MỞ ĐẦU:
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, có rất nhiều đi theo con đường CNXH và đang phát
triển rất mạnh mẽ. Nó chứng tỏ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
Đông Âu là sự sụp đổ của một mơ hình khơng đúng đắn, khơng khoa
học, là bước thụt lùi của CNXH. Nhưng CNXH – một chế độ xã hội lý
tưởng vẫn không ngừng phát triển mạnh mẽ. Thành quả mà Trung
Quốc, CHDCND Triều Tiên đạt được đã chứng minh điều đó. Nó
chứng tỏ lý luận của Lênin về CNXH là hoàn toàn đúng đắn.
Ngày nay, các thế lực thù địch ln tìm mọi cách chống phá
CNXH. Chúng dùng những thủ đoạn lừa bịp gây mất lòng tin cho nhân
dân về CNXH. Vì thế chúng ta phải tuyên truyền giáo dục quần chúng
để quần chúng có niềm tin vào chế độ CNXH.
Ở nước ta hiện nay vẫn kiên định con đường đi lên xây dựng
CNXH, dựa trên nền tảng CN Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đó
là kim chỉ nam cho hành động.
CN Mác – Lênin theo Bác nhận xét là chủ nghĩa chân chính nhất
khoa học nhất. Và Bác đã tin theo Lênin và quốc tế 3 vào năm 1917
sau khi Bác được chứng kiến cuộc cách mạng tháng 10 Nga thành
công và được đọc bản sơ thảo lần thứ nhất luận cương của Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bác đã rút ra nhận xét rằng chỉ có cách
mạng tháng 10 Nga là cách mạng đến nơi mang lại quyền lợi cho
nhân dân lao động.
Vì vậy, với tư cách của một sinh viên chuyên ngành. Đồng thời
muốn tin hiểu cho rõ ràng tại sao Bác lại chọn con đường cách mạng
vô sản? Tác giả đã lựa chọn đề tài: Lênin bảo vệ, phát triển và vận
dụng thành công lý luận CNXH vào nước Nga. Ý nghĩa của cách
mạng tháng 10 Nga đối với phong trào cách mạng thế giới.
1
2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu.
Những quan điểm, tư tưởng về lý luận CNXH được V. I. Lênin đề cập
đến trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình từ thời kỳ 1893 –
1907 đến sau cách mạng tháng Mười. Đặc biệt, sau khi lật đổ chế độ
chuyên chế Nga hoàng vào tháng 2/1917, Lênin đã hướng tồn bộ cơng tác
của Đảng vào việc chuẩn bị và thực hiện cuộc cách mạng XHCN. Những tư
tưởng đó được trình bày, thể hiện trong một loạt các tác phẩm của ông.
Và cũng như C. Mác và Ph. Ăngghen trước đây, V. I. Lênin không chỉ
viết những tác phẩm bút chiến phục vụ cho cơng việc trước mắt, mà với
tính cách là nhà lý luận, ơng cịn đầu tư thời gian cho các cơng trình mang
tính hệ thống và tính phổ quát cao, có tác dụng định hướng lâu dài đối với
sự nghiệp đấu tranh chung. Những cơng trình đó đã trở thành những tác
phẩm kinh điển cho giai cấp công nhân học tập và nghiên cứu.
Tuy nhiên, do hạn chế về nhiều mặt (khơng gian, thời gian, trình độ
nhận thức, tài liệu tham khảo, ...) nên tác giả chỉ xin đi sâu vào nghiên cứu
vấn đề “Quan điểm của V. I. Lênin về chủ nghĩa xã hội và thắng lợi cuộc
cách mạng tháng 10 Nga ” được giới hạn bởi phạm vi các tác phẩm kinh
điển được giới thiệu trong chương trình học phần Tác phẩm kinh điển của
V. I. Lênin về CNXHKH do tập thể tác giả khoa CNXHKH, Học viện Báo
chí và Tun truyền xây dựng.
3.
Tình hình nghiên cứu có liên quan.
Lý luận CNXH là vấn đề được nhiều quan tâm về lý luận và thực tiễn.
Do đó, đã có khá nhiều bài viết, cơng trình khoa học, giáo trình của một số
trường đại học... đề cập và đi vào nghiên cứu vấn đề này trên nhiều khía
cạnh, phương diện, mức độ khác nhau và đã đạt những thành cơng nhất
định. Ví dụ như:
-
Bộ giáo dục và đào tạo [2008]: Xã hội xã hội chủ nghĩa, Giáo trình
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2
-
Khoa chủ nghĩa xã hội khoa học [2009]: Hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền.
-
Lý luận Lênin và cách mạng XHCN và sự phê phán những kẻ “phê
phán” lý luận đó, Tạp chí Thơng tin khoa học xã hội, 1980, số 4, tr. 79-84.
-
Nguyễn Huy Hoan [1985]: Từ Lênin đến Chủ tịch Hồ Chí Minh về
cách mạng thuộc địa, Tạp chí Thơng tin khoa học xã hội, số 5,
tr. 52-56.
Những cơng trình trên đã đề cập đến lý luận CNXH trên các khía cạnh
khác nhau và ít nhiều có sự liên hệ với cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, hầu
như chưa có một đề tài nào nghiên cứu trực tiếp về chủ đề cách mạng xã
hội chủ nghĩa trong tư tưởng của Lênin.
Do vậy, tác giả quyết định chọn đề tài này để đi sâu nghiên cứu, làm rõ
hơn nữa vấn đề và mong mỏi có thể góp phần củng cố nền tảng tư tưởng
chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng XHCN trong giai đoạn hiện nay.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.
Trong giới hạn không gian một tiểu luận, tác giả xin được đưa ra mục
tiêu nghiên cứu của đề tài là khai thác, làm sáng tỏ nội dung các tác phẩm
kinh điển của V. I. Lênin, thuộc phạm vi các tác phẩm kinh điển được giới
thiệu trong chương trình học phần Tác phẩm kinh điển của V. I. Lênin về
CNXHKH, nhằm tìm ra, xâu chuỗi và hệ thống lại những quan điểm tư
tưởng cốt lõi về vấn đề lý luận chủ nghĩa xã hội vào nước Nga được ơng
trình bày; sự phù hợp của những quan điểm đó trong điều kiện lịch sử mới
của thế giới và thực tế nước Nga để thấy được sự kế thừa, bổ sung và phát
triển của Lênin đối với những quan điểm của Mác và Ăngghen; ý nghĩa của
những quan điểm đó với thực tiễn là cuộc cách mạng tháng 10 Nga thành
công. Và ý nghĩa đối với phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới trong
thời đại ngày nay.
3
Để có thể đạt được mục tiêu trên, tác giả tiểu luận đã xác định và hoàn
thành những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu là:
- Hoàn cảnh lịch sử nước Nga.
- Lênin bảo vệ và phát triển lý luận CNXH vào nước Nga và cách mạng
tháng 10 thành công.
- Ý nghĩa của những quan điểm đó với thực tiễn phong trào cách mạng
Việt Nam và thế giới trong thời đại ngày nay.
5.
Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của V. I. Lênin nằm trong hệ thống
các môn khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin nên trong quá trình nghiên
cứu và viết tiểu luận này, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp chuyên
ngành. Cụ thể: kết hợp chặt chẽ phương pháp logic và phương pháp lịch sử;
tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính Đảng và tính khoa học; nắm vững thế
giới quan và phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng...
Cùng với các phương pháp chuyên ngành nêu trên, tác giả cũng vận
dụng các phương pháp liên ngành cần thiết cho nghiên cứu như: thống kê,
tổng hợp, so sánh, phân tích tài liệu...
6.
Kết cấu của tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận có kết cấu gồm 3 chương và 8 tiết.
Chương 1: Lê nin bảo vệ, phát triển và vận dụng thành công lý luận
chủ nghĩa xã hội vào nước Nga.
1.
Những nội dung lý luận chủ nghĩa xã hội được Lê nin phát triển trong
thời kỳ trước cách mạng Tháng Mười:
1.1.
1.2.
Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa Lênin.
Quan điểm cơ bản của V.I.Lê nin về chính đảng kiểu mới của giai cấp công
1.3.
nhân.
Quan điểm của V.I.Lê nin về cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới.
Những nội dung lý luận được Lê nin vận dụng sáng tạo và phát triển
2.
sau cách mạng Tháng Mười Nga đến năm 1924.
4
Chương 2: Ý nghĩa cách mạng Tháng Mười Nga với phong trào cách
mạng thế giới:
1.
Ý nghĩa đối với nước Nga.
2.
Ý nghĩa đối với thế giới.
3.
Ý nghĩa đối với Việt Nam.
Chương 3: Ý nghĩa của lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin:
1.
2.
Với phong trào cách mạng Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay.
5
Nội Dung
Chương 1: Lênin bảo vệ, phát triển và vận dụng thành công lý luận
chủ nghĩa xã hội vào nước Nga.
Là người học trò xuất sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin đã kế
thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng của C.Mác-Ăngghen về chủ
nghĩa xã hội trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lê nin chủ nghĩa xã hội không chỉ là kết
quả tất yếu của cách mạng vơ sản mà cịn là điều kiện hết sức quan trọng để
củng cố chun chính vơ sản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ thành quả cách mạng của chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, trong một loạt tác
phẩm chính của Lê nin đã mở rộng thêm nhiều tư tưởng về đặc trưng của
thời kỳ quá độ trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, chính trị, tư tưởng,…Từ
thực tiễn cách mạng thế giới, thực tiễn cách mạng dân chủ tư sản và công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết, Lê nin đã đề cập đến
một loạt khía cạnh về xây dựng và phát triển các nhân tố trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
1.
1.1.
Những nội dung lý luận chủ nghĩa xã hội được Lênin phát triển trong
thời kỳ trước cách mạng Tháng Mười:
Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin:
V. I. Lênin (22/4/1870 – 21/1/1924) là “người kế tục một cách thiên
tài sự nghiệp vĩ đại của Mác và Ăngghen trong những điều kiện lịch sử
mới”, là “vị lãnh tụ tương lai và vị thầy thiên tài của quần chúng lao động
và của những người bị áp bức trên thế giới”. Người là “tượng trưng cho
lịng tin và bó đuốc sáng cho hy vọng”. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đánh giá rất cao chủ nghĩa Lênin, xem chủ nghĩa ấy không chỉ là học
thuyết khoa học và cách mạng mà cịn là “vũ khí tuyệt diệu” trong cuộc đấu
tranh để tự giải phóng; chủ nghĩa ấy “gắn liền với mọi thắng lợi của phe
hịa bình và dân chủ kéo dài từ sơng Enbơ đến Thái Bình Dương từ Bắc
Cực đến vùng nhiệt đới” và “nếu như các dân tộc bị nô dịch ở châu Á dưới
6
sự lãnh đạo của các đảng mácxít lêninnít đã thu hồi được những thắng lợi
nhất định thì cũng chính là nhờ họ đã làm theo lời di huấn của V. I. Lênin”.
Nửa sau thế kỷ XIX, CNTB đã chuyển sang nấc thang phát triển mới,
đã bành trướng thành CNTB toàn cầu. Chứa đựng bên trong sự liên kết,
hợp nhất ấy là những mâu thuẫn khó giải quyết giữa các cường quốc mà
nguyên do là sự phát triển không đồng đều. Cuộc tranh giành thị trường,
đòi phân chia lại thuộc địa, đã gây ra hàng loạt cuộc chiến tranh đẫm máu,
mà nạn nhân chính là người dân vơ tội ở cả chính quốc lẫn thuộc địa.
Chủ nghĩa đế quốc, với tính cách là giai đoạn phát triển cao nhất của
CNTB, theo Lênin, đã đào sâu hơn nữa mâu thuẫn giữa GCVS, đang ngày
càng trở nên đông về số lượng, trưởng thành về ý thức, giàu thêm về kinh
nghiệm đấu tranh, với giai cấp thống trị. Hơn thế nữa, sự nô dịch của
CNTB đối với các dân tộc chậm phát triển đã tạo nên làn sóng chống đối
rộng rãi, sự hình thành các phong trào giải phóng dân tộc từ châu Á sang
châu Phi và châu Mỹ Latinh. Mục tiêu chung của các phong trào đó là giải
phóng dân tộc và bước đầu thể nghiệm mơ hình phát triển phù hợp với các
điều kiện đặc thù của mình. Đây là cơ hội để những học thuyết, những tư
tưởng tích cực, khoa học có dịp phổ biến rộng rãi. Cuộc đấu tranh giành
độc lập của các dân tộc bị áp bức, kết hợp với phong trào đấu tranh địi các
quyền lợi chính trị và kinh tế của công nhân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác trong các nước tư bản đã làm nảy sinh khả năng mới _ cách
mạng dân tộc và cách mạng xã hội. Vào thời Mác và Ăngghen, vấn đề này
chỉ mới được đặt ra: hai ông phác thảo những dự báo có tính khoa học về
tiến trình lịch sử - xã hội, khi phân tích các mâu thuẫn nảy sinh trong lòng
CNTB. V. I. Lênin đã phát triển tiếp tục những tư tưởng nền tảng của chủ
nghĩa Mác lên tầm cao mới, trong điều kiện mới, và biến khả năng thành
hiện thực, biến dự báo thành hành động cách mạng, trên cơ sở phân tích và
tổng hợp những đặc điểm của CNTB thế kỷ XX và của phong trào cách
mạng thế giới.
7
Nghiên cứu, hiểu các tác phẩm của Lênin không thể khơng tính đến
điều kiện nước Nga. Nước Nga to lớn nhưng phát triển với nhịp độ hết sức
chậm chạp do sức ỳ của quan hệ xã hội và sự bảo thủ trong tư duy chính trị
của giới cầm quyền. Một nước Nga nhiều khuynh hướng, nhiều sắc thái tư
tưởng khác nhau, từ chủ nghĩa cải lương đến chủ nghĩa bảo hồng, từ chủ
nghĩa xã hội cơng xã đến chủ nghĩa cấp tiến cực đoan. Là khâu yếu nhất
của CNĐQ, nước Nga thực sự là túi chứa những cuộc vận động xã hội từ
châu Âu phổ biến sang. Chính trong điều kiện đó cuộc đấu tranh của V. I.
Lênin và những người cùng chí hướng nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác trên cơ sở điều kiện đặc thù của nước Nga và thế giới mới, mang ý
nghĩa của bước đột phá tư tưởng thực sự, cho thấy sự nhạy bén khoa học và
bản lĩnh chính trị của họ.
Ở buổi giao thời giữa hai thế kỷ, trong sinh hoạt tinh thần ở các nước
châu Âu diễn ra những chuyển biến khá phức tạp. Xu hướng hoài nghi, bi
quan lịch sử và hư vô chủ nghĩa ảnh hưởng đến một bộ phận dân chúng,
nhất là tầng lớp trí thức và giới trẻ. Thuyết Mantuýt đầu thế kỷ XIX, được
bổ sung bằng thuyết Đácuyn xã hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, biện
minh một cách gián tiếp chính sách đơ hộ của CNĐQ đối với các nước
nhược tiểu; sự xuất hiện “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”... Tất cả các
học thuyết ấy đan xen và thay thế nhau, tạo nên bức tranh tư tưởng đầy
mâu thuẫn trong bối cảnh CNTB phát triển lên hình thức hồn bị của mình.
V. I. Lênin một mặt kiên trì bảo vệ chủ nghĩa Mác, mặt khác bổ sung
và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
thế giới và xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, mối quan tâm đặc biệt của
V. I. Lênin là chiến lược và sách lược cách mạng, xây dựng phép biện
chứng của sự phát triển xã hội, chú trọng hơn nữa đến nhân tố chủ quan.
Khi đặt các tác phẩm của Lênin trong bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, ta dễ dàng nhận thấy dấu ấn thời đại trong các bài viết hướng
đến những điểm nóng của thực tiễn xã hội.
8
Vào thời mình, V. I. Lênin tiếp xúc với chủ nghĩa Mác từ nhiều
nguồn, trong đó có các phong trào dân chủ - xã hội từ các nước Tây Âu du
nhập và phổ biến vào nước Nga, kết hợp với sự tìm hiểu trực tiếp của ơng
về các tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen dưới dạng nguyên bản hoặc
qua phân tích (chẳng hạn các tác phẩm lý luận từ lập trường mácxít của
Plêkhanốp). Vai trị của Lênin là ở chỗ, ông một mặt bảo vệ chủ nghĩa Mác
trong cuộc đấu tranh chống lại sự hạ thấp và sự xuyên tạc giá trị của chủ
nghĩa Mác, mặt khác vượt qua khuôn mẫu, không lấy các phác thảo lý luận
đã có làm thước đo bất biến cho hiện tại, mà lấy những vấn đề của hiện tại
để không chỉ làm sáng tỏ chân lý đã tìm ra, mà cịn thẩm định ngay tính
hợp lý của nó, từ đó buộc nó cũng phải được điều chỉnh, bổ sung và làm
mới.
V. I. Lênin đã để lại cho nhân loại, cho phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế một di sản trí tuệ, tinh thần cực kỳ to lớn. Và, việc nghiên cứu
các tác phẩm kinh điển của Lênin có nghĩa là nghiên cứu di sản tư tưởng
của người tạo ra nó trong một thời điểm lịch sử khác với ngày nay. Do vậy,
ngồi sự tìm hiểu độc lập rất cần tinh thần đối thoại thẳng thắn, cởi mở,
nhằm thừa kế, phát triển, nhận thức và vận dụng sáng tạo những luận điểm
nền tảng trong điều kiện lịch sử mới. Ngược lại, việc biến các luận điểm
triết học của thời trước thành những chân lý bất biến, tuyệt đỉnh, những bài
học thuần túy giáo huấn, khẳng định một chiều là trái với tính mở, tính
sáng tạo vốn có của nó thể hiện rõ ở phép biện chứng duy vật. Hay, nghiên
cứu, tìm hiểu tác phẩm kinh điển của V. I. Lênin phải ln ln gắn với
hồn cảnh lịch sử cụ thể, đảm bảo tính quy định lịch sử của giai đoạn
Lênin.
Đồng thời, ln có sự liên hệ tư tưởng giữa các tác phẩm của V. I.
Lênin với các tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen nhằm làm sáng rõ
hành trình tư tưởng của các ơng; sự nhất qn, tính kế thừa và phát triển
của học thuyết mácxít, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
9
Quan điểm của V.I. Lênin về chính đảng kiểu mới của giai cấp công
1.2.
-
nhân:
Theo V.I.Lênin việc xây dựng một đảng kiểu mới, Macxit cách mạng của
giai cấp công nhân là xuất phát từ những tiền đề khách quan.
Trước hết đó là nội bộ các đảng xã hội – dân chủ đã có sự phân hóa về
tư tưởng, chính trị và tổ chức. Các kỳ đại hội của các đảng, cũng như của
Quốc tế II đã trở thành vũ đài đấu tranh gay gắt giũa những người xã hội –
dân chủ cách mạng và bọn cơ hội xét lại. Cuộc đấu tranh ấy đã trở nên cực
kỳ phức tạp do chủ trương điều hòa giữa phái tả và phái hữu. Cho nên các
đại hội đã không thể giải quyết một cách Macxit nhiều vấn đề cấp bách của
phong trào công nhân, gắn liền với cuộc đấu tranh giành chính quyền và
thiết lập chun chính vơ sản.
Trong những trường hợp bọn xét lại không thể ảnh hưởng đến nghị
quyết của Đại hội thì chúng coi thường những nghị quyết ấy và làm bất cứ
việc gì để phá hoại những nghị quyết ấy trong thực tiễn. Do đó những biểu
hiện của cuộc khủng hoảng trong các đảng xã hội – dân chủ và trong Quốc
tế II ngày càng rõ nét, báo trước sự sụp đổ của nó.
Mặt khác, trong hàng ngũ của Quốc tế II đã hình thành một trào lưu
cách mạng triệt để bảo vệ sự thống nhất quốc tế của phong trào công nhân.
Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển
của chủ nghĩa xã hội khoa học và sự xuát hiện của Đảng Vơ sản kiểu mới
đầu tiên, Đảng Bơnsêvíc, đã có ý nghĩa quyết định.
Ngoài ra, trước nguy cơ chiến tranh đế quốc sắp nổ ra, tình thế cách
mạng đã xuất hiện, cần phải có một đảng kiên quyết cách mạng, có đường
lối chiến lược sách lược đúng đắn để lãnh đạo giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động giành chính quyền. Khi chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra,
trong tác phẩm “Về khẩu hiệu liên bang Châu Âu”(1915) và “Cương lĩnh
quân sự của cách mạng vô sản”(1916), Lênin đã đi đến kết luận: CNXH có
khả năng tháng lợi cùng một lúc trong tất cả các nước hay phần lớn các
10
nước tư bản. Ông chủ trương biến chiến tranh đế quốc chủ nghĩa thành nội
chiến…
Những cố gắng lâu dài của Lênin nhằm lập ra một đảng kiểu mới kết
thúc bằng việc khai trừ bọn Mensêvíc và tập hợp hồn tồn những người
Bơnsêvíc thành một đảng độc lập (tại Praha năm 1912).
-
Theo Lênin, Đảng kiểu mới, đảng Macxit cách mạng của giai cấp công
nhân cần phải tuân theo những nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất, về tư tưởng, Đảng lấy chủ nghĩa Mác, lý luận
CNXHKH làm nền tảng tư tưởng.
Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác, lý luận CNXHKH làm nền tảng tư
tưởng bởi vì chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới
có khả năng làm trịn vai trò chiến sĩ tiên phong. Chủ nghĩa Mác, lý luận
CNXHKH là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, song khơng do chính giai
cấp cơng nhân khái qt nên lúc đầu nó nằm ngồi phong trào cơng nhân.
Vì vậy GCCN chỉ có ý thức giác ngộ CNXH khi đảng Macxit đưa
CNXHKH vào phong trào. Phong trào công nhân chịu sự tác động của cả
hệ tư tưởng XHCN lẫn hệ tư tưởng tư sản nên mọi sự coi nhẹ, xa rời hệ tư
tưởng XHCN cũng có nghĩa là tạo điều kiện để tăng cường hệ tư tưởng tư
sản. Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của Đảng Vô sản cách mạng là bảo vệ
sự trong sáng của hệ tư tưởng XHCN, vận dụng nó một cách sang tạo để
dẫn dắt phong trào công nhân giành nhiều thắng lợi. Chống tư tưởng tư sản
và các tư tưởng phi vô sản khác.
Nguyên tắc thứ hai, về tổ chức, đảng là một bộ phận của GCCN. Song
là bộ phận tiên phong, giác ngộ nhất, cách mạng nhất của GCCN. Đảng
khơng phải là tồn bộ giai cấp nhưng đại biểu cho lợi ích của tồn bộ
phong trào. Đảng được xây dựng bằng cách tuyển lựa những người cách
mạng ưu tú trong GCCN và nhân dân lao động, trung thành nhất với sự
nghiệp cách mạng của Đảng và GCCN. Đảng được xây dựng theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, một khối thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động.
Kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm minh trên cơ sở tự giác cao và bình
11
đẳng, dân chủ trong đảng. Đảng phải luôn luôn gắn bó máu thịt, trước hết
với GCCN và sau đó là nhân dân lao động, lãnh đạo họ và các tổ chức vơ
sản khác. Đảng phải thực hiện tự phê bình và phê bình đối với từng đảng
viên và nội bộ đảng…Những nguyên tắc trên đây vừa là cơ sở vừa là kết
quả rút ra từ sự tổng kết trong quá trình xây dựng Đảng kiểu mới – Đảng
Bơnsêvíc.
Ngun tắc thứ ba, về chính trị, Đảng phải kiên định trên lập trường
GCCN, trung thành với lợi ích của GCCN và nhân dân lao động. Có trí tuệ,
năng lực xây dựng cương lĩnh cách mạng đúng đắn và trình độ tổ chức thực
hiện trong thực tiễn cách mạng. Trong việc xây dựng cương lĩnh phải xuất
phát từ điều kiện lịch sử cụ thể, vận dụng sáng tạo những nguyên lý lý luận
của CNXHKH, tránh giáo điều, chủ quan duy ý chí. Vì thực tiễn luôn luôn
là tiêu chuẩn của chân lý. Phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện đế quốc
chủ nghĩa, Lênin đã đề ra cương lĩnh đúng đắn cho GCCN trong cuộc cách
mạng dân chủ ở Nga năm 1905: giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng, động lực chính là lien minh giữa GCCN và giai cấp nông dân
do GCCN lãnh đạo.Phương pháp cách mạng là khởi nghĩa vũ trang lật đổ
chế độ chuyên chế. Mục tiêu cách mạng là thiết lập nền cộng hịa dân chủ,
chính phủ lâm thời là cơ quan chính trị của chuyên chính dân chủ cách
mạng của GCCN và nơng dân. Phải tiền hành cách mạng dân chủ đến thắng
lợi triệt để (mang dấu ấn vô sản), tạo ra những điều kiện để trực tiếp
1.3.
-
chuyển sang cách mạng XHCN.
Quan điểm của V.I.Lê nin về cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới:
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản xét về mặt địa vị lịch sử
đã tỏ ra lỗi thời và lạc hậu, thậm chí phản động. Đứng giữa hai gọng kìm là
chế độ chuyên chế và phong trào cách mạng của công nông, GCTS do bản
chất là tư hữu, vụ lợi và nhát gan đã tìm cách thỏa hiệp với chế độ chuyên
chế để chống lại phong trào cách mạng của nhân dân. Do đó GCCN khơng
chỉ là lực lượng tiên phong lãnh đạo trong phong trào cách mạng XHCN,
mà còn phải là lực lượng tiên phong chiến đấu cho nền dân chủ, là giai cấp
12
lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ - tư sản, đánh đổ chế độ chuyên chế,
chuẩn bị những điều kiện để mở rộng cuộc đấu tranh giai cấp của GCCN
chống GCTS, tiến lên làm cách mạng XHCN.
Nước Nga vào đầu thế kỷ XX đã xuất hiện những điều kiện khách
quan và chủ quan để GCCN thông qua đảng xã hội - dân chủ giành lấy vai
trò lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Những điều kiện đó là: Giai
cấp công nhân Nga trở thành đội tiên phong của giai cấp vô sản quốc tế.
Phong trào cách mạng của GCCN Nga khơng thể thực hiện được mục đích
cuối cùng của mình là xóa bỏ CNTB, nếu nó khơng tham gia và lãnh đạo
cách mạng dân chủ, khơng xóa bỏ triệt để những tàn tích nặng nề của chế
độ nơng nơ – đang là lực cản to lớn kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất và tiến bộ xã hội. Nước Nga đầu thế kỷ XX là trung tâm của cách
mạng thế giới, được sự cổ vũ của phong trào cách mạng của GCVS thế
giới, đồng thời nó phải làm tròn nhiệm vụ đi đầu giải quyết những vấn đề
của thời đại mới đặt ra, đặc biệt là đối với phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Giai cấp công nhân Nga đã được tôi luyện
trong đấu tranh cách mạng, giành nhiều thắng lợi trong cuộc chiến đấu
chống chế độ chuyên chế và điều hết sức quan trọng là phong trào đã phải
ở trình độ tự giác, tức đã có chính đảng của riêng mình. Do đó GCVS Nga
khơng những có thể mà cần phải giành lấy vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng
-
dân chủ.
Cuộc cách mạng dân chủ tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa phải là
cuộc cách mạng nhân dân. Trong cuộc cách mạng này toàn thể nhân dân là
người đã đề ra nhiệm vụ cho mình phải lật đổ chế độ chuyên chế và thành
lập Quốc hội lập hiến, quần chúng nhân dân cũng là người thực hiện nhiệm
vụ, người sáng tạo ra những trật tự xã hội mới. Mục tiêu đấu tranh và nhu
cầu của toàn dân là đem lại lợi ích cho tồn dân. Cho nên cách mạng là
ngày hội của những người bị áp bức và bóc lột.
Nền tảng của cuộc cách mạng nhân dân là liên minh của giai cấp công
nhân với quảng đại quần chúng nhân dân lao động phi vô sản, trước hết là
13
với nông dân.Liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là tất
yếu và cần thiết, bởi nó quyết định quy mơ của cách mạng, quyết định sự
thành công của cách mạng. Liên minh công - nông là cần thiết còn xuất
phát từ yêu cầu khách quan của cả hai giai cấp vô sản và nông dân. Trong
cách mạng dân chủ, nông dân là lực lượng cách mạng to lớn, nếu được
cách mạng giáo dục nhất định họ sẽ trở thành thành lũy của cách mạng và
chế độ cộng hịa. Tuy nhiên nơng dân là một giai cấp không thuần nhất và
không được kiên định, họ không tự đại diện cho mình, nếu muốn tìm sự
lãnh đạo của một đảng cách mạng và cộng hòa, đáp ứng được nguyện vọng
của họ là ruộng đất và tự do dân chủ. Do vậy, liên minh công – nông phải
do giai cấp vơ sản lãnh đạo.
Từ phân tích lý luận và tổng kết thực tiễn cách mạng, Lên in còn đưa
-
ra đường lối liên minh công – nông trong cách mạng XHCN.
Quan điểm của V.I.Lê nin về con đường, hình thức và phương pháp đấu
tranh cách mạng:
Con đường và hình thức đấu tranh cách mạng. Thực tiễn đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho thấy hình thức
và thủ đoạn đấu tranh là cực kì phong phú. Từ những cuộc bãi cơng kinh tế
lẻ tẻ đến cuộc bãi cơng chính trị, từ đấu tranh hịa bình trong nghị trường
đến khởi nghĩa vũ trang của quần chúng hoặc kết hợp bãi cơng chính trị của
quần chúng với khởi nghĩa vũ trang trong thời kỳ bão táp cách mạng.
Trong cách mạng dân chủ, khởi nghĩa vũ trang là tất yếu để đi đến thắng lợi
quyết định. Chính các giai cấp phản động thường là những kẻ đầu tiên hay
dùng đến sức mạnh quân sự, lực lượng vũ trang, nội chiến một cách điên
cuồng và ngoan cố.
Việc sử dụng bạo lực cách mạng để phá đổ một kiến trúc thượng tầng
chính trị đã lỗi thời là hết sức cần thiết. Nhưng bạo lực cách mạng là không
đồng nhất với đấu tranh vũ trang, sử dụng sức mạnh quân sự. Bạo lực cách
mạng là toàn bộ hành động đấu tranh chính trị của nhân dân lao động do
đảng lãnh đạo, nằm ngồi khn khổ pháp luật của nhà nước thống trị,
14
nhằm mục tiêu lật đổ chính quyền thống trị, thiết lập chính quyền mới của
-
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
Vấn đề chính quyền trong cách mạng dân chủ. Đây chính là tư tưởng coi
vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng.
Chính phủ cách mạng lâm thời là mục tiêu đầu tiên căn bản của cuộc
cách mạng dân chủ, là chính phủ thay thế chính phủ phong kiến đã bị lật
đổ, là biểu hiện thắng lợi quyết định của cách mạng đối với chế độ chuyên
chế, và là một trong những điều kiện để chuyển biến sang cách mạng
XHCN.
Do tầm quan trọng của chính phủ cách mạng lâm thời đối với cách
mạng dân chủ, nên đảng xã hội – dân chủ coi vấn đề chính phủ cách mạng
lâm thời là điểm trung tâm của những vấn đề sách lược của đảng. Trong bất
kỳ trường hợp nào, đảng phải dựa vào quần chúng làm áp lực, bảo vệ
những thành quả cách mạng, đấu tranh khơng khoan nhượng chống những
mưu đồ phản cách mạng.
Chính phủ cách mạng lâm thời cũng là một hình thức nhà nước, nó
phải hành động một cách chun chính, chỗ dựa của chun chính ấy là
GCVS và nơng dân. Nhiệm vụ của chuyên chính dân chủ là tiêu diệt những
vết tích của chế độ chuyên chế, mà chưa hề đụng chạm tới những cơ sở của
CNTB. Do đó, tất yếu phải đưa đến một cuộc đấu tranh mới, trên cơ sở
những trật tự mới để hồn tồn giải phóng GCCN khỏi mọi sự áp bức và
-
mọi sự bóc lột.
Sự chuyển biến cách mạng dân chủ thành cách mạng XHCN.
Cách mạng dân chủ dù giành được thắng lợi thì GCVS và nhân dân
lao động vẫn chưa được giải phóng hồn tồn. Mâu thuẫn giai cấp giữa vô
sản và tư sản ngày càng gay gắt.
Thắng lợi của cách mạng dân chủ với việc thiết lập được chun chính
cơng – nơng thì chun chính ấy vẫn chưa phải là chuyên chính XHCN,
nên chưa đụng chạm đến cơ sở của CNTB, chưa trực tiếp ra khỏi khuôn
khổ của những quan hệ kinh tế - xã hội TBCN. Do đó, cách mạng dân chủ
phải chuyển thành cách mạng XHCN.
15
Ngay trong cách mạng dân chủ GCVS và đảng của nó đã phải có ý thức
đầy đủ và phải tích cực chuẩn bị những điều kiện cho sự chuyển biến. Phải
thấy rõ mối quan hệ khăng khít giữa hai cuộc cách mạng, phải tiến hành
cách mạng dân chủ tới cùng, để thực hiện một cuộc cách mạng dân chủ
triệt để, để thiết lập chế độ cộng hòa.
Khi cách mạng dân chủ đã giành được thắng lợi triệt để phải chuyển
biến ngay sang cách mạng XHCN. Cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên
chế chỉ là một nhiệm vụ tạm thời, chốc lát của những người XHCN. Do đó
phải vượt qua bước thứ nhất này càng nhanh càng tốt.
Tuy nhiên cách mạng dân chủ chỉ có thể chuyển biến trực tiếp sang cách
mạng XHCN. Khi cách mạng dân chủ thắng lợi hoàn tồn và triệt để, khi
nó đã dọn đường chuẩn bị đầy đủ cho cách mạng XHCN. Cụ thể là:
Giai cấp vơ sản thơng qua chính đảng của mình đã xác lập được vai
trò lãnh đạo cách mạng dân chủ. Đây là điều kiện cơ bản nhất làm tiền đề
cho các điều kiện sau.
Liên minh giữa GCCN và nông dân đã được xác lập và củng cố.
Liên minh này là lực lượng cơ bản của cách mạng, là chỗ dựa của chun
chính cơng nơng.
Chun chính dân chủ cách mạng của GCVS và nông dân đã được
xác lập. Quá khứ và hiện tại là đấu tranh chống chế độ chuyên chế, chế độ
quân chủ, đặc quyền đặc lợi. Tương lai của nó là đấu tranh chống chế độ tư
hữu, là cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê chống lại chủ nghĩa tư bản,
là cuộc đấu tranh cho CNXH.
Thắng lợi hoàn toàn và triệt để của cách mạng dân chủ sẽ đánh dấu
bước kết thúc cách mạng dân chủ và sự mở đầu một cuộc đấu tranh kiên
quyết cho cách mạng XHCN.
Từ cuối thế ky XIX đến đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản thế giới
chuyển nhanh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tăng cường mở rộng thị
trường quốc tế và tiến hành các cuộc đấu tranh xâm lược thuộc địa. Với
quy luật phát triển không đồng đều, các nước đế quốc chủ nghĩa ngày càng
mâu thuẫn với nhau, cuối cùng chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã nổ ra
16
(1914 – 1918), nhân dân tiến bộ thế giới nói chung và nhân dân các dân tộc
thuộc địa phụ thuộc nói riêng phải gánh chịu bao tổn thất, đau thương do
cuộc chiến thanh đó gây ra. Tình hình thế giới đó làm bùng nổ một phong
trào đấu tranh gay gắt của GCCN, của nông dân và các dân tộc thuộc địa
chống giai cấp tư sản, địa chủ phong kiến và bọn thực dân đế quốc. Trung
tâm phong trào cách mạng thế giới có sự chuyển dịch từ nước Đức sang
nước Nga. Nước Nga sa hoàng bước vào con đường phát triển TBCN muộn
hơn các nước Châu Âu khác, sự phát triển TBCN ở Nga làm cho chế độ
nông nô sụp đổ, tuy nhiên giai cấp công nhân và nông dân vẫn sống trong
cảnh thống trị tàn bạo dưới chế độ Nga hồng, vì vậy quần chúng liên tục
nổi dậy đấu tranh. Cuộc chiến tranh của công nhân, nông dân, của các dân
tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và ở cả nước Nga đòi hỏi khách
quan các đảng cách mạng GCVS và các lãnh tụ của nó phải vận dụng, bảo
vệ và phát triển lý luận về chủ nghĩa cộng sản trong thời đại mới. Chính Lê
nin, ngay từ đầu những năm tháng đầu tiên tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa
Mác vào nước Nga, đã tỏ ra ngày càng xứng đáng là học trò xuất sắc của
Mác trong việc bảo vệ và phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung và lý
luận XHCN nói riêng.
Lênin trong các tác phẩm của mình bổ sung rất nhiều luận điểm của
Mác và Ănghen như liên minh GCVS, về chuyên chính vô sản, về cách
mạng vô sản của GCCN…Nhưng một lý luận hết sức quan trọng Lênin
không hề bỏ qua và kế thừa đó là tư tưởng về xã hội chủ nghĩa hay chủ
nghĩa cộng sản. Có những tác phẩm đề cập như “Nhà nước và cách mạng”.
Trong tác phẩm Lê nin nhắc lại lời của Mác trong phê phán cương lĩnh
Gota “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa có một
thời kỳ chuyển hố cách mạng xã hội nọ thành xã hội kia. Thích ứng với
thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước khơng thể là
cái gì khác hơn là chuyên chính cách mạng của GCVS..: kết luận đó Mác
dựa vào sụ phân tích vai trị của GCVS hiện nay, vào những căn cứ về sự
17
phát triển của xã hội ấy về tính chất khơng thể điều hoà được giữa những
quyền lợi đối kháng của GCVS và của GCTS. Đối với tương lai Mác
không đi vào không tưởng, mà chỉ xác định cụ thể những điều có thể xác
định được ngay từ bây giờ, là sự khác nhau giữa hai giai đoạn thấp và cao
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong cuốn phê phán cương lĩnh Gôta Mác
đã bác một cách tỉ mỷ ý kiến của Lát xan nói rằng dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, công nhân sẽ được lĩnh sản phẩm “không bị triết khấu” hoặc sản
phẩm toàn vẹn của lao động của mình” Mác vạch ra rằng trong tồn bộ sản
phẩm xã hội, phải đề ra một khoản dự trữ, một khoản để mở rộng sản xuất,
một khoản để thay những máy móc đã hao mịn…rồi trong những vật phẩm
tiêu dùng, còn phải để ra: một khoản để chi về quản lý, về trường học, về
bệnh viện, về nhà dưỡng lão…Mác vạch ra rất sáng suốt cho ta thấy xã hội
chủ nghĩa sẽ quản lý công việc như thế nào chứ không đưa ra một câu mơ
hồ, tối nghĩa và chung chung như Latxan. Mác phân tích cụ thể những điều
kiện sinh hoạt trong một xã hội khơng cịn có chủ nghĩa tư bản, và Mác nói
như sau: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây là một xã hội cộng sản, nhưng
không phải một xã hội cộng sản vừa phát triển trên những cơ sở riêng của
nó, mà một xã hội cộng sản vừa thốt ra từ chính xã hội tư sản, vì vậy, về
mọi mặt kinh tế, đạo đức, trí tuệ, xã hội ấy cịn mang những dấu vết của xã
hội cũ, xã hội đẻ ra nó”. Chính xã hội cộng sản ấy, xã hội vừa mới thoát
thai từ chủ nghĩa tư bản ra trong mọi lĩnh vực vẫn còn dấu vết của xã hội
cũ, Mác gọi là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản. tư liệu
sản xuất khơng cịn là của riêng của cá nhân nữa mà thuộc về toàn thể xã
hội. Mỗi thành viên trong xã hội khi đã hoàn thành một phần nào đó lao
động của xã hội tất yếu, thì được xã hội cấp cho một giấy chứng nhận số
lượng lao động mình đã cung cấp. Với giấy chứng nhận ấy người đó sẽ
được lĩnh trong các kho cơng cộng chứa vật phẩm tiêu dùng, cho một số
lượng sản phẩm tương ứng. Vì vậy sau khi đã khấu trừ số lượng lao động
đóng góp vào quỹ chung của xã hội, thì mỗi cơng nhân sẽ lĩnh được của xã
18
hội một phần bằng phần mình đã cống hiến cho xã hội. như vậy tức họ đã
có bình đẳng rồi. Nhưng khi Mác nói đến chế độ xã hội ấy (thường vẫn gọi
là chủ nghĩa xã hội, cịn Mác thì gọi là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản) thì Lat xan lại cho rằng làm như thế là phân phối cơng bằng, mỗi
người đều có quyền bình đẳng được hưởng một số sản phẩm ngang với lao
động của mình, Mác nhận định đây là điểm sai lầm của Latxan. Mác nói
rằng: ở đây thực ra chúng ta có quyền lợi bình đẳng nhưng vẫn cịn là
“pháp quyền tư sản”; quyền lợi này, cũng như mọi quyền lợi khác, vẫn lấy
bất bình đẳng làm tiền đề. Bất cứ quyền lợi nào cũng đều có nghĩa là áp
dụng một quy tắc duy nhất cho những người khác nhau, cho những người
thật ra thì khơng giống hệt nhau và cũng khơng ngang nhau. Cho nên
“quyền lợi bình đẳng” có nghĩa là vi phạm sự bình đẳng, là khơng cơng
bằng. Thực tế, người nào mà cống hiến một phần lao động xã hội ngang
nhau thì sẽ được lĩnh một phần sản phẩm của xã hội ngang nhau thì sẽ đựơc
lĩnh một sản phẩm xã hội ngang nhau (sau khi đã khấu trừ những sản phẩm
đã nói ở trên). Mác kết luận “tuy làm việc ngang nhau và do đó, cũng dự
phần ngang nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội, nhưng thật ra thì người này
lĩnh nhiều hơn người kia, người này giầu hơn người kia,…Muốn tránh tất
cả những điều ấy , thì quyền lợi sẽ khơng nên bình đẳng, mà nên bất bình
đẳng…” Cho nên giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chưa thể có được
cơng bằng và bình đẳng: về mặt của cải thì vẫn cịn chênh lệch, mà chênh
lệch bất cơng nữa nhưng tình trạng người bóc lột người thì khơng cịn nữa,
vì khơng ai có thể chiếm hữu tư liệu sản xuất, cơng xưởng, máy móc, đất
đai,…làm của riêng được. Trong khi bác bỏ câu nói mơ hồ và tiểu tư sản
của Latxan về bình đẳng và cơng bằng nói chung . Mác đã vạch ra tiến
trình phát triển của xã hội cộng sản, xã hội này bắt buộc lúc đầu phải phá
huỷ chỉ riêng cái điều bất công này là việc của cá nhân chiếm hữu tư liệu
sản xuất làm của riêng, nhưng không đủ sức phá huỷ ngay diều bất công,
tức là : việc phân phối vật phẩm tiêu dùng theo lao động chứ không theo
19
nhu cầu. Mác tính rất sát khơng những đến sự bất bình đẳng khơng thể
tránh được giữa người ta với nhau mà cịn tính cả đến điều sau này là chỉ
riêng bản thân việc biến tư liệu sản xuất thành sở hữu chung của toàn thể
xã hội (chủ nghĩa xã hội theo nghĩa thơng thường) Thì cũng khơng xố bỏ
được những khuyết điểm của sự phân phối và sự bất bình đẳng của pháp
quyền tư sản, pháp quyền này vẫn tiếp tục thống trị, vì sản phẩm được phân
phối theo lao động. Mác nói tiếp “...Nhưng những khuyết điểm ấy không
thể nào tránh khỏi được trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản, là một xã
hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa mà ra, sau một thời kỳ sinh đẻ
lâu dài và đau đớn. quyền lợi khơng bao giờ có thể cao hơn tình trạng kinh
tế của xã hội và cao hơn trình độ văn minh của xã hội thích ứng với tình
trạng kinh tế ấy…” Như thế là trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản
(mà người ta vẫn gọi là chủ nghĩa xã hội) pháp quyền tư sản khơng bị xố
bỏ hồn tồn, mà chỉ bị xố bỏ một phần, chỉ bị xố bỏ trong phạm vi có
liên quan đến tư liệu sản xuất thôi. “pháp quyền tư sản” thừa nhận tư liệu
sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. chủ nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất
thành tài sản chung, chính trong phạm vi ấy, và chỉ trong phạm vi ấy, pháp
quyền tư sản mới bị xoá vỏ. Nhưng trong bộ phận của nó, thì pháp quyền
ấy vẫn cịn tồn tại với tư cách là yếu tố quy định việc phân phối sản phẩm
và phân phối lao động giữa những thành viên trong xã hội. “Người nào
khơng làm thì khơng có ăn, ngun tắc xã hội chủ nghĩa ấy đã được thực
hiện, số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang
nhau, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa này nữa cũng đã được thực hiện. Nhưng
đó vẫn chưa phải là xã hội cộng sản, và điều đó vẫn chưa gạt bỏ được pháp
quyền tư sản là thứ pháp quyền cung cấp một số lượng sản phẩm ngang
nhau cho những người không ngang nhau và cho một số lượng lao động
không ngang nhau trong thực tế, Mác coi đó là một khuyết điểm, nhưng
trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản thì khơng thể tránh khỏi, vì nếu
khơng rơi vào khơng tưởng thì khơng thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghiã
20
tư bản, người ta sẽ tức khắc có thể làm việc cho xã hội mà khơng cần phải
có tiêu chuẩn pháp lý nào cả, phải chăng, việc xoá bỏ chủ nghĩa tư bản
không thể đem lại ngay được những tiến đề kinh tế cho một sự thay đổi như
vậy. Ngoài pháp quyền tư sản ra thì khơng có tiêu chuẩn khác. Do đó trong
chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn cần có nhà nước để vừa bảo vệ chế độ cơng
hữu tư liệu sản xuất, vừa bảo vệ bình đẳng về lao động và bình đẳng trong
việc phân phối các sản phẩm. Nhà nước muốn mất hẳn đi thì phải có chủ
nghĩa cộng sản.
Lê nin tiếp tục nhắc lại những lời của Mác: “Trong giai đoạn cao của
xã hội cộng sản, khi mà con người khơng cịn phụ thuộc một cách nô lệ vào
sự phân công nữa, và sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay
cũng theo đó mà khơng cịn nữa; khi mà lao động sẽ không phải chỉ là một
phương tiện để sống nữa, mà tự nó sẽ biến thành một nhu cầu bậc nhất cho
đời sống. Khi mà lực lượng sản xuất cũng tăng lên cùng với sự phát triển
toàn diện của các cá nhân và tất cả những nguồn tài phú cơng cộng đều
tn ra dồi dào, thì chỉ khi đó người ta mới có thể hồn tồn vượt khỏi giới
hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của
mình “làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu”. Lê nin nhận định, chỉ giờ
đây chúng ra mới có thể đánh giá hết được tất cả sự đúng đắn của những lời
nhận xét của Ănghen khi ông chế giễu chua cay việc gắn liền một cách vô
lý hai danh từ tự do và nhà nước. chừng nào cịn nhà nước thì chừng đó
khơng có tự do. Đến khi có tự do thì khơng cịn nhà nước nữa. Về mặt khoa
học, thì sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thật rõ
ràng. Cái mà người ta thường gọi là chủ nghĩa xã hội thì Mác gọi là giai
đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản. Trong chừng mực tư liệu
sản xuất đã biến thành sở hữu chung, thì danh từ chủ nghĩa cộng sản ở đây
có thể dùng được, miễn là đừng quên rằng đó khơng phải là chủ nghĩa xộng
sản hồn tồn. Những lời giải thích của Mác có gía trị lớn vì rằng cả ở đây
Mác cũng áp dụng một cách triệt để phép biện chứng duy vật, thuyết tiến
21
hoá và xem chủ nghĩa cộng sản là một cái gì phát triển từ chủ nghĩa tư bản
mà ra. Mác phân tích cái mà người ta có thể gọi là những mức độ chín
muồi về kinh tế của chủ nghĩa cộng sản chứ không bám vào những cuộc
đấu tranh luận vơ ích về danh từ như thế nào là chủ nghĩa xã hội, thế nào là
chủ nghĩa cộng sản . Lênin tiếp tục nhắc lại tư tưởng của Mác: trong giai
đoạn đầu, trong mức độ đầu tiên , chủ nghĩa cộng sản chưa thể hồn tồn
chín muồi về mặt kinh tế, chưa thể hồn tồn thốt khỏi những tập tục hay
những tàn tích của CNTB. Do đó có hiện tượng đáng chú ý là “cái tầm mắt
chật hẹp của pháp quyền tư sản vẫn được duy trì dưới chế độ cộng sản,
trong giai đoạn đầu của nó. Đương nhiên về mặt phân phối vật phẩm tiêu
dùng thì pháp quyền tư sản tất nhiên địi hỏi có một nhà nước kiểu tư sản,
vì pháp quyền có cũng như khơng, nếu khơng có một bộ máy đủ sức cưỡng
bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền.
Khi phân tích giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa Lê nin đã
chỉ ra những đặc trưng của xã hội cộng sản chủ nghĩa, ông đã chỉ ra những
đặc trưng cơ bản là: Lực lượng sản xuất phát triển phi thường, của cải tạo
xã hội tuôn ra tràn đầy, xã hội đã thực hiện được nguyên tắc làm theo năng
lực , hưởng theo nhu cầu” hết thảy mọi người đã học được cách quản lý và
thực sự đã tự mình quản lý nền sản xuất xã hội, dân chủ đạt đến trình độ
hồn mỹ…Đồng thời Lênin cũng đã đề cập việc các nhà tư tưởng tư sản
thường cho rằng : chế độ xã hội như vậy là thuần tuý ảo tưởng và chế giễu
việc muốn lấy của cải của xã hội bao nhiêu cũng được mà không cần kiểm
tra lao động gì cả. Lênin phê phán rằng, đó là những người ngu dốt, ngu dốt
vì khơng một người xã hội chủ nghĩa nào lại đi hứa rằng, giai đoạn cao của
chủ nghĩa cộng sản sẽ đến, cịn dự kiến nó sẽ đến thì việc đó phải giả định
rằng năng suất lao động lúc đó sẽ khác với năng suất lao động ngày nay.
Và sẽ khơng cịn người tầm thường ngày nay nữa. Còn thời điểm ngày nay
mà lại cứ lấy vấn đề đó ra làm trung tâm, chỉ chú trọng đến vấn đề đó thì
thật là buồn cười. Sự phân biệt ấy là phân biệt một cách khoa học, về mặt
22
khoa học thì cần có sự phân biệt rạch rịi như vậy. Lênin nhấn mạnh, cái vĩ
đại của Mác là ở chỗ đã áp dụng triệt để phép biện chứng duy vật, học
thuyết về sự phát triển, từ đó xem chủ nghĩa cộng sản là một cái gì phát
triển từ chủ nghĩa tư bản mà ra chứ không phải do sự tưởng tượng của đầu
óc. Khi phân tích lý luận về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản trong đó
có chủ nghĩa xã hội của C.Mác trong tác phẩm “phê phán cương lĩnh Gôta”
, Lê nin đã kế thừa quan điểm đó và đã trình bày nó một cách chi tiết và
chu đáo trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”. Các thời kỳ được Lênin
chia ra thì giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chính là chủ nghĩa xã hội.
2.
Những nội dung lý luận chủ nghĩa xã hội được Lê nin phát triển sau cách
-
mạng tháng Mười Nga đến năm 1924:
Sau cách mạng Tháng Mười, Lênin dốc tồn lực vào việc xây dựng nhà
nước Xơ viết, vào việc xây dựng CNXH. Người vạch ra con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm: “Nhiệm vụ trước mắt của chính
quyền Xơ viết” (1918). Trong vụ mưu sát ngày 30/8/1918 do bọn xã hội
cách mạng, đồng lõa với Tơrốtxki và Bukharin tổ chức, V.I.Lê nin bị
thương nặng. Trong những điều kiện vơ cùng khó khăn, GCCN do Đảng
cộng sản lãnh đạo đã bảo vệ và cứu thoát nền cộng hịa Xơ viết trẻ tuổi,
chống lại thế lực phản cách mạng trong và ngoài nước.
Những cố gắng của V.I.Lênin nhằm tập hợp các tổ chức, các lực lượng của
vô sản thế giới đã đi đến kết quả là sáng lập ra Quốc tế thứ ba (tức Quốc tế
cộng sản năm 1919). Trong tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời đại
chun chính vơ sản” (1919), Lênin làm sáng tỏ các vấn đề quá độ từ
CNTB sang CNXH. Trong bài “Sáng kiến vĩ đại” (1919) Lênin đã làm nổi
bật những đặc điểm chủ yếu của CNXH và CNCS.
Nội chiến chấm dứt, Lênin lãnh đạo công tác khôi phục kinh tế quốc
dân, lập kế hoạch điện khí hóa, lãnh đạo bước quá độ từ chính sách cộng
sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới. Lênin tiếp tục đấu tranh kịch
liệt chống bọn Tơrốtxki, Bukharin,…phá hoại sự thống nhất và tính chiến
23
đấu của Đảng…Mùa xuân 1920, Lênin viết cuốn “bệnh ấu trĩ tả khuynh”
trong phong trào cộng sản, một tác phẩm kiệt xuất về chiến lược và sách
lược của cách mạng. Tháng 3 năm 1922, người viết bài “Ý nghĩa của chủ
nghĩa duy vật chiến đấu” trong đó đã vận dụng tài tình Đảng vào lý luận
triết học
Năm 1923, trong một bài như “Những trang nhật kí”, “Bàn về chế độ hợp
tác”, “Về cách mạng nước ta”, “Cải tổ viện kiểm tra cơng nơng như thế
nào”, “Thà ít mà tốt”, Lênin đã tổng kết công tác tiến hành trong các năm
cách mạng và vạch con đường phát triển về sau của cách mạng XHCN.
Người cịn thảo ra một cương lĩnh có căn cứ khoa học cho công cuộc xây
dựng CNXH, gồm có việc cơng nghiệp hóa quốc gia, việc cải tạo nông
nghiệp nông thôn theo XHCN và xây dựng CNXH.
Từ năm 1905, Lênin đã nói về cách mạng XHCN trong tác phẩm
“Hai sách lược của đảng xã hội – dân chủ” trong cách mạng dân chủ. Trong
đó Người đã nêu lên lý luận về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản
thành cách mạng XHCN, làm sáng tỏ những đặc điểm của cách mạng dân
chủ tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Ngay từ đó, quyền lãnh đạo
của GCVS trong cách mạng tư sản, do giai cấp vô sản liên minh với nông
dân thực hiện, phải chuyển biến thành quyền lãnh đạo của GCVS trong
cách mạng XHCN do vô sản liên minh với các quần chúng lao động và bị
bóc lột khác thực hiện. Và nền chun chính dân chủ của công – nông phải
chuẩn bị cơ sở cho nền chun chính XHCN của vơ sản. Trong lý luận mới
đó về cách mạng XHCN tuy chưa có kết luận trực tiếp là CNXH có thể
trước tiên thắng lợi ở một nước riêng biệt, nhưng lý luận đó đã bao trùm
hầu hết những thành phần chủ yếu cần thiết để rút ra kết luận năm 1915.
Vào năm 1915 – 1916, trong các bài “Bàn về khẩu lệnh Liên bang
Châu Âu” và “Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô sản”, Lê nin đã nêu ra
lý luận thiên tài về cách mạng XHCN. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa,
kinh tế và chính trị phát triển khơng đều ngày càng rõ rệt, khơi sâu thêm
mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, đó cũng là nguồn gốc của chiến tranh
24
giành thì trường tiêu thụ, nguồn cung cấp nguyên liệu và chia lại thế giới.
Những cuộc chiến tranh đó làm cho lực lượng của chủ nghĩa đế quốc suy
yếu và làm cho hệ thống đế quốc chủ nghĩa có thể tan vỡ ở khâu yếu nhất.
Do đó, lúc đầu CNXH có thể thắng lợi trong vài nước tư bản hay thậm chí
trong một nước riêng biệt và CNXH khơng thể đồng thời thắng lợi trong tất
cả các nước.
Lênin cũng đã đặt vấn đề cách mạng giải phón dân tộc trong nước thuộc
địa và phụ thuộc một cách mới. Cuộc cách mạng vô sản trong các nước tư
bản và cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và phụ thuộc có thể và cần phải
hợp thành một mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc.
Cách mạng Tháng Mười đã làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý
luận đã trở thành thực tiễn. Nó chứng tỏ quần chúng nhân dân tồn thế giới
thấy sự đúng đắn của học thuyết này. Do đó đã dọn đường cho các tư tưởng
của CNXH xâm nhập vào mọi nước trên thế giới, đi vào các tầng lớp khác
nhau của nhân dân lao động.
Cách mạng Tháng Mười đã nêu một tấm gương giải quyết vấn đề
dân tộc một cách thật sự tiến bộ, xóa bỏ mọi hình thức áp bức và bất bình
đẳng dân tộc. Có một chính sách đối ngoại khác về căn bản so với của nà
nước tư sản.
Cách mạng Tháng Mười đã kết hợp thành công cuộc đấu tranh cho
CNXH của GCVS với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị
áp bức chống chủ nghĩa đế quốc. Báo hiệu sự khủng hoảng toàn diện của
hệ thống thuộc địa.
Cách mạng Tháng Mười cũng đã làm cho CNXH – dân chủ, chủ
nghĩa cải lương tư sản trên toàn thế giới bị khủng hoảng ngày càng sâu sắc.
Lênin cũng chỉ ra hai hình thức phát triển cách mạng: hình thức khơng hịa
bình và hình thức hịa bình. Song khả năng hịa bình là hết sức hiếm và khó
nên cực kỳ quý báu. Khả năng này đã xuất hiện ở Nga từ 27/2 đến
-
4/7/1917.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội.
25