó là mâu thuẫn giữa cả
dân tộc ta, nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc xâm lược, mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa. Đảng đã xác định nhiệm vụ củng cố miền Bắc, xây dựng miền
Bắc thành hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất nước nhà. Chủ trương trên của Đảng tiếp tục được các Hội nghị
Trung ương 13, 15 ( Khóa II ) bổ sung và được Đại hội III ( 9 – 1960) hoàn
chỉnh thành đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
“ Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác
dụng thúc đẩy lẫn nhau”.
4
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền
Bắc xã hội chủ nghĩa giữ vai trò quyết định nhất cho sự nghiệp cách mạng cả
nước và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, còn cách mạng miền Nam
giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ bọn đế quốc và tay sai.
Về lý luận cũng như thực tiễn, việc đề ra và lãnh đạo đồng thời hai
chiến lược cách mạng trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt là nét
độc đáo của cách mạng Việt Nam. Thậm chí có thể nói là chưa có tiền lệ
trong lịch sử . Sự sáng tạo của Đảng là ở chỗ: Đảng đã biết vận dụng quy
luật đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, kinh
nghiệm vừa khánh chiến vừa kiến quốc, vừa đánh vừa xây dựng. Nó không
những phù hợp với lý luận cách mạng không ngừng của Chủ nghĩa Mác –
Lênin mà còn đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng trên, Đảng ta đã giải quyết một
cách hài hòa nhiều mối quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến, giữa tiến
công và bảo vệ, giữa phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, thời

đại.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã phát huy cao độ
tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa ra sức xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc, vừa
huy động hết thảy sức mạnh của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền
Nam, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng hai nước Lào
và Campuchia.
Do có sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam mà thế và lực cách mạng
của nước ta nói chung và của miền Nam nói riêng không ngừng tăng lên.
Nhờ đó, cách mạng miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả
5
nước để tiến công địch. Sức mạnh đó ngày một lớn mạnh, đủ sức đánh bại
lần lượt các chiến lược chiến tranh xâm lược của địch.
Từ thắng lợi của việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, thành công
của Đảng còn ở chỗ: Đảng đã luôn biết kết hợp chặt chẽ sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta với sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân thế giới,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các
lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới trong nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như trong nhiệm vụ đấu tranh giải
phóng miền Nam.
Giữa lúc sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta
đang được tiếp tục đẩy mạnh và giành thắng lợi, thì ngày 2-9-1969, Chủ tịch
Hồ Chí Minh – Lãnh tụ vô vàn kính yêu của dân tộc qua đời. Biến đau
thương thành hành động cách mạng, nhân dân ta ở cả hai miền Nam – Bắc
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội được cụ thể hóa bằng nhiệm vụ của mỗi miền.
Trước tình hình mới, sau thất bại của chiến lược chiến tranh cục bộ
(1964 – 1968), đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom đánh phá miền
Bắc, thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ở miền Nam. Từng

bước rút quân Mỹ và các nước đồng minh khỏi miền Nam, đồng thời ra sức
củng cố, tăng cường bộ máy chính quyền, quân đội Sài Gòn, tiếp tục các
chính sách càn quét, bình định, giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 18 ( Khóa III ),
trong những năm 1970 – 1971, nhân dân ta ở miền Nam đã vượt qua những
khó khăn, thử thách, kiên trì xây dựng và phát triển lực lượng, đẩy mạnh tiến
công địch trên cả ba vùng chiến lược, đánh bại từng bước chiến lược “ Việt
Nam hóa chiến tranh” và “ Đông Dương hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Bẻ gãy các cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - ngụy Sài Gòn ở đường 9 –
6
Nam Lào, Đông Bắc Campuchia. Đồng thời, chủ động mở cuộc tiến công
chiến lược năm 1972 đánh thẳng vào các tuyến phòng ngự quan trọng của
địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam bộ.
Cùng với thắng lợi ở miền Nam, quân và dân miền Bắc cũng đã lập
chiến công oanh liệt. Đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52
của Mỹ trong 12 ngày đêm ( từ 18 đến 30-12-1972 ) trên bầu trời Hà Nội,
Hải Phòng và một số địa phương khác.
Trước những thất bại to lớn trên chiến trường miền Bắc và miền Nam,
ngày 27 – 1 – 1973, chính phủ Mỹ đã phải ký kết Hiệp định Pari về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nhưng do bản chất phản động,
Mỹ vẫn không cam chịu thất bại, mà còn tìm mọi cách phá hoại Hiệp định,
nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Về phía ta, nhận rõ âm mưu và thủ đoạn
của đế quốc Mỹ, tháng 7 – 1973, Đảng có Hội nghị Trung ương lần thứ 21
chỉ ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam sau khi Hiệp định Pari
được ký kết là “ hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân”. Tiếp đó,
cuối năm 1973, Hội nghị Trung ương lần thứ 22 chủ trương: nhanh chóng
khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, ra sức chi viện miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ.
Thực hiện chủ trương của Đảng, thành công lớn nhất của Đảng trong

việc gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn này là ở sự kết
hợp giữa việc phát huy cao độ sức mạnh và khả năng chi viện to lớn của
miền Bắc đối với miền Nam, tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho quân và
dân ta ở miền Nam mở trận tiến công chiến lược mùa xuân 1975, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bước sang thời kỳ mới, thời kỳ đất nước hòa bình thống nhất quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ( 1975 – 1985), Đảng ta chủ trương tiếp tục giương cao
7
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước tiến
hành chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Báo cáo chính trị tại Đại hội
lần thứ IV của Đảng ( 12 – 1976) khẳng định: “ Ngày nay Tổ quốc ta đã
hoàn toàn độc lập thống nhất thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một”. Sự kết
hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ này được Đảng ta thể
hiện trong đường lối chung, cũng như trong đường lối xây dựng kinh tế, văn
hóa, an ninh – quốc phòng… Trong đường lối chung đó là sự kết hợp giữa
quy luật phổ biến của cách mạng xã hội chủ nghĩa với đặc điểm cụ thể của
dân tộc. Trong đường lối kinh tế, sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội thể hiện ở quá trình xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với
ý thức tự lực, tự cường; dựa trên những điều kiện và tiềm năng của dân tộc,
kết hợp chặt chẽ với sự đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác quốc tế.
Đường lối kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội còn được
thể hiện trên mặt trận văn hóa là xây dựng và phát triển nền văn hóa mới vừa
kế thừa và phát huy những bản sắc, truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân
tộc, vừa tiếp thu có chọn lọc những thành quả văn hóa của nhân loại. Nền
văn hóa đó cũng là sự chung đúc những tinh hoa và phong cách riêng của
các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
Đường lối kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng đòi
hỏi chúng ta trong khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được coi nhẹ
nhiệm vụ bảo vệ đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng hậu, bảo đảm cho đất nước có

đủ sức mạnh đánh bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực
thù địch và phản động quốc tế.
Như vậy, mối quan hệ giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở giai đoạn này không chỉ phát triển về bề rộng mà còn phát triển về bề
sâu, gắn quyện vào nhau trên tất cả các mặt. Có thể nói độc lập dân tộc là
8
điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là
nhân tố cơ bản nhất bảo đảm vững chắc nền độc lập dân tộc.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, với đường lối đúng đắn kết hợp độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đạt
được những thành tựu bước đầu trong công cuộc xây dựng lại đất nước “
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại. Song bên cạnh những thành tựu, đất nước cũng đã gặp nhiều
khó khăn chồng chất và gay gắt về kinh tế và đời sống mà sau này chúng ta
gọi là khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sự khủng hoảng đó do nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân về phía Đảng lãnh đạo. Bài học kinh nghiệm
lớn mà chúng ta rút ra trong thời kỳ là ở chỗ sau khi vạch ra đường lối đúng,
thì điều rất quan trọng là việc tổ chức và quán triệt đường lối. Luôn giải
quyết và hoàn chỉnh mối quan hệ giữa mục tiêu lâu dài và mục tiêu cụ thể,
trước mắt; giữa đường lối và cụ thể hóa đường lối. Đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối có tính định hướng, lâu dài
của cách mạng Việt Nam, nhưng trong thời kỳ 1975 – 1985, do chúng ta
thiếu việc cụ thể hóa đường lối một cách kịp thời và chính xác. Từ đó, chưa
có bước đi, kế hoạch và cơ chế quản lý phù hợp, mà biểu hiện rõ nhất là
bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, là cơ chế quản lý theo lối mệnh lệnh,
hành chính, quan liêu, bao cấp…
Những hạn chế trên đã dần dần được khắc phục với đường lối đổi mới
của Đảng được bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI ( 12 – 1986 ) góp phần
đưa đất nước vượt qua những khó khăn, khủng hoảng, đạt được nhiều thành

tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn lúc nào hết,
những thắng lợi đó càng góp phần khẳng định việc lựa chọn con đường độc
lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
9
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng dắn. Đó cũng chính là
sự lựa chọn của lịch sử, của dân tộc và của nhân dân ta./.
Hà Nội, tháng 2 – 2009.

10

×