Tải bản đầy đủ (.pdf) (240 trang)

Ebook văn hóa và con người việt nam trong đổi mới và hội nhập quốc tế phần 1 NXB chính trị quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.37 MB, 240 trang )

GS. TS. HOÀNG CHÍ BẢO

VĂN HÓA VÀ
CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG Đ ổi MỚI
VÀ HỘI NHẬP QUốC TẾ


VĂN HÓA VÀ
CON NGUâl VIỆT NAM
TRONG ĐỔI MỚI
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẺ


Mã số:

_____3.3U

CTQG -2010


GS. TS. HOÀNG CHÍ BẢO

VĂN HÓA VÀ
CON NGƯỜI VIỆT NAM


TRONG ĐỔI MỚI
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TỂ

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GÍA


HÀ NỘ I-2010


LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Văn hoá do con người sáng tạo ra, là một hiện tượng lịch sử
độc đáo của nhân loại. Con người hoạt động để sáng tạo ra văn
hoá, đồng thời còn tiêu dùng và cảm thụ văn hoá. Bằng cách đó,
chính văn hoá, với tất cả sức mạnh của nó, lại vun trồng, nuôi
dưỡng và phát triển con người, hoàn thiện và làm phong phú
thêm nhân cách con ngưòi.
Trong thòi đại giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay, vấn
đề văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá dân tộc, đa dạng hoá văn
hoá dân tộc luôn đặt lên vị trí hàng đầu. C.Mác đã từng nói:
Văn hoá, nếu như nó phát triển một cách tự p h á t thì sẽ để lại
phía sau một h oan g mạc. Điều này cho thấy, trong giao lưu
văn hoá, nếu không biết giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,
không biết tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hoá
nhân loại, thì sự hoà tan, mất gốc sẽ là điều khó tránh khỏi đôi
với một quốc gia, dân tộc.
Với nhãn quan sâu rộng, với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc giá trị của văn hoá, đặt văn hoá
vào vị trí trung tâm của đời sông xã hội. Ngay từ năm 1946,
Người đã khang định: Văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân
dân, góp phần vào việc nâng cao đời sông vui tươi lành mạnh
của quần chúng.
õ


Hướng tới kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội,

Nhà xuất bản Chính trị quôc gia xuất bản cuốn sách Văn h oá

và con người Việt N am trong đôi mới và hội n h ập quốc tê của
GS, TS. Hoàng Chí Bảo. Nội dung cuô’n sách phân tích một
cách sâu sắc, thấu đáo văn hoá và văn hoá dân tộc trong bôi
cảnh toàn cầu hoá hiện nay ở nước ta nói riêng và văn hoá với
phát triển và tiến bộ xã hội nhìn từ cục diện văn hoá châu Á Thái Bình Dương nói chung trong hai thập niên đầu th ế kỷ
XXI, qua thực tiễn Đông Á. Qua đó, tác giả khẳng định rõ, văn
hoá dân tộc Việt Nam là cội nguồn, là nền tảng và là mục tiêu
của dân tộc ta trong xây dựng nền văn hoá mới, bảo đảm cho
dân tộc ta có vị th ế xứng đáng trong cộng đồng nhân loại,
nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.

Tháng 10 năm 2010
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

6


MỞ ĐẦU

Việt Nam và các quốc gia - dân tộc trên thê giới
đang ở thập kỷ đầu của thê kỷ X XI, đang tiếp tục quá
trìn h đổi mới để phát triển và hướng tới phát triển bền
vững. Mục tiêu và động lực của quá trình phát triển ấy
chính là văn hoá. Con người sáng tạo ra văn hoá vói tư
cách là chủ thể của hoạt động lịch sử và đến lượt nó,
văn hoá góp phần phát triển và hoàn thiện con người,
làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính ngưòi nhiều hơn

như M ác đã từng nói.
Với con người, trong tư cách cá nhân và cá thể người
của nó, sự lĩnh hội và làm chủ các giá trị văn hoá, sự phát
triển các nhu cầu văn hoá, làm cho văn hoá thấm sâu vào
trong lối sổng, hành vi và hoạt động, trở thành thưóc đo
của trình độ người trong phát triển. Một cái tôi nhân cách
đích thực sẽ không thể nào hình dung được nếu ỏ bên
ngoài quá trình vun trồng nhân tính, giáo dục văn hoá.
Con người được sinh ra nhưng nhân cách thì phải được
hình thành, sự hình thành ấy chính là quá trinh mà con
người trở thành con người dưới ảnh hưởng và tác động của
văn hoá.
7


Với dân tộc và quốc gia - dân tộc, trong tư cách cộng
đồng xã hội của nó, văn hoá làm nên sức sống, bản lĩnh và
bản sắc của dân tộc và quôc gia - đân tộc đó. Văn hoá dân
tộc được sinh thành và nuôi dưỡng cùng vối lịch sử của
dân tộc, tạo thành truyền thống, kết tinh thành các giá
trị, nó như tấm gương phản chiếu những tinh hoa, khí
phách, tâm hồn của dân tộc qua mọi biến cố, thăng trầm
của lịch sử. Đó là lịch sử lao động, đấu tranh và sáng tạo
mà dân tộc đã trải qua và đang tiếp nối để tồn tại và phát
triển, để tự biểu hiện và tự khẳng định mình trong thê
giới nhân loại.
Văn hoá dân tộc, từ truyền thống và bản sắc của mình
là sức manh tự ý thức của dân tộc trong cuộc hành trĩnh tới
tự do, tiến bộ và phát triển, thực hiện khát vọng giải
phóng, khát vọng sống và sáng tạo của biết bao th ế hệ nối

tiếp nhau trong lịch sử. Văn hoá, đó là tấm căn cước đích
thực để dân tộc tự giới thiệu về mình trưốc thê giới nhân
loại, để gia nhập vào cái chung - phổ quát toàn nhân loại
trong khi vẫn gìn giữ và phát huy cái riêng - đặc sắc, độc
đáo của chính mình, tự phân biệt mình vói trăm nghìn cái
riêng khác. Những giá trị của văn hoá dân tộc làm phong
phú thêm tài sản chung của văn hoá loài ngưòi, làm cho
văn hoá là sự thống nhất trong đa dụng, thống nhất trong
những sự khác biệt.
Từ trong bản chất, văn hoá xa lạ vối những gì đơn
điệu, nghèo nàn. Đồng nhất giữa các nền văn hoá thành
một cái duy nhất chảng những là trá i với lôgíc tự nhiên
8


của bản ch ất sáng tạo văn hoá, của lịch sử phát triển
văn hoá mà còn là nguy cơ đánh m ất văn hoá, nguy cơ
tự đánh m ất mình của dân tộc khi hội nhập vào th ế giới
trong xu thê toàn cầu hoá hiện nay.
Cá thể là hữu hạn, đó là sự hữu hạn mà con người
càng trưởng thành về mặt lý trí, càng trải nghiệm cuộc
sông bao nhiêu thì càng tự ý thức đầy đủ hơn bấy nhiêu
vê tính hữu hạn của mình, cả sự tồn tại bản thể lẫn khả
năng nhận thức thê giới. Song, nhân loại là vô cùng, bởi
sự sông mạnh hơn cái chết, các thê hệ con người ở mọi
thòi đại mãi mãi tiếp nôi nhau trong sự sinh thành và
phát triển. Tính vô cùng của đời sống nhân loại không
phải là một ý niệm trừu tượng, một triết lý tư biện mà là
một hiện thực đầy tính sinh động, biểu cảm. Nó được
chứng thực bởi sức sổng của vãn hoá và văn minh, bởi

những thành quả và giá trị - vật chất cũng như tinh thần
- mà loài người không ngừng tạo ra bằng lao động sáng
tạo. Để nhân loại trưòng tồn với sức mạnh vô cùng của nó
thì mỗi dân tộc phải bền bỉ giữ vững và phát .huy cái diện
mạo, bản sắc văn hoá của mình và nhờ đó làm phong phú
đời sống văn hoá nhân loại.
Văn hoá dân tộc, đó chẳng những là cội nguồn, là
nền tảng của dân tộc mà còn là đảm bảo cho dân tộc có
một vị trí và ý nghĩa xứng đáng trong cộng đồng nhan
loại. Văn hoá làm cho dân tộc có truyền thông và lịch sử
của mình. Nó không thể m ất, nó củng trường tồn trong
sự trường tồn của nhân loại. Đồng nhất giữa các nền
9


văn hoá bằng sức mạnh xâm lược văn hoá của một sô
th ế lực hùng mạnh nào đó, tự xem các giá trị văn hoá
của dân tộc mình là “siêu việt”, là “tôi thượng” với thái
độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị ấy cho các dân
tộc khác - đó là một hành động phản văn hoá, không
thể chấp nhận. Có một xu thê khách quan đang diễn ra
là toàn cầu hoá nhưng đồng thời cũng đang x u ấ t hiện
một đòi hỏi bức xúc từ cuộc sống của các dân tộc, các
quốc gia - dân tộc là đấu tran h chông lại những âm
mưu, những thủ đoạn và cả những nguy cơ đồng nhất
văn hoá, xâm lăng văn hoá. Thê kỷ XX đã đi vào quá
khứ lịch sử với những cuộc chiến đấu của các dân tộc
chông lại chủ nghĩa thực dân cũ và mới để giành lấy độc
lập, thực hiện quyền dân tộc tự quyết chân chính của
mình. Thế kỷ XXI đang diễn ra và cuộc chiến đấu mới

chông lại mọi biểu hiện xâm lăng văn hoá lại tiếp tục
đặt các dân tộc vào những nỗ lực, những thử thách mới.
Sức sống và bản lĩnh văn hoá được hình thành qua
hàng ngàn năm lịch sử đã giúp cho dân tộc Việt Nam
đánh bại mọi âm mưu đồng hoá của phong kiến phương
Bắc, đồng thời tiếp thu được sức mạnh của thòi đại mới thòi đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đánh bại chủ nghĩa đê quốc, chủ nghĩa thực dân.
Và trong bôi cảnh mới, đổi mới - mở cửa và chủ động
hội nhập kinh tê quôc tê, sẵn sàng hợp tác song phương
và đa phương, mong muốn là bạn với tấ t cả các nưốc.
Việt Nam đang đứng trước thời cơ, vận hội lớn để phát
10


triển đi liền với những thách thức nghiệt ngã trong
phát triển, đã tự ý thức được những vấn đề hệ trọng,
xem đó là những quyết sách chiến lược của đổi mói và
phát triển. Đó là:
- Thực hiện tăng trưởng kinh tê đi liên với công
bằng xã hội.
- Thực hiện điểm đồng quy của mọi chính sách hưống
vào phục vụ cuộc sống con người và phát triển con ngưòi.
Nguồn lực quan trọng và quyết định nhất trong phát
triển là nguồn lực con người, coi vốn người là nguồn vốn
của mọi nguồn vốn, là tài nguyên của mọi tài nguyên.
- Chiến lược văn hoá thực chất là chiến lược con
người, mục tiêu và động lực của phát triển chính là ở
đó, ở văn hoá và con người.
- Đổi mới để phát triển và hiện đại hoá hưống đích
vào dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.

- X ây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Đây là đảm bảo cho sức sông lâu dài và
triển vọng phát triển bền vững của dân tộc trong một
thê giói p h ụ thuộc và tuỳ thuộc lẫn nhau.
Đôi mối ở Việt Nam đã diễn ra hơn hai thập kỷ,
tính từ khi Đảng khởi xưống đường lôi đổi mới cho tới
nay. Nhìn theo quan điểm phát triển và sáng tạo văn
hoá thì đổi mới là một tiến trình lâu dài, thường
xuyên, m ãi mãi. Ngọn nguồn sâu xa của đôi mới là
thực tiễn, là cuộc sông của dân, là sức sông bền bỉ của
11


dân tộc vối truyền thông văn hoá và văn hiến có bê dày
hàng ngàn năm lịch sử. Từ quá khứ x a xưa cho tới thời
cận đại và hiện đại ngày nay, các thê hệ ngưòi Việt
Nam đã từng ý thức sâu sắc rằng, giang sơn, bò cõi của
đất nước này là thiêng liêng như thê nào, bởi nó là
thành quả được tạo dựng từ mồ hôi, nước m ắt, xương
máu của nhân dân. Chủ quyền độc lập của dân tộc là
không thể m ất. Thà chết vinh còn hơn sông nhục, th à
hy sinh tấ t cả chứ nh ất định không chịu m ất nưóc,
nhất định không chịu làm nô lệ, bởi cuộc sông và th ân
phận con người, diện mạo của dân tộc chỉ thực sự có
được với giá trị hàng đầu là tự do.
Tổ quốc có độc lập, dân tộc có tự do th ì đồng bào
cả nưốc và mỗi cá nh ân con người mới có h ạ n h p h ú c .
Hồ Chí Minh đã xem hệ giá trị: ĐỘC L Ậ P - T ự DO HẠNH PH Ú C là m ột chỉnh th ể, là quy tụ mọi m ong
muôn, k h át vọng, hiểu biết củ a m ình. Theo chiều sâu
tư tưởng củ a Người, những giá tr ị ấy được thực hiện,

tấ t yếu dẫn tới chủ nghĩa x ã hội và chính những giá
trị ấy lại được biểu hiện đầy đủ n h ấ t tro n g bản ch ấ t
ưu việt củ a chủ nghĩa xã hội.
H ồ Chí M inh - nhà tư tưởng vĩ đại và nhà văn hoá kiệt
xuất của dân tộc Việt Nam, là người th ể hiện sinh động
nhất tinh hoa văn hoá dân tộc và tầm cao tư tưởng của thời
đại mình khi phat hiện ra chân lý: Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật khách quan của lwh
sử, là con đương phat triển của xã hội Việt Nam, là giải


pháp cho s ự chấn hưng, phát triển và hiện đại hoá dân tộc
Việt Nam, văn hoá Việt Nam. S ự nghiệp đổi mới của Việt
N am đang diễn ra dưới ánh sáng tư tưởng H ồ Chí Minh,
đó là một s ự nghiệp sáng tạo văn hoá.
Văn hoá là đổi mới và đổi mới là một cuộc cải biến
cách m ạng sâu xa trên mọi lĩnh vực của đời sông xã hội
ở tầm văn hoá.
Đánh bại đê quốc, phong kiến để giành lấy độc lập,
tự do chưa đủ, còn phải chiến th ắng nghèo nàn, lạc
hậu để đưa dân tộc tới trình độ phát triển, giàu có về
vật ch ất, văn minh về tinh thần, làm cho mọi người có
cuộc sông hạnh phúc. Đó là khát vọng, ý chí, hành
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh - hiện th ân của khát
vọng, ý chí, hành động của dân tộc ta. Để thực sự có
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho toàn thể cộng đồng
dân tộc, cho từng gia đình và cho mỗi con người, rõ
ràn g cần phải chiến thắng chẳng những g iặ c ngoại
xăm mà cả giặ c nội xâm nữa.
Sức m ạnh giải phóng ấy được huy động từ đâu?

Từ sức bật củ a tăn g trưởng kinh tế, từ sự bền vững
của chê độ chính trị, từ năng lực x ã hội dựa trê n sự
đoàn kết và đ ồ n g thuận. Đó là sức m ạnh của văn hoá,
được tông hợp bởi văn hoá, được th úc đẩy từ n ă n g lực
văn hoá của mỗi ngưòi và bản lĩn h văn hoá của cả
cộng đồng dân tộc.
Tác động sâu xa và ảnh hưởng mạnh mẽ ấy của vàn
hoá đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Phải làm thê
13


nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý của quôc dân,
nghĩa là văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hoá phải làm thê nào cho
quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích
chung mà quên lợi ích riêng. Văn hoá phải làm thê nào
cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đên trẻ, cả đàn ông
và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biêt
hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng.
Như vậy, sức mạnh nội sinh của dân tộc, nhân tô
động lực thúc đẩy sự phát triển của dân tộc là văn hoá,
là nền tảng văn hoá của dân tộc mà mọi thành quả và
giá trị của nó đều do con người và cộng đồng dân tộc
sáng tạo ra, trở lại phục vụ con người, tôn vinh giá trị
con ngươi, nâng cao vị thê và phẩm giá dân tộc.
Có một thực tê là, văn hoá, dù hiểu theo nghĩa hẹp hay
nghĩa rộng, thậm chí là theo nghĩa rộng nhất của khái
niệm (hay phạm trù) này, thì bao giờ văn hoá cũng tự biểu
hiện và tự khẳng định mình bởi những gi tích cực, tiến bộ,
tốt đẹp, nhờ đó, văn hoá trở nên cần thiết, hữu ích cho đời

sông của ton tại người, phát triển con người, phát triển xã
hội. Cái gì được gọi là văn hoá phải là cái hưống đích tói
chân - thiện - mỹ, đó là hệ giá trị của nhân tính, của dân
tộc, đó còn là chỗ gặp gỡ của các dân tộc trong cộng đồng
rộng lớn toàn nhân loại.
Với nhản loại, hệ giá trị chân - thiện - mỹ là nội dung,
bản chất của văn hoá, là cái chung, p h ổ biến, p h ổ quát,
được biểu hiện ra bởi vô sô cái riêng, nhưng sự đa dạng,
14


phong phú, khác biệt mang tính lịch sử, đặc thù, đơn nhất
của mỗi dân tộc, mỗi tộc người trong những hoàn cảnh,
thời gian lịch sử khác nhau, trong những không gian văn
hoá (địa văn hoá) khác nhau. Bởi thế, sự nhận thức và sự
cảm thụ văn hoá là sâu sắc, tinh tê hơn rấ t nhiều so với
những phân tích và đánh giá định lượng vốn thường thấy
trong lĩnh vực kinh tế, sản xuất có tính vật chất. Khoa
học, kỹ thuật, công nghệ, với mỗi bước tiến của nó được áp
dụng và truyền bá có thể đẩy nhanh quá trình tăng
trưởng kinh tế, làm tăng khôi lượng sản phẩm, của cải,
dẫn tới sự giàu có, thịnh vượng về vật chất cho quốc gia
này, khu vực kia và cho cả nền kinh tê thê giới. Đó là điều
có thể. Nhưng mỗi dân tộc lại tự ý thức về mình, tự nhận
ra mình và nhận ra một dân tộc khác ở bên cạnh mình,
cũng như các dân tộc có thể hiểu biết lẫn nhau, xích lại
gần nhau, hợp tác, đoàn kết với nhau nhờ văn hoá và giao
lưu văn hoá, thông qua đôi thoại giữa các nền văn hoá.
Một thê giới hiện đại không đo lường bởi chỉ số duy nhất
là kinh tế hay kỹ thuật - công nghệ, càng không xem nó là

cứu cánh. Nhân loại sẽ m ất tính triển vọng và có thể rơi
vào thảm hoạ nếu ngự trị sự đồng nhất văn hoá. Đó là
điều không thể. Phấn đấu cho sự đa dạng văn hoá và tăng
cường sự đốì thoại giữa các nền văn hoá - đó là đòi hỏi tất
yếu, bức xúc của tồn tại và phát triển của toàn nhân loại
trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là thông điệp văn
hoá của thê kỷ mới, của thiên niên kỷ mới trong cuộc
hành trình văn hoá của tất cả các dân tộc trên trái đất.
15


Văn hoá đổi lập vối phản văn hoá cũng như phát
triển đối lập vối phản phát triển, đạo lý - đạo nghĩa nhân tính đối lập với bạo ngược - phi nhân tính - thú
tính vậy. Nếu thừa nhận điều ấy trong bản chất sáng tạo
kỳ diệu của văn hoá thì không thể không thừa nhận tính
đa dạng văn hoá. Sự thừa nhận này, một mặt là sự giác
ngộ khoa học vê bản chất của văn hoá, mặt khác thể hiện
sự tự trọng dân tộc đi liền vối tôn trọng dân tộc khác, tôn
trọng thê giới nhân loại mà nếu không có khách thể rộng
lớn này (nhân loại) thì cũng không có đối tượng là chính
dân tộc mình.
Triết lý nhân sinh và hành động thấm nhuần tính
văn hoá đạo đức trong ứng xử và hành xử th ậ t sâu sắc
mà lại vô cùng giản dị. Triết lý ấy, từ trả i nghiệm đời
sống và đúc rút qua kinh nghiệm lịch sử dạy ta rằng,
tôn trọng người khác là tôn trọng ch ín h m ình. X úc
p h ạ m người khác là s ự hạ thấp và sỉ n h ụ c ch ín h m ình,
tự bộc lộ s ự thấp kém nhân cách và bản lĩnh văn hoá
của mình.
Ý nghĩa ấy của quan hệ con người cũng có ý nghĩa là

quan hệ giữa các dân tộc nhìn từ chiều cạnh văn hoá.
Những điêu trình bày ở trên cho thấy, xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiên, đậm đà bản sắc dân tộc chi có
thể đặt ra và giải quyêt trên một tiền đề lý luận - nhận
thức và thực tiễn - hành động của đổi mối, gắn liền kê
thừa với đổi mới, sáng tạo để phát triển, tăng cường đôi
thoại, giao lưu văn hoá vối các dân tộc trong khu vực và
16


trên th ế giới với tinh thần khoan dung, hợp tác, tin cậy đem tinh hoa, bản sắc văn hoá của dân tộc mình công
hiến vào sự phong phú, đa dạng, giàu có của văn hoá thê
giới, tiếp thu tinh hoa văn hoá th ế giới để không ngừng
phát triển sức sống và năng lực sáng tạo văn hoá của
chính dân tộc mình. Đó là cách ứng xử cần thiết và đúng
đắn, là nhận thức cái tất yếu để hành động đúng như cái
tất yếu đòi hỏi. Theo Ảngghen, như thê là tự do. Mỗi bước
tiến của văn hoá được Mác xác định là mỗi bưốc tiến của
tự do. Cuộc hành trình ấy lâu dài biết bao, từ một đòi
người - cá thể đến sô" phận của một dân tộc và lịch s ử của
toàn nhân loại. Mỗi bước đi trong cuộc hành trình ấy lại
luôn vang vọng câu hỏi "văn hoá là gì?" Không phải là quá
đáng khi nhận xét rằng, cho đến nay - dù văn hoá có một
lịch sử rất lâu dài mà câu hỏi "văn hoá là gi?" vẫn còn
nguyên tính thời sự, nó cũng hệt như câu hỏi "con người
là gì?". Sự tìm kiếm câu trả lồi này, vẫn còn đang tiếp tục.
Có lẽ, đây là một trong những câu hỏi khó nhất của
lịch sử. Bao nhiêu trí tuệ thông thái đã góp sức đê tìm
kiếm câu trả lời mà cũng chưa hoàn thành. Song, đây
cũng là câu hỏi có tính hấp dẫn nhất, vừa rất gần gũi,

quen thuộc, vừa mênh mông xá vòi - ai ai cũng có thể mạn
đàm trao đổi đầy hào hứng và tự tin, từ người dân thường
tới trí thức, học giả, nghệ sĩ, thương gia, chính khách ở
khắp

m ọ i R ơ i.

Rất có thể khái niệm "văn hoá" không dừng ở sự định
nghĩa khoa học mang tính hàn lâm kinh điển nữa. Nó
17


đang có xu hướng đi sâu vào những địa h ạt rộng lớn hơn
nhiêu của đòi sông con ngưòi và xã hội, bởi ván hóa thẩm
thấu vào tấ t cả mọi ngõ ngách của đòi sống th ế giới nhân
loại, vào mọi quan hệ con ngưòi, cả môi trường, môi sinh
của nó nữa. Khái niệm chỉ là kết quả của một sự trừu
xuất khoa học nào đó trong nhận thức, trong tư duy và
tư tưởng con người. Định nghĩa nào dù hoàn hảo nhất đi
nữa cũng trở nên chật hẹp, phiến diện so vối đời sống
thực tiễn - cái mảnh đất mà trên đó nảy mầm các hạt
giông khái niệm - Lênin từng có nhận xét đó, và ông còn
nói: thực tiễn cao hơn lý luận. Điêu ấy đúng với văn hoá một hiện tượng độc đáo mà triết lý có lẽ trội hơn định
nghĩa vê bản thân nó.

18


PHRN THỨNHấT


MẤY VẤN ĐỀ LÝ LU0N
VẾ VĂN HOfi



C hương I

BẢN CHẤT VÀ CHỨC NẢNG CỦA VẢN HOÁ
1. N hững tiển đề nh ận th ứ c vể văn hoá
Nói tới văn hoá là nói tới con người vối nhận thức,
ý thức, hoạt động, hành vi và lối sống của nó trong
các mối quan hệ xã hội giữa nó với những người khác,
với cộng đồng, với môi trường hoàn cảnh và với thê
giới đổi tượng nói chung - ở đó diễn ra hoạt động của
tồn tại người và p h á t triển người vói nghĩa là một
hoạt động sông - sáng tạo.
Văn hoá gắn liền m ặt cá thể vói xã hội trong hoạt
động, trong đời sông hiện thực của con người và xã hội.
Cá nhân lĩnh hội văn hoá thông qua hoạt động.
Cộng đồng dân tộc và xã hội tạo dựng nên một nền văn
hoá của mình cũng thông qua hoạt động. Đó không phai
là tổng sô sô học của những con người và hoạt động
riêng rẽ mà là sự liên kết xã hội để sáng tạo và sản xu ất
ra văn hoá.
Con vật và bầy đàn động vật ờ bèn ngoài văn hoa
bởi nó bị bản năng thống trị tuyệt đối và chỉ có tập tính
21


loài theo bản năng chi phối tồn tại của nó, một tồn tại

thuần tuý động vật.
Con người và cộng đồng người (xã hội) ỏ trong ảnh
hưởng của văn hoá và có một thước đo văn hoá cho sự
phát triển của chính nó bởi nó có ý thức chi phôi bản
năng và hoạt động.
Văn hoá của cá nh ân và đời sông văn hoá củ a
một cộng đồng xã hội thường biểu hiện qua các môi
quan hệ gắn liền với th ái độ đánh giá và sự lựa chọn
các giá trị. Từ đó hình th àn h lối sông, cách ứng xử,
giao tiếp, cách tổ chức cuộc sông với những ch u ẩn
mực, những thói quen, những phong tụ c, tập quán ổn
định tron g cộng đồng m à mỗi cá nh ân ý thức được,
biểu hiện ra tron g hoạt động sống h àn g ngày và
thông qua nó mà gắn bó với cộng đồng, liên k ết với
xã hội. Cá nhân tự p h át triể n m ình th ôn g qua sự
lĩnh hội văn hoá, tiếp nh ận những tá c động và ảnh
hưởng văn hoá của xã hội để từ ng bưóc đ ạ t đến sự
trưởng th àn h văn hoá và trở th à n h n h ân cách . Cộng
đồng dân tộc xây dựng nền văn hoá củ a dân tộc mình
thông qua quá trìn h lịch sử lâu dài chinh phục tự
nhiên, cải tạo xã hội, tự k h ẳn g định sự tồn tạ i của
mình, sức sống và sức sán g tạo củ a m ình để p h át
triên . Lịch sử tồn tạ i và p h át triể n ấy là lịch sử của
văn hoá, vun trồn g và bồi đắp nên những bản sắc và
tinh hoa của văn hoá dân tộc.
Cơ sở của văn hoá bắt đầu từ những hiểu biết và


kinh nghiệm sống được tích luỹ của từng cá thể cũng
như của cả cộng đồng.

Cội nguồn sâu xa của văn hoá là đòi sông hiện thực
của con người và thực tiễn lịch sử - xã hội.
Đ ộng lực thúc đẩy văn hoá là hoạt động của những
con người hiện thực.
Giá trị cốt lõi, trở thành thước đo g iá trị của văn
hoá là đạo đức, là nhân tính.
Thuộc tính bản chất được xem là đặc trư n g điển
h ìn h của văn hoá là sáng tạo, năng lực sáng tạo.
M ục đ ích , m ụ c tiêu của văn hoá là phục vụ cuộc
sống củ a con ngưòi, th oả m ãn nhu cầu có tính người,
từ nhu cầu tồn tạ i người đến nhu cầu p h át triể n
n h ân tín h , hoàn th iện nhân cách , từ cá th ể người
đến cộng đồng người và nhân loại. V ăn hoá th am dự
vào mọi chương trìn h h o ạt động, hàn h động để p h át
triể n và thực hiện tiến bộ xã hội vì tự do và h ạ n h
p h ú c củ a con người.
C hủ t h ể sản x u ất, trao đổi, tiêu dùng, cảm thụ
văn hoá là con người. Văn hoá là sản phẩm chỉ riêng
có ở con người, chỉ con ngưòi - dân tộc - nh ân loại mới
tạo ra được. Văn hoá, đến lượt nó, bằng tá c dụng và
khả năn g của nó lại nâng cao con ngưòi tối sự hoàn
thiện, làm cho hoàn cảnh sông của con người ngày
càn g có tính người nhiều hơn.
Lịch sử văn hoá là lịch sử của những nỗ lực không
23


ngừng, sự bền bỉ không ngừng của văn hoá để nh ăn
tính hoá đời sống t h ế giới nhân loại.
Con người - chủ thê văn hoá càng chiếm lĩnh được

các giá trị văn hoá, càng phát triển các nhu cầu văn hoá
nhiều bao nhiêu, càng tiến gần tới mục tiêu văn hoá
bấy nhiêu.
Sức mạnh sâu xa của văn hoá là ở chỗ, nó có thể tạo
ra s ự trù ng hợp giữa chủ thể với mục tiêu của nó. Sự
trùng hợp này là sự trùng hợp của những tác độ n g và
thúc đẩy lẫn nhau giữa con người và văn hoá. Trình độ
người trong phát triển tức là văn hoá, do con ngưòi tạo
ra, lại tác động tới sự phát triển của con người và xã
hội. Có thể nói, con người sáng tạo ra văn hoá và văn
hoá cũng sáng tạo ra con người, từ con người sinh vật
trở thành con người xã hội dưới ảnh hưởng của giáo
dục, tập luyện và trưởng thành văn hoá. Mác nói, hoàn
cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực m à con
người sáng tạo ra hoàn cảnh.
Rõ ràng, văn hoá hình thành từ sự tổng hợp của rấ t
nhiều nhân tô, từ các môi quan hệ và liên hệ. Quan
niệm vê văn hoá không thể đồng nh ất nó vào một nhân
tô duy nhất, đơn nhất nào. Mỗi nhân tô tham dự vào
văn hoá có vai trò, tác dụng, vị trí riêng của nó và nó
chỉ thực sự có ý nghĩa là một nhân tô" văn hoá khi ở
trong môi quan hệ với những nhân tô" khác, trong trạng
thái động chứ không tĩnh, trong sự kết hợp - tác động
và chuyên hoá chứ không biệt lập, tách ròi, riêng rẽ.


Trong quan niệm vê văn hoá, mọi sự giản lược (đồng
nhất) và giản đơn chỉ làm nghèo nàn văn hoá, làm sai lạc
bản thân nó, vốn là một cái gì đó phong phú, sinh động,
uyển chuyển. Cũng như con người và đời sống xã hội loài

người, văn hoá là một thực thể cấu trúc, một hệ thống
chỉnh thể phức tạp, bởi phát triển nên p h ứ c tạp. Không
có sự phát triển nào, từ sự sống, tư duy đến tổ chức xã
hội và hoạt động làm ra lịch sử mà lại giản đơn, sơ lược
cả. Văn hoá chung đúc tấ t cả những cái đó, nó xa lạ với
chủ nghĩa sơ lược, giản lược, hình thức và sự cứng nhắc
máy móc. Nhìn nhận con người và văn hoá thường vì
hòi hợt, bề ngoài m à người ta nhầm lẫn giữa giản đơn
và giản dị. Nếu g iả n đơn là sự đơn điệu, sơ lược, nghèo
nàn trong nội dung và hình thức biểu hiện hoặc là cái
trống rỗng bên trong của nội dung tư tưởng được che đậy
bằng cái phù phiếm, hào nhoáng của hình thức bên
ngoài thì giả n dị lại biểu đạt cái thực chất, độ sâu sắc, sự
thành thục, nhuần nhuyễn của nội dung đi liền với sự
hài hoà của hình thức, nó là cái đẹp tự nhiên mà xúc cảm
thẩm mỹ của nó bắt nguồn từ cái thật, tính chân thật,
cái bản chất đầy sức thuyết phục, không cần tới sự khiên
cưỡng, gò ép giả tạo nào. Tsecnưsépxki - nhà mỹ học nổi
tiếng người Nga ở thê kỷ XIX nói rằng, cái đẹp chính là
cuộc sông. Đó là thực chất của vấn đề. Giản dị là cái cốt
lõi, cái được kết tinh từ toàn bộ tính phong phú, đa dạng
muôn vẻ. Biểu hiện cái phong phú, phức tạp bằng cái
giản dị, sự giản dị - đó chẳng những là sự chín muồi của
25


×