Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

lich su báo CHÍ VIỆT NAM TRONG thời kì cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.55 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Báo chí là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, nó chỉ sinh ra trong
những điều kiện nhất định của lịch sử xã hội. Ngược lại những điều kiện lịch
sử, xã hội có vai trò quyết định đến sự ra đời, tồn tại, phát triển cũng như
tính chất, đặc điểm, vai trò của báo chí. Bất cứ một nền báo chí nào cũng
chịu tác động quy luật này và báo chí Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Lịch sử báo chí có thể nói cũng là một bộ phận của lịch sử dân tộc.
Gắn liền với sự phát triển của báo chí Việt Nam là sự phát triển tư tưởng,
văn hóa, ngôn ngữ….Ở mỗi thời kỳ lịch sử thì báo chí Việt Nam lại có một
dấu ấn riêng biệt.
Cụ thể trong nội dung của tiểu luận này, người viết muốn đi sâu
nghiên cứu và tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của nền báo chí
Việt Nam trong thời kỳ sơ khai, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (giai đoạn
từ năm 1861 đến năm 1930). Đây có thể coi là giai đoạn tiền đề, tạo lập nên
một nền móng vững chắc, làm cơ sở cho những bước phát triển về sau của
báo chí Việt Nam theo hướng ngày một đổi mới và hoàn thiện hơn.
Thời điểm cách đây hơn một trăm năm, tờ báo tiếng Pháp đầu tiên ở
Việt Nam ra đời (Nam kì viễn chinh công báo ra ngày 29/9/1861) trở thành
động lực và bước khởi đầu cho nền báo chí Việt Nam. Tiếp sau đó mốc son
đánh dấu chính thức sự ra đời của tờ báo tiếng Việt đầu tiên là Gia Định báo
vào ngày 18/4/1865. Từ đây báo chí Việt Nam chính thức phát triển.
Nghiên cứu một giai đoạn có ý nghĩa của lịch sử đất nước nói chung,
lịch sử ngành báo chí nói riêng đối với sinh viên báo chí là công việc quan
trọng không thể thiếu, nó sẽ cung cấp rất nhiều những tri thức về nghề
nghiệp và kiến thức lịch sử dân tộc. Thông qua đó sinh viên có cơ hội mở
rộng vốn hiểu biết về nghề nghiệp, có những thái độ tình cảm đúng mực với


lịch sử, yêu nghề hơn và những kiến thức đó là hành trang cần thiết để sinh
viên vững vàng hơn khi bước vào cuộc đời và vào nghề sau này.


I. Những điều kiện ra đời của báo chí Việt Nam thời kì
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX:
1. Hoàn cảnh lịch sử, chính trị:
Cuối thế kỉ XIX là thời kì suy thoái của chế độ phong kiến. Nhà
Nguyễn lúc này suy yếu, mâu thuẫn, chia bè phái, tranh đấu nội bộ… không
còn khả năng tự chủ và mất dần vai trò trên chính trường.
Trong khi đó tình hình đất nước vô cùng rối ren, phức tạp:


Về mặt kinh tế nhà Nguyễn thực hiện chính sách bế quan tỏa

cảng, không quan hệ buôn bán với bên ngoài, đặc biệt là đối với phương
Tây.


Về chính trị nhà Nguyễn thực hiện chính sách đàn áp nhân dân,

đối lập lại với lợi ích của dân tộc.


Về văn hóa, nhà Nguyễn vẫn duy trì nền giáo dục Nho học đã

lạc hậu, không còn phù hợp với xu thế của thời cuộc, khoa học tự nhiên
không phát triển, trên 90% dân số mù chữ.


Về xã hội, mâu thuẫn giữa địa chủ phong kiến với nhân dân lao

động ngày càng sâu sắc. Khởi nghĩa nổi lên ở nhiều nơi, với nhiều khuynh
hướng khác nhau.

Trong khi đó, thế giới đã thay đổi từng ngày, chủ nghĩa tư bản đã trở
thành hệ thống trên thế giới, công cuộc khai thác thuộc địa đã được tiến
hành trên quy mô toàn cầu. Bán đảo Đông Dương là miếng mồi ngon của
thực dân phương Tây, đặc biệt là Anh và Pháp. Việt Nam lại càng có lợi thế
chiến lược quan trọng đối với các nước thực dân bởi có vị trí địa lí thuận lợi,
tài nguyên dồi dào, dân cư đông…nên ngay từ sớm thực dân Pháp đã coi đây
là mục tiêu phải chiếm bằng được. Vì thế, công cuộc xâm lược An Nam đã
được tiến hành từ rất lâu.
2


Sự kiện đánh dấu thực dân Pháp hoàn thành công cuộc xâm lược Việt
Nam là Hiệp ước Patơnốt ký vào ngày 6/6/1884. Chính thức từ đây Việt
Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Công cuộc khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp đã được tiến hành trên toàn cõi Đông Dương. Lần lượt cuộc khai
thác thuộc địa lần 1 (1897-1914), và cuộc khai thác thuộc địa lần 2 (19191929) đã được tiến hành rộng rãi phục vụ cho tư bản Mẫu quốc phát triển.
Có thể nói chương trình khai thác thuộc địa một cách toàn diện, vơ vét tài
nguyên, độc chiếm thị trường hàng hóa, bóc lột nhân công,… đã làm cho bộ
mặt kinh tế của Việt Nam có phần thay đổi. Đi kèm với chính sách bóc lột
về kinh tế là hàng loạt chính sách về chính trị, văn hóa. Đặc biệt để bình
định và cai trị một dân tộc như người An Nam không phải dễ dàng. Bởi vậy
thực dân Pháp đã đưa ra chính sách rất thâm độc về văn hóa, thi hành ngu
dân, nô dịch và phá hoại truyền thống của người Việt Nam, đưa văn hóa
thực dân, đưa những luồng tư tưởng đồi trụy, phản động vào Việt Nam nhằm
mục đích bình định và thống trị lâu dài thuộc địa này.
Một trong những công cụ để duy trì sự thống trị, nô dịch văn hóa,
phục vụ cuộc khai thác thuộc địa và mị dân đó là báo chí. Chính nguyên
nhân này đã thúc đẩy báo chí xuất hiện tại Việt Nam trong giai đoạn này.
Nhìn chung đa phần những tờ báo tiếng Pháp, tiếng Việt ra đời đều đặt dưới
sự kiểm soát và kiểm duyệt gắt gao của thực dân Pháp và đều phục vụ cho

mục đích chính trị của chúng. Có thể thấy thực dân Pháp ngay từ sớm đã
thấy sức mạnh và vai trò của báo chí trong đời sống văn hóa, chính trị và
trong công cuộc mà chúng gọi là “ khai hóa”.
Nhưng cũng thật thiếu sót nếu không nói đến những phong trào đấu
tranh của nhân dân dưới chế độ thực dân phong kiến, những hoạt động của
các nhà yêu nước, nhà hoạt động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Hồ Chí Minh… với nhiều hình thức như công khai, bán công khai, họ

3


đã sử dụng rất nhiều những phương tiện, cách thức đấu tranh. Một trong
những phương tiện quan trọng là thơ văn, báo chí.
Như vậy, qua những nét phác thảo cơ bản về tình hình lịch sử, chính
trị của giai đoạn này chúng ta thấy động lực trực tiếp và đầu tiên để báo chí
xuất hiện tại Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đó là sự xâm lược
của thực dân phương Tây. Quá trình xâm lược và bình định Việt Nam của
thực dân Pháp đã du nhập những yếu tố của xã hội tư bản, đó là báo chí. Báo
chí xuất hiện là một điều tất yếu của lịch sử. Nó ra đời gắn liền với sự xâm
lược của thực dân nên về bản chất cũng gắn bó chặt chẽ với thực dân.
2. Điều kiện về khoa học kĩ thuật, công nghệ in ấn:
Thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp cuối thế kỉ XVIII đầu thế
kỉ XIX và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1871-1914) đã làm thay
đổi bộ mặt toàn bộ nền kinh tế xã hội của cả thế giới, đặc biệt là những quốc
gia tư bản chủ nghĩa như Anh, Pháp, Hoa Kì, Đức, Hà Lan…Những nước
này nhanh chóng áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật đó vào mọi mặt
của đời sống xã hội.
Trong những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp không thể
không nhắc đến công nghệ in ấn và phát hành. Máy in ra đời từ thế kỉ XVI,
sang đến đầu thế kỉ XIX, công nghệ in tipô đã xuất hiện do ông tổ của ngành

in là nhà sáng chế người Đức - Johan Gutenbey phát minh ra. Công nghệ in
tipo đã làm thay đổi lớn về mặt in ấn trên thế giới. Đặc biệt trong lĩnh vực in
ấn và phát hành sách, báo, tạp chí… đã thuận lợi hơn rất nhiều. Báo chí thế
giới nói chung trong giai đoạn này có điều kiện được phổ biến rộng rãi hơn,
tăng nhanh về số lượng, giảm thời gian in ấn, phát hành nhanh chóng.
Mặc dù là một vùng thuộc địa lạc hậu, ít quan hệ với bên ngoài nhưng
xu thế phát triển và tiến bộ của khoa học công nghệ trên thế giới cũng như
những phương thức sản xuất mới đã tác động ngày càng mạnh mẽ vào Việt
Nam thông qua con đường khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Có thể
4


thấy đây cũng là một mặt tích cực của cuộc khai thác thuộc địa. Ở một khía
cạnh nào đó, chủ nghĩa tư bản Pháp làm cho phương thức sản xuất và công
nghệ, kĩ thuật của Việt Nam có bước phát triển.
Năm 1861 đô đốc Bôna làm thống đốc đầu tiên của Pháp tại Nam kì
đã đem máy in và thợ in sang Việt Nam . Sự kiện này đánh dấu một bước
tiến lớn trong công nghệ in ấn tại nước ta và là bước khởi đầu cho báo chí in
ấn xuất hiện tại Việt Nam .
Như vậy có thể thấy sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật, đặc biệt là công
nghệ in ấn thời kì này đã trở thành một nhân tố thúc đẩy báo chí thế giới
phát triển. Trong điều kiện là một thuộc địa quan trọng của thực dân Pháp
thì những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới đã có ảnh
hưởng nhất định đến sự xuất hiện của báo chí tại Việt Nam . Mặc dù công
nghệ mới chưa phổ biến trên cả ba kì nhưng nó đã đáp ứng cho sự ra đời của
những tờ báo đầu tiên tại Nam kì.
3. Nhu cầu thông tin mạnh mẽ:
Sang cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX cũng là thời kì phát triển mạnh
mẽ của các nền văn hóa trên thế giới. Sự giao lưu văn hóa, trao đổi tri thức
diễn ra trên quy mô toàn cầu. Trao đổi thông tin, tri thức trở thành một nhu

cầu tất yếu ở tất cả các nước trên thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế này. Khi làn sóng thực dân tràn vào, tiếp xúc với một nền kinh tế, văn
hóa ngoại lai xa xôi nhưng lại rất hùng cường khiến rất nhiều giới tri thức,
những nhà yêu nước, những người bình dân cũng không khỏi tò mò. Tại sao
họ lại có thể hùng cường, phát triển đến vậy, những từ ngữ như “văn minh,
tiến bộ, tư bản, phương tây, khai hóa…” là những điều còn rất xa lạ với
người An Nam.
Chính vì thế ngay trong xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến nhu cầu
về thông tin đã nảy sinh. Con người trong xã hội thuộc địa muốn có thông
tin về bên ngoài, về những điều mà thực dân giao giảng. Do đó những làn
5


sóng như: đông du, du học tại các nước tư bản phương Tây, xuất ngoại…
diễn ra phổ biến. Chính từ những con đường ấy, báo chí nước ngoài có cơ
hội vào Việt Nam để đáp ứng những nhu cầu thông tin đang “khát” của
nhân dân trong nước.
Như vậy có thể thấy trong xã hội Việt Nam đã tiềm tàng những nhu
cầu về thông tin, tri thức, thứ mà chỉ có một phương tiện dễ nhất, nhanh nhất
và hiệu quả nhất để có thể đáp ứng nhu cầu ấy – báo chí. Do đó khi báo chí
xuất hiện thì nhu cầu về thông tin của người Việt Nam sẽ như làn sóng mạnh
mẽ bị bùng nổ. Điều này cho thấy trước một điều là: sớm hay muộn báo chí
cũng sẽ xuất hiện và chiếm lĩnh vai trò, vị thế đáng kể trong đời sống xã hội.
Mặt khác, việc phục vụ nhu cầu của bộ máy chính quyền thực dân
phong kiến như: những công báo, những chỉ thị, điều luật mới ban hành…
của chính phủ thuộc địa Pháp và đặc biệt nhằm thực hiện công cuộc “khai
hóa” và chính sách nô dịch văn hóa, truyền bá những tư tưởng mị dân…
ngày càng cần thiết và đã trở thành nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời báo
chí tại Việt Nam. Cho dù là phục vụ đối tượng nào, mục đích gì thì mọi
taanfgf lớp trong xã hội đã có những nhu cầu to lớn từ báo chí. Đây là điều

kiện quan trọng thúc đẩy việc cần phải có những phương tiện thông tin như
báo chí để đáp ứng nhu cầu này.
Nói tóm lại thông qua những điều kiện cơ bản trên, báo chí đã ra đời
tại nước ta trong thời kì cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Trong hoàn cảnh về
chính trị, xã hội nửa thực dân, phong kiến và cũng ra đời trong một xã hội
có nhu cầu rất lớn về thông tin và trao đổi thông tin.

6


II. Bức tranh phát triển của báo chí Việt Nam cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX:
Như đã nói ở trên, đây là thời kì đầu của báo chí Việt Nam. Tuy là
thời kì mới ra đời nhưng báo chí đã có sự phát triển mạnh mẽ. Với hai loại
hình chủ yếu là báo và tạp chí, đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung
và phương thức phát hành. Có thể nhận định báo chí Việt Nam trong giai
đoạn này đã nở rộ, không những tiếng Pháp mà báo chí tiếng Việt cũng phát
triển nhanh chóng trên khắp Bắc kì, Trung kì, Nam kì. Với những tờ báo nổi
tiếng như Gia định báo, Lục tỉnh tân văn, Nông cổ mín đàm, Đại Việt quan
báo,…và gắn liền với những nhân vật nổi tiếng như Truơng Vĩnh Kí, Phạm
Quỳnh, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Tích Chu…
Có thể chia báo chí giai đoạn này thành hai thời kì lớn, đó là thời kì
của những tờ báo đầu tiên và thời kì những năm đầu thế kỉ XX.
1. Thời kì những tờ báo đầu tiên (cuối thế kỉ XIX):
Có 4 tờ báo lớn bằng tiếng Pháp ra đời sớm nhất tại Nam kì đã mở
đầu cho kỉ nguyên báo chí của Việt Nam đó là:
*Nam kì viễn chinh công báo ra đời ngày 29/9/1861, phát hành một
tuần/số. Nội dung của báo là tuyên truyền công việc hoạt động của chính
quyền thực dân Pháp tại Việt Nam , đăng tải những thông báo, quy định,
nghị định của Pháp tại Việt Nam .

*Xã thôn công báo ra đời năm 1862, khi Pháp chiếm 3 tỉnh Nam kì.
Nội dung là thông báo những biện pháp thi hành của viên thống đốc chỉ huy
trưởng, thiết lập nền an ninh trật tự tại miền đất mà Pháp chiếm đóng.
*Thời báo Sài Gòn ra đời năm 1864 với nội dung thông tin về sự
phát triển và nở rộ quan hệ buôn bán tại Việt Nam .
*Nam kì kĩ nông công báo ra đời năm 1865 chuyên bàn về kinh tế
công nghiệp và nông nghiệp.

7


Ngoài ra còn có những tờ báo bằng tiếng Pháp khác như: Sài Gòn
độc lập (1873), Sài Gòn nhật báo(1880), Người Sài Gòn(1883), Sông Mê
Công(1892), Công luận(1899)…
Báo chí tiếng Pháp trong thế kỉ này tăng trưởng và phát triển khá
nhanh, điển hình như: Công báo của ủy ban công thương của Bắc kì và
Trung kì (1883), Tương lai của bắc kì (1884), Tin tức Hải Phòng, Bắc kì độc
lập…
*Gia Định báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên đã ra đời ngày 18/4/1865,
do Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.

Một trang của tờ Gia Định báo
Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân
Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ. Gia Định báo có khổ 25x32cm và
giá 0,97 đồng/tờ. Thời gian đầu, báo ra mỗi tháng 1 kỳ vào ngày 15 hàng
tháng. Sau đó tăng lên ra mỗi tháng 2 kỳ, rồi mỗi tuần 1 kỳ, tuy nhiên ngày
ra báo của Gia Định báo không cố định, khi thì thứ ba, thứ tư, lúc lại thứ

8



bảy. Số trang của Gia Định báo cũng không cố định, khi thì 4 trang, lúc 12
trang.

Đường D’Adran (Hồ Tùng Mậu ngày nay) –
một trong những địa chỉ từng in tờ Gia Định báo
Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: công vụ và tạp
vụ. Phần công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền, đăng
các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân; còn
phần tạp vụ gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo,
văn hóa - xã hội... Sau khi Trương Vĩnh Ký lên làm giám đốc, Gia Định báo
có thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo
cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích... Ông đề ra ba mục đích cho tờ
báo: Truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân học và khuyến học trong dân. Từ
đó, báo không chỉ làm một tờ công báo đơn thuần nữa.

9


Những mẫu quảng cáo thời kì đầu tiên trên tờ Gia Định báo
Bước đầu, Gia Định báo có mục đích chủ yếu là công cụ thông tin
của thực dân Pháp ở Đông Dương với tư cách là một tờ công báo chuyên
đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân.
Sau này, khi Trương Vĩnh Ký chính thức làm giám đốc, tờ báo mới được
phát triển thêm mục biên khảo, thơ văn, lịch sử... Từ đó, báo không chỉ làm
một tờ công báo đơn thuần nữa. Gia Định báo cũng có góp phần cổ động
việc học chữ Quốc ngữ và lối học mới, mở đường cho các thể loại văn xuôi
Việt Nam in bằng chữ Quốc ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí
Việt Nam.
Người phụ trách tờ báo là Trương Vĩnh Ký(1837 – 1898), ông là

người công giáo, là nhà văn, nhà báo, nhà bác học, thông thạo 26 ngôn ngữ,
một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19. Ông để lại hơn 100 tác phẩm về
văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật. Ông được coi là người đặt nền
móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam, phụ trách rất nhiều tờ báo khác ngoài
Gia Định báo.

10


Di ảnh nhà báo Trương Vĩnh Ký..
Người chủ bút của Gia định báo là Huỳnh Tịnh Của(1834-1907), quê
ở làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa (nay là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu), là một nhà văn hóa học và ngôn ngữ học thông thạo cả
tiếng Hán và tiếng Pháp, có đóng góp xuất sắc trong việc nghiên cứu, phát
triển và truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu, đặc biệt là ở Nam bộ.
Như vậy, báo chí Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX đã được hình
thành và phát hành công khai dưới sự kiểm soát của nhà nước thuộc địa.
Tính chất xâm lược, đầu hàng bán nước của một bộ phận người bản xứ làm
việc cho thực dân cũng phần nào được bộc lộ qua những trang viết trên các
tờ báo này. Báo chí công khai bào chữa những chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân cùng sự đầu hàng, phản quốc của bè lũ Việt gian bán
nước.
Tuy nhiên báo chí cũng có những ảnh hưởng tích cực đến quá trình
truyền bá chữ quốc ngữ, phổ biến nhất là phát triển lối học mới. Về mặt

11


nghiệp vụ báo chí trong giai đoạn này đã đặt nền móng cho báo chí giai đoạn
sau, mở đường cho những thể loại văn xuôi mới.

2. Báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX:
Như trong phần hoàn cảnh ra đời của báo chí đã trình bày, đến đầu thế
kỉ XX cuộc khai thác thuộc địa lần 1 và lần 2 đã được tiến hành sau khi Pháp
hoàn thành công cuộc xâm lược ba nước Đông Dương. Cũng trong thời gian
này cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân yêu nước đã diễn ra
mạnh mẽ, điển hình như: chống đi phu, đi lính, chống thuế, bãi công biểu
tình của công nhân… nhưng đều thất bại. Hoạt động yêu nước của những
nhà trí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… diễn ra thu hút rất nhiều
người tham gia. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực báo chí, tư tưởng đã diễn ra
khắp từ Bắc chí Nam . Cũng trong đầu thế kỉ XX chiến tranh thế giới lần thứ
nhất nổ ra đã tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị thế giới.
Trong hoàn cảnh như vậy báo chí Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ,
với hàng chục tờ báo ở khắp các vùng miền trên cả nước. Theo thống kê,
năm 1922 cả nước có 86 tờ báo, năm 1925 có 121 tờ báo, đến hết cuộc khai
thác thuộc địa lần 2 năm 1929 cả nước có 153 tờ báo. Nếu tính riêng các
miền thì báo chí có sự phát triển không đều, báo chí miền Bắc phát triển với
số lượng lớn nhất, miền trung có số lượng báo chí ít nhất.
Những tờ báo và tạp chí nổi tiếng trong thời kì này như: Lục tỉnh tân
văn, Nông cổ mín đàm, Đại Việt quan báo, Đăng cổ tùng báo, Đông Dương
tạp chí, Trung Bắc tân văn, Nam phong tạp chí,…
*Tờ Lục tỉnh tân văn
Ban đầu báo ra mỗi tuần một số, sau tăng 3 số một tuần vào các ngày
thứ hai, thứ tư và thứ sáu, xuất bản từ ngày 15/1/1907 tại Sài Gòn do H.
Schneider sáng lập rồi sau đó là P. Jeantet làm chủ nhiệm, Trần Nhật Thăng
làm chủ bút. Giá bán mỗi số là 0,04 đồng.Từ ngày 3/10/1921, Lục tỉnh tân
văn hợp nhất với Nam trung nhật báo (vẫn giữ tên Lục tỉnh tân văn) do
12


Nguyễn Văn Của làm giám đốc, Lê Hoàng Mưu làm chủ bút, chuyển thành

báo ngày, đến tháng 12/1944 thì đình bản. Đây là tờ báo của các nhà địa chủ
và trí thức của phong trào Duy tân.

Một trang
báo Lục tỉnh
tân văn
Về phương diện nội dung, Lục tỉnh tân văn tập trung 3 vấn đề chính:
- Phát động người Việt phát triển kinh tế cạnh tranh với hàng hóa của
thương nhân Pháp, Hoa, Ấn. Kêu gọi chấn hưng kinh tế nước nhà.
- Nâng cao dân trí, mở mang trưòng học, chống lại lối học cầm chừng,
cổ vũ lối học mới…
- Tinh thần đấu tranh dân sinh.
Xu hướng chính trị chủ yếu của Lục tỉnh tân văn là phục vụ chính
sách của chủ nghĩa thực dân Pháp.
Về phương diện hình thức, những bài báo được xếp nối tiếp nhau và
không chú trọng đến kỹ thuật trình bày như thế nào để tờ báo trông cho đẹp.
13


Những mục quảng cáo lại được xếp chung bên cạnh những tin tức quan
trọng ở ngay trang nhất. Tờ báo đề cập đến mọi vấn đề trong nước cũng như
ngoài nước như Pháp, Đức, Nga.
*Tờ Nông cổ mín đàm
Nông cổ mín đàm (nghĩa là "uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi
buôn") là tờ báo tiếng Việt do Paul Canavaggio - một chủ đồn điền và
thương gia người đảo Corsica, hội viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ làm chủ
nhiệm, chủ bút lần lượt là các ký giả Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert
Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt. Nông cổ mín đàm bàn về nông
nghiệp và thương nghiệp, phát hành thứ năm hằng tuần tại Sài Gòn bằng chữ
Quốc ngữ. Số đầu tiên ra ngày 1 tháng 8 năm 1901.


Một trang báo Nông cổ mín đàm
Báo được phổ biến khá rộng rãi, hầu khắp Lục tỉnh, tuy nhiên số
người mua báo không nhiều. Theo mục Bổn quán cẩn tín trang 6 số 39 (ngày
22/5/1902), thì sau gần 1 năm phát hành, đã có 325 người mua báo, chủ yếu
14


là các quan chức và điền chủ ở các địa phương, như cai tổng, hội đồng,
hương chủ, tri huyện, và các công chức nhà nước - tức là những người biết
đọc chữ quốc ngữ và có quan tâm đến các vấn đề mà tờ báo đề cập. So với
tờ Gia Định báo thì số lượng phát hành của Nông cổ mín đàm tương đối
khiêm tốn, có lẽ bởi Gia Định báo là công báo được chính phủ Pháp tài trợ
in ấn, và buộc các làng các tổng phải mua, trong khi Nông cổ mín đàm là tờ
báo tư nhân và tự trang trải tài chính. Giá báo một năm dành cho người Việt
là 5 đồng, cho người Pháp và người nước ngoài là 10 đồng. Sau khi phát
hành số ra ngày 4/11/1921 thì báo bị đình bản. Đây được coi là tờ báo kinh
tế đầu tiên bằng chữ quốc ngữ. Về phương diện văn chương, cách hành văn
của tờ báo này còn rất thô sơ. Có thể tìm thấy trong tờ báo mọi vấn đề liên
quan đến canh nông hay kỹ nghệ...
* Tờ Đại Việt quan báo:
Ra đời năm 1905 tại Hà Nội, người sáng lập là Babus, chủ bút là Đào
Nguyên Phổ. Chuyên mục trên báo gồm những nghị định của thống đốc toàn
quyền Đông Dương, thống đốc Bắc kì.
Nội dung tuyên tuyền bao gồm chính sách và pháp luật của thực dân
Pháp, tin tức giao thông, thông tin về quốc tế…
* Đăng cổ tùng báo:

15



(Trang bìa Đăng Cổ Tùng Báo số 793 ra ngày 28 tháng 3 năm 1907)
Tờ Đăng Cổ Tùng Báo xuất bản ở Hà Nội, ra mắt số đầu vào tháng
3/1907, vốn là sự nối tiếp của tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo từ những
năm cuối thế kỷ 19. Chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh. Nét đặc sắc của Đăng Cổ
tùng báo - gắn với phong trào Đông Kinh nghĩa thục của các nhà duy tân đầu
thế kỷ 20 - là có thêm phần quốc ngữ bên cạnh phần chữ Hán của tờ Đại
Nam .
Trong lịch sử báo chí quốc ngữ Việt nam, Đăng Cổ tùng báo được coi
là tờ báo đầu tiên ở miền Bắc, trong khi ở miền Nam từ ngót nửa thế kỷ
trước đã có tờ Gia Định Báo (1865). Nét đặc sắc của Đăng Cổ tùng báo như
nghĩa nôm của nó (đánh trống) là sự cổ vũ cho những tư tưởng mới của
phong trào nghĩa thục.
Nội dung của Đăng cổ tùng báo hô hào mở mang công nghiệp, bỏ
khoa cử, bỏ hủ tục cũ, phản ánh những chuyển biến kinh tế xã hội, phản án
lợi ích tư bản bản xứ. Báo bị đình bản sau tám tháng hoạt động do đăng tải
những bài viết vận động duy tân. Tờ báo này được đánh giá là có sự phát
triển về mặt nghiệp vụ.
16


Nhân vật chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh, một kí giả, dịch giả nổi tiếng
của làng báo Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông đã đóng góp rất nhiều trong việc
phổ quát tiếng Việt qua tờ Đăng Cổ Tùng Báo, tờ báo đầu tiên viết bằng chữ
Quốc Ngữ tại miền Bắc. Đáng kể nhất là việc khuyến khích dùng chữ Quốc
Ngữ qua tờ Đông dương Tạp chí (1913). Ngoài ra, ông còn nhiều công trình
dịch thuật văn học như dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine, truyện cổ tích
Perrault, kịch Molière từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Bản dịch truyện Kiều
sang Pháp văn của ông rất đặc sắc. Ngoài việc là bản dịch đầu tiên, tất cả
những điển tích, điển cố vay mượn của Trung Hoa đều được ông chú thích

đầy đủ bằng tiếng Pháp.

Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh
* Đông Dương tạp chí:

17


Một trang báo Đông Dương tạp chí
Ra đời năm 1913, tờ báo này đúng là chi nhánh của Lục tỉnh tân văn.
Chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh, bên cạnh đó còn có các cây bút khác như:
Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Tản Đà…
Mục tiêu của tờ báo là đem thuật và nghề mới dạy cho dân An Nam,
phản ánh quan điểm của thực dân Pháp và tay sai của chúng.
Báo có những mục: sư phạm học khoa, dạy quốc ngữ, mục công văn
học tập, một lối văn nôm na…
Đông Dương tạp chí đình bản vào tháng 7/1919.

* Tờ Trung Bắc tân văn:
Báo ra đời năm 1915, chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh. Lúc đầu báo ra
hằng tuần, sau tăng lên 3 kì/tuần, đến năm 1919 báo ra hằng ngày.

18


Một trang báo Trung Bắc Tân Văn
Báo có các chuyên mục như: ngôn luận tự do, văn học, câu chuyện
lịch sử, tin trong nước và quốc tế, bình luận, thời sự… Báo có phụ trương
ngày chủ nhật. Báo bị đình bản ngày 16/9/1945.
* Nam phong tạp chí:


Một trang trên tờ Nam Phong tạp chí
Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ
ngày 1/7/1917 đến tháng 12/1934 thì đình bản, tất cả được 17 năm và 210
số. Tạp chí Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm và chủ bút. Nam
Phong là một trong những tạp chí Việt Nam đầu tiên đúng thể thức, bài bản
và giá trị về tri thức, tư tưởng.

19


Nam Phong thường đăng nhiều bài văn, thơ, truyện ngắn, phê bình
văn học, và tài liệu lịch sử bằng chữ quốc ngữ. Đây là một phương tiện của
thực dân Pháp để tuyên truyền cho chế độ thực dân, cương lĩnh chính trị của
tạp chí ít được chú ý. Tuy nhiên, tạp chí đã góp phần vào việc truyền bá Chữ
Quốc Ngữ vào Việt Nam.
Về phương diện văn học: mặc dù mục tiêu chính trị của tạp chí Nam
Phong quá hiển nhiên, nhưng dù sao chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tờ
báo trên một khía cạnh nào đó đã góp phần rất đắc lực vào việc phát triển
nền văn học nước nhà.
Trên đây là 7 tờ báo và tạp chí tiêu biểu của Việt Nam thời kì đầu thế
kỉ XX. Đó là cơ sở để khẳng định Báo chí Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ
trong giai đoạn này. Trên cả Bắc kì, Trung kì, Nam kì báo chí đều rất phát
triển, đặc biệt là ở miền Bắc.
Vai trò tích cực của báo chí trong giai đoạn này thể hiện ở chỗ nó đã
tiếp tục góp phần cổ vũ lối học mới, phê phán lối học cũ. Thông qua báo chí,
những người cầm bút đã phổ biến được chữ quốc ngữ và những kiến thức,
thông tin trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Đặc biệt có
những tờ báo đã cập nhật những thông tin quốc tế như Trung Bắc tân văn,
Lục tỉnh tân văn…

Một số tờ báo có nội dung tiến bộ, có tinh thần dân tộc, dân chủ,
khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, đấu tranh chống tư bản nước ngoài như tờ
Đăng cổ tùng báo của Đông kinh nghĩa thục, Lục tỉnh tân văn của hội Duy
tân.
Tuy nhiên báo chí không thể tránh khỏi bản chất thực dân và đầu hàng
bán nước của những kẻ Việt gian, ca tụng, biện hộ và cổ súy cho cuộc “khai
hóa” thuộc địa của thực dân Pháp. Những tờ báo tiến bộ thì nhanh chóng bị
cấm hoặc đình bản. Đa phần những tờ báo tồn tại trong một thời gian ngắn.

20


3. Báo chí Việt Nam trong những năm thập niên hai mươi của thế
kỉ XX:
Trong những năm thập niên hai mươi, bên cạnh những tờ báo giai
đoạn trước như Lục tỉnh tân văn, Nam phong tạp chí, Trung Bắc tân văn…
vẫn phát triển thì những tờ báo và tạp chí mới tiếp tục ra đời. Nội dung báo
chí giai đoạn này tập trung chủ yếu những vấn đề như: kinh doanh thương
nghiệp, phản ánh lợi ích của nhiều giai cấp khác nhau trong xã hội, đã xuất
hiện những tờ báo đề cập đến tư tưởng cách mạng của Lênin, phong trào
đông kinh nghĩa thục với những cuộc tranh cãi nổi tiếng. Số lượng báo chí
trong giai đạn này tăng khá nhanh.
Những tờ báo và tạp chí nổi tiếng có thể kể đến trong giai đoạn này
như: Thực nghiệp dân báo, Khai hóa nhật báo, Hữu thanh tạp chí, Đông
Pháp thời báo, Trung lập báo, An Nam tạp chí, Pháp Việt nhất gia, báo
Tiếng dân, Hà thành ngọ báo, Tuần báo Đông tây, Phụ nữ tân văn, Kì lân
báo…
* Khai hóa nhật báo:
Ra đời năm 1921 tại Hà Nội , người sáng lập là Bạch Thái Bưởi, chủ
bút là Hoàng Tích Chu. Khuynh hướng của báo là đưa đến với người đọc

những tin hay, tin lạ ở trong nước và lân bang, ở khắp địa cầu, bàn về chấn
hưng nông, công, thương, vấn đề tiêu thụ hàng hóa nội địa… Khai hóa nhật
báo phản ánh quyền lợi của giai cấp tư sản lúc bấy giờ.

21


Chủ bút Hoàng Tích Chu (1897 - 1933) là
một nhà báo có đóng góp lớn trong việc cách tân báo chí Việt Nam đầu thế
kỉ XX. Ông còn có bút danh Kế Thương, Hoàng Hồ. Phan Khôi đã nhận xét
về văn của ông “ Trong văn Quốc ngữ ta, cái lối viết của ông Hoàng Tích
Chu thật nó biệt hẳn ra một lối, đủ mà kêu được là “lối văn Hoàng Tích
Chu”, sự ấy trong làng văn ta hình như đã công nhận một cách vô tâm rồi.
Chẳng hạn lối văn ấy ông Chu sáng tạo ra hay bắt chước của ai; nội một cái
biệt lập ra một nhà được như thế, cũng khá gọi là tay hào kiệt trong làng văn
vậy (..) Lối văn Hoàng Tích Chu ấy mà muốn vĩnh viễn thành lập trên văn
đàn, bề nào cũng phải cải lương. Mà sự cải lương nầy không cốt ở sửa đổi
đẽo gọt bề ngoài, phải nhờ ở công học vấn bên trong mới được.”
* Đông Pháp thời báo:
Ra đời năm 1924 tại Sài Gòn. Giám đốc là Trần Kim Đính sau là Diệp
Văn Kỳ. Chủ bút là Trần Huy Liệu và Nguyễn Văn Bá. Nội dung của Đông
Pháp thời báo phản ánh quyền lợi của giai cấp tư sản, tuyên truyền cho chính
sách của thực dân Pháp cũng như cải cách, hô hào trấn hưng công nông
thương, chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa, chấn chỉnh quốc văn, cải cách
giáo dục, đòi các quyền tự do dân chủ, phản ánh các cuộc đình công bãi
khóa.

22



Một trang trên tờ Đông Pháp Thời Báo
Đông Pháp thời báo bị thực dân Pháp rút giấy phép, ngày 22/12/1928
ra bản cuối cùng.
*An Nam tạp chí:
An Nam tạp chí là tên một tờ báo do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sáng
lập năm 1926. Đây là tờ tạp chí chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam.
Sau chín tháng ra được 10 số. Báo bị đình bản do thiếu vốn hoạt động, tiếp
tục ra thêm 3 số rồi ngừng. Tháng 1/1931 tái bản và in đựơc chín số. Báo ra
được 48 phụ bản, đình bản vào 1/3/1933.

23


Một trang trên tờ An Nam Tạp Chí
*Pháp Việt nhất gia:
Ra đời năm 1927, chủ bút là Trần Quang Liêm. Nội dung báo chủ yếu
là các bài viết công kích chính sách của thực dân Pháp nên tờ báo sớm bị
Pháp đàn áp, ngăn không cho phát hành.
Lê Thành Lư, người chủ bút sau của Pháp Việt nhất gia đã nói lên nỗi
đau khổ và nhục nhã của những nhà báo Việt Nam sống trong cảnh mất
nước: “có miệng không được nói, có tư tưởng không được giãi bày, đó là số
kiếp của 25 triệu đồng bào,… những người làm báo toàn là người miệng
câm tai điếc… ở nước nô lệ ngôn luận là cái họa”.
Ngày 15/5/1927 báo xuất bản 1000 số phát không cho bạn đọc, sau đó
Lê Thành Lư đã bị Pháp bắt giam.
*Báo Tiếng dân:
Báo Tiếng Dân là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại An
Nam (Trung Kỳ), do ông Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), một nho gia
thuộc trường phái duy tân, phát hành. Tòa soạn báo đặt tại Huế, phổ biến và
có ảnh hưởng lớn trong giới trí thức miền Trung trong gần 16 năm dài, từ

1927 tới năm 1943.
24


Chân dung Huỳnh Thúc Kháng và bán tuần san Tiếng Dân
Nội dung của báo Tiếng dân tập trung phản ánh lợi ích của tư sản dân
tộc, xu hướng dân tộc dân chủ theo đường lối chính trị cải lương, không tán
thành chủ nghĩa cộng sản, chống lại việc giải truyền đơn. Báo cũng đăng
nhiều bài chống phong kiến, vạch rõ tính chất bù nhìn của viện dân biểu
Trung kì, chống tham nhũng, cường hào, đưa tin các cuộc đấu tranh của
quần chúng nhân dân.

Toà soạn báo Tiếng Dân
* Phụ nữ tân văn:
Ra ngày 2/5/1929, chủ nhiệm của báo là Nguyễn Đức Nhuận, chủ bút
là Đào Chinh Nhất. Đây là báo thông tin nghị luận văn học, bàn về những
vấn đề phụ nữ, vai trò của phụ nữ trong quốc gia và xã hội. Báo có lập
trường dân tộc, chủ yếu đề cập đến vấn đề nữ quyền, bàn về phụ nữ và gia
đình, khoa học, giáo dục, tiểu thuyết, nhi đồng…
25


×