Tải bản đầy đủ (.doc) (167 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.87 KB, 167 trang )

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Kinh tế tư nhân là một lực lượng kinh tế đã có từ lâu ở nước
ta, nhưng trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thành phần
này còn bị xem nhẹ, thậm chí có những ý kiến đòi xoá bỏ hẳn
thành phần kinh tế này. Thực hiện đường lối "Đổi mới" của Đảng,
lực lượng kinh tế tư nhân đã được khẳng định về mặt chính trị và
pháp lý. Về mặt chính trị, các Nghị quyết của Đảng đã coi kinh tế
tư nhân là một hướng phát triển chiến lược, là một bộ phận hợp
thành của nền kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về mặt pháp lý, vị thế và các
chủ trương chính sách của Nhà nước ta đối với kinh tế tư nhân
được khẳng định trong Hiến pháp và các luật có liên quan, các
Nghị định của chính phủ. Xã hội đã có những nhìn nhân mới cởi
mở hơn đối với thành phần kinh tế này và bước đầu thừa nhận nó
là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Mấy năm gần đây, doanh nghiệp tư nhân
đã phát triển rất nhanh, đã có những đóng góp to lớn vào tốc độ
tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho dân, đóng
góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước, thúc đẩy xuất
khẩu.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay khi xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang
diễn ra mạnh mẽ thì thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam, còn
yếu về nhiều mặt, đã và đang phải đứng trước nhiều khó khăn và
1


thách thức như yếu kém về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh
tranh, trình độ công nghệ, trình độ quản lý, vốn ít và cả những
vướng mắc về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội.


Tất cả khó khăn vướng mắc trên cần phải có những giải pháp
đồng bộ để tháo gỡ, khai thác tối ưu tiềm năng nhằm vượt qua
những thách thức, chớp lấy những cơ hội phát triển mà quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Bởi vậy, tôi đã chọn đề tài "Phát
triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế tư
nhân ở nhiều cấp độ khác nhau trong đó có các tác giả như: Lê
Khắc Triết, Đào Phương Liên, Hà Huy Thành, Trần Ngọc Bút,
Vũ Thị Bạch Nguyệt, Nguyễn Thanh Tuyền, Tô Đức Hạnh... Đối
tượng nghiên cứu của các công trình đó là thành phần kinh tế tư
nhân nói chung. Đứng trên nhiều giác độ nghiên cứu khác nhau,
các tác giả đã nghiên cứu khá công phu về sự hình thành, phát
triển của kinh tế tư nhân. Trong đó có nhiều công trình nghiên
cứu có tính chất chuyên sâu về kinh tế tư nhân như đề tài khoa
học “Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân” của
tác giả Hà Huy Thành, luận án tiến sĩ “Sự phát triển kinh tế tư
nhân trong quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị
trường” của tác giả Đào Phương Liên hay công trình khoa học
“Kinh tế tư nhân trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay” của Viện
thông tin khoa học xã hội, giới thiệu nhiều công trình nghiên cứu
2


về kinh tế tư nhân của nhiều học giả quốc tế. Tuy nhiên, kinh tế tư
nhân là một đề tài rộng lớn cần phải được tiếp tục nghiên cứu và
khai thác, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế nước ta
đang có những bước chuyển mạnh mẽ, có thể chớp được những
thời cơ thuận lợi cho sự phát triển cũng như phải đối mặt với

những thách thức do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Từ giác độ kinh tế - chính trị, luận văn nghiên cứu, phân tích
sự phát triển của kinh tế tư nhân (kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân) thành phần kinh tế dựa trên cơ sở của sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất.
- Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian: chủ yếu trong thời kỳ đổi mới từ sau 1986, đặc
biệt luận văn tập trung nghiên cứu từ 1995 đến nay.
Không gian: Đối tượng kinh tế tư nhân được nghiên cứu
trên phạm vi cả nước.
4. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tư nhân sau đổi mới,
đặc biệt là khi nước ta bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa hội
nhập với thế giới.
- Phân tích và làm rõ thực trạng của kinh tế tư nhân nước ta
hiện nay, từ đó đề xuất những quan điểm, giải phsản phẩm để
phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
3


- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế
chính trị: phương pháp kết hợp logic với lịch sử, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp phân tích số liệu thống kê để
nghiên cứu quá trình phát triển của thành phần kinh tế tư nhân.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề về kinh tế
tư nhân; làm rõ tính tất yếu phát triển của kinh tế tư nhân trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Khảo sát thực trạng kinh tế tư nhân hiện nay, từ đó đánh
giá đúng nhứng tác động tích cực cũng như tiêu cực của nó lên
nền kinh tế Việt Nam.
- Đưa ra một số quan điểm có tính chất định hướng và một
số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế tư
nhân trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta
hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế tư
nhân trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
1.1.1. Kinh tế tư nhân và hội nhập kinh tế quốc tế. Mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế tư nhân với hội nhập kinh tế

quốc tế.
1.1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân và hội nhập kinh tế
quốc tế.
a. Quan niệm về kinh tế tư nhân và vai trò của kinh tế tư
nhân đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đây ở nước ta còn tồn tại những quan niệm khác nhau
về kinh tế tư nhân: trong giới nghiên cứu vẫn chưa có sự thống
nhất ý kiến về vấn đề kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế
hay hay là khu vực kinh tế. Ở nhiều nước, thuật ngữ “kinh tế tư
nhân” được sử dụng để phân biệt với kinh tế nhà nước. Theo
nghĩa rộng, nền kinh tế được chia thành hai khu vực kinh tế chủ
yếu là : 1) Kinh tế nhà nước và 2) kinh tế tư nhân. Tuy nhiên các
quan niệm này có điểm chung là kinh tế tư nhân liên quan chặt
chẽ với sở hữu tư nhân. Và đến Đại hội X năm 2006 đã đưa ra
quan niệm thống nhất về kinh tế tư nhân. Hai thành phần kinh tế
là kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân đã được gộp
5


chung vào thành một thành phần kinh tế duy nhất là thành phần
kinh tế tư nhân với hai hình thức tồn tại cơ bản là cá thể, tiểu chủ
và tư bản tư nhân. Điều này trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X đã xác định rõ: “trên cớ sở ba chế độ sở hữu (toàn
dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.”[6, Tr83].
Như vậy, có thể hiểu kinh tế tư nhân là một thành phần kinh
tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vốn và kết quả sản
xuất kinh doanh được tạo ra cũng thuộc về người sở hữu tư liệu

sản xuất và vốn ấy.
Kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế được hình thành
và phát triển dựa trên nền tảng chủ yếu là sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất và lợi ích cá nhân. Trong lịch sử phát triển kinh tế,
kinh tế tư nhân đã ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự hình thành và
phát triển của kinh tế hàng hoá và ngược lại, sự hình thành và
phát triển kinh tế hàng hoá lệ thuộc vào sự phát triển kinh tế tư
nhân. Dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, chưa có sở hữu tư nhân
và do đó chưa có kinh tế tư nhân. Sở hữu tư nhân xuất hiện khi
chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã và bắt đầu hình thành kinh tế
tư nhân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã mô tả
một cách đầy đủ và toàn diện về sự xuất hiện của sở hữu tư nhân
và khẳng định: chế độ sở hữu tư nhân ra đời là kết quả của quá
trình phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất và phân công lao
6


động xã hội và là cơ sở làm nảy sinh, tồn tại và phát triển kinh tế
tư nhân. Sự tồn tại lâu dài và phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư
nhân trong lịch sử đã chứng tỏ kinh tế tư nhân mang trong mình
nó một động lực mạnh mẽ - động lực cá nhân, thuộc tính tồn tại
lâu dài của con người và cả xã hội loài người.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong lịch sử đã được thể
hiện ở nhiều hình thức và phương thức khác nhau. Trong thời đại
kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, hệ thống kinh tế vận động trong
trạng thái sản xuất giản đơn, hầu như không có giá trị thặng dư,
do đó không có tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng. Đó là nền kinh
tế tất yếu, kinh tế sinh tồn. Nền sản xuất ở đây chủ yếu dựa vào
hai nhân tố: tài nguyên và lao động. Trong điều kiện đó, kinh tế tư
nhân được biểu hiện ở hình thức kinh tế của các hộ sản xuất cá

thể. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ hàng hoá tiền tệ đã làm nảy sinh quan hệ tư bản và diễn ra quá trình chuyển
hoá thành tư bản. Trong nền kinh tế bắt đầu hình thành nên các
chủ thể kinh doanh đầu tư tư bản (vốn) và sử dụng lao động làm
thuê nhằm tạo ra giá trị thặng dư. Quá trình tiến hoá đó đã diễn ra
ở một số nước phương Tây từ thế kỷ XVI, XVII và gắn liền với
sự thủ tiêu chế độ phong kiến và hình thành phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Trong thời đại kinh tế phát triển - kinh tế thị
trường, mục tiêu cuối cùng của sản xuất kinh doanh không chỉ
đơn giản là để sinh tồn mà còn là tạo ra giá trị thặng dự. Một mô
hình sản xuất kinh doanh mới ra đời - mô hình doanh nghiệp.
Trong điều kiện đó, kinh tế tư nhân được biểu hiện ở một hình
7


thức tổ chức sản xuất mới đại biểu cho một lực lượng sản xuất
mới - hình thức doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, do đặc
điểm của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế cá thể
vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển bên cạnh hình thức doanh nghiệp.
Kinh tế cá thể và doanh nghiệp kinh tế tư nhân là những hình thức
biểu hiện chủ yếu của thành phần kinh tế tư nhân. Ở nước ta, kinh
tế tư nhân được hình thành và phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự
nghiệp đổi mới, quan niệm về kinh tế tư nhân cũng từng bước
được thể hiện rõ hơn. Đại hội X của Đảng xác định nền kinh tế
nước ta có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
Như vậy, ở nước ta hiện nay, kinh tế tư nhân là một thành
phần kinh tế với hai hình thức tồn tại chính là: kinh tế cá thể, tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Ở đây, khái niệm thành phần kinh

tế được dùng để chỉ các loại hình kinh tế có cùng một chế độ sở
hữu về tư liệu sản xuất. Hai loại hình kinh tế là kinh tế cá thể, tiểu
chủ và tư bản tư nhân đều có cùng một chế độ sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, vì vậy đều thuộc thành phần kinh tế tư nhân.
Xét về quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân đều thuộc cùng một loại hình sở hữu tư nhân, khác
với sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân là hai hình thức kinh tế khác nhau về trình
độ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Tuy nhiên,
8


trong thực tế, việc phân định rạch ròi đâu là kinh tế tư bản tư
nhân, đầu là kinh tế cá thể, tiểu chủ không phải là việc đơn giản
bởi sự vận động phát triển, biến đổi không ngừng giữa hai loại
hình kinh tế này và sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: tính thời
đại, đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh…
Để xác định bản chất của kinh tế tư nhân, chúng ta cần xem
xét kinh tế tư nhân trên ba mối quan hệ cơ bản, đó là: quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và
quan hệ phân phối sản phẩm.
- Về quan hệ sở hữu: sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là
cơ sở tồn tại của kinh tế tư nhân. Sở hữu tư nhân phát triển từ thấp
đến cao và bao gồm hai hình thức cơ bản: 1) Sở hữu tư nhân nhỏ
là sở hữu của cá nhân hay hộ gia đình sản xuất ra sản phẩm bằng
sức lao động của chính cá nhân hay hộ gia đình đó. Sở hữu tư
nhân nhỏ là hình thức sở hữu tồn tại chủ yếu trong nền sản xuất
hàng hoá giản đơn, giá trị thặng dư không đáng kể; 2) Sở hữu tư
nhân lớn gắn liền với sự xác lập nền sản xuất lớn, là đại biểu của
nền kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao của phương thức

sản xuất tư bản công nghiệp. Trong thời kỳ tích lũy nguyên thuỷ
cơ bản, sở hữu tư nhân lớn ra đời dựa trên cơ sở tích tụ tư bản
(vốn) và sử dụng lao động làm thuê. Một phần lớn giá trị thặng dư
đã được tích luỹ để tái sản xuất mở rộng nhằm không ngừng phát
triển sản xuất kinh doanh, tạo ra ngày càng nhiều hơn giá trị thặng
dư.

9


Đối với hình thức kinh tế cá thể, do dựa trên quy mô nhỏ và
hầu như không sử dụng lao động làm thuê, nên việc tổ chức quản
lý sản xuất được diễn ra trong phạm vi một gia đình cá thể. Các cá
nhân tự mình tổ chức sản xuất hoặc chịu sự phân công, quản lý
của người chủ gia đình trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Kinh tế tiểu chủ là hình thức tổ chức sản xuất có quy mô sản
xuất, kinh doanh lớn hơn kinh tế cá thể, tự mình trực tiếp lao động
và có thuê một phần lao động.
Đối với hình thức tổ chức kinh doanh kiểu kinh tế tư bản tư
nhân, việc tổ chức quản lý sản xuất được biểu hiện ở mô hình
doanh nghiệp. Như đã nêu ở trên, mô hình tổ chức quản lý doanh
nghiệp ra đời gắn liền với sự hình thành của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là
một mô hình tổ chức kinh doanh mà chủ thể doanh nghiệp đồng
thời là chủ thể tư bản (vốn), có thuê mướn lao động và có mục
tiêu tạo ra giá trị thặng dư. Mô hình doanh nghiệp ngay từ khi mới
ra đời đã thể hiện là mô hình tổ chức sản xuất mới, khác với hình
thức kinh tế cá thể.
- Về quan hệ phân phối: về thực chất, quan hệ phân phối là
việc giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các cá nhân

tham gia vào quá trình tái sản xuất. Trong kinh tế tư nhân, các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau có quan hệ phân
phối khác nhau. Đối với kinh tế cá thể, do dựa vào sức lao động
của bản thân nên sản phẩm và kết quả lao động chủ yếu thuộc về
chính họ hay các nhân đó. Đối với kinh tế tư bản tư nhân, nói
10


chung quan hệ phân phối được dựa trên nguyên tắc là: chủ sở hữu
tư liệu sản xuất chiếm phần sản phẩm thặng dư còn người lao
động được hưởng phần sản phẩm tất yếu. Trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa cổ điển, khi kinh tế tư bản tư nhân mới hình thành,
các yếu tố khoa học - công nghệ và trình độ quản lý chưa đóng
vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, nền kinh tế phát triển
theo chiề rộng, dựa vào khai thác tài nguyên và sức lao động.
Quan hệ phân phối chu yếu dựa trên sự đóng góp về vốn, tư liệu
sản xuất và sức lao động. Sản phẩm thặng dư thuộc về nhà tư bản.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các yếu tố khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý của chủ doanh nghiệp, trình
độ tay nghề của người lao động, thị trường,… đóng vai trò ngày
càng quan trọng hơn trong quá trình sản xuất, chủ doanh nghiệp
không còn là người sở hữu duy nhất về vốn và tư liệu sản xuất.
Hơn nữa, trong điều kiện mới, Nhà nước ngày càng có vai trò
quan trọng trong điều tiết quan hệ phân phối. Do vậy, quan hệ
phân phối trong các doanh nghiệp ngày càng trở nên phức tạp.
Sản phẩm thặng dư ngoài phần đóng góp cho Nhà nước và tích
luỹ cho tái sản xuất mở rộng, được phân phối lại bằng rất nhiều
hình thức khác nhau và do các yếu tố đóng góp vào quá trình tạo
ra giá trị thặng dư như: lao động, tổ chức, quản lý sản xuất kinh
doanh, vốn cổ phần…
- Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã

hội
Thứ nhất, tạo công ăn việc làm và góp phần ồn định xã hội
11


Cùng với sự ra đời của Luật kinh doanh, hiện nay các đơn vị
kinh doanh thuộc kinh tế tư nhân thường dễ dàng được tạo lập với
số vốn không lớn, mặt khác dễ thích ứng với sự thay đổi của thị
trường. Vì vậy, tuy số lao động làm trong một cơ sở không lớn
nhưng theo quy luật số đông với một số lượng rất lớn các cơ sở kinh
doanh tư nhân trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm
cho xã hội. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân
thường tạo ra từ 70 - 90% việc làm cho xã hội. Khi khu vực kinh tế
nhà nước bị suy thoái, vai trò này của kinh tế tư nhân càng nổi bật.
Lúc này các doanh nghiệp nhà nước phải thu hẹp quy mô, cắt giảm
lao động do nhu cầu thị trường giảm sút thì ngược lại đối với các
doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân do đặc tính năng động linh hoạt,
dễ thích ứng với sự thay đổi nên vẫn có thể duy trì được hoạt động
thậm chí vẫn phát triển tốt. Vì vậy, các cơ sở tư nhân không những
không giảm số lao động mà vẫn có thể thu hút thêm lao động. Hơn
nữa, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân cũng góp phần chủ yếu đào
tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân
lực. Bên cạnh việc thu hút bộ phận lực lượng lao động do sự cắt
giảm của khu vực kinh tế nhà nước, thì các doanh nghiệp tư nhân
còn thu hút một bộ phận lớn lao động nông nghiệp, giúp họ thích
ứng được với phương thức sản xuất công nghiệp. Trong thực tế
nước ta hiện nay thì 90% số công ăn việc làm mới là do khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra. Như vậy, sự phát triển của kinh tế
tư nhân không chỉ góp phần tạo việc làm mà còn có tác dụng thúc


12


đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang rất mất cần đối
ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Việc thành lập các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân không
đòi hỏi quá nhiều vốn, nhất là với doanh nghiệp quy mô nhỏ. Điều
đó sẽ tạo cơ hội cho đông đảo dân cư, có thể tham gia đầu tư. Mặt
khác, trong quá trình hoạt động các loại hình doanh nghiệp tư nhân
có thể dễ dàng huy động vốn vay dựa trên cơ sở quan hệ họ hàng,
bạn bè… Chính vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển các loại hình
doanh nghiệp tư nhân được coi là phương tiện có hiệu quả trong
việc huy động vốn, sử dụng các khoản tiền đang phân tán, nằm im
trong dân cư, biến chúng thành những khoản vốn đầu tư.
Hơn nữa, các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân thường có
quy mô vừa và nhỏ, lại được phân tán ở hầu hết các địa phương, các
vùng lãnh thổ nên chúng có khả năng sử dụng các tiềm năng về
nguyên vật liệu, lao động và kinh nghiệm sản xuất các ngành nghề
truyền thống của địa phương. Chính sự phát triển của các doanh
nghiệp thuộc kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng trong việc tạo
lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng, đồng thời tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và rút ngắn khoảng cách chênh lệch về
trình độ kinh tế, văn hoá giữa các vùng, miền với nhau.
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Với số lượng đông đảo các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư
nhân đã tạo ra một sản luợng thu nhập đáng kể cho xã hội. Mặt
khác, với tính năng động, linh hoạt của các doanh nghiệp thuộc kinh
13



tế tư nhân và với một mạng lưới phân bố doanh nghiệp rộng khắp
cả nước, các doanh nghiệp này đã tạo ra một khối lượng hàng hoá
dịch vụ rất lớn với cơ cấu, chủng loại phong phú đa dạng đáp ứng
ngày càng tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Đối với các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển khu vực kinh tế tư nhân chiếm 2/3 trong
tổng số doanh nghiệp, đóng góp khoảng 40 - 60% thu nhập quốc
dân. Theo số liệu thống kê năm 2004 ở nước ta hiện nay, các doanh
nghiệp thuộc kinh tế tư nhân chiếm khoảng 80% trong tổng số
doanh nghiệp, đóng góp trên dưới 40% GDP của nền kinh tế.
Bảng1.1: Cơ cấu đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế
(tính theo giá trị thực tế). Đơn vị tính: %
Khu vực kinh tế
2000
Kinh tế có vốn đầu tư nước 13,28

2001
13,75

ngoài
Kinh tế cá thể
32,31 31,84
Kinh tế tư bản tư nhân
7,31
7,95
Kinh tế tập thể
8,58
8,06
Kinh tế nhà nước
38,53 38,40

Nguồn: Tạp chí Tài chính tháng 3/2006

2002 2003 2004
13,76 14,47 15,17
31,57 30,73 30,11
7,30 8,23 8,39
7,99 7,49 7,11
38,38 38,38 39,22

Thứ tư, khu vực kinh tế tư nhân góp phần tăng nguồn hàng
xuất khẩu và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Ngày nay, với xu hướng hội nhập, liên kết, hợp tác quốc tế,
các quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các nước phát triển ngày
càng mạnh mẽ đã làm cho các sản phẩm truyền thống trở thành
nguồn hàng xuất khẩu quan trong. Việc phát triển các loại hình
14


doanh nghiệp tư nhân đã khai thác được tiềm năng, thúc đẩy các
ngành nghề truyền thống của các địa phương như thủ công, mỹ
nghệ phát triển tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu đáng kể.
Bên cạnh đó, việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân sẽ làm
tăng số lượng doanh nghiệp và làm tăng khả năng cung ứng sản
phẩm, dịch vụ cho xã hội. Nhà nước có thể thu được thêm tiền thuế
trên số sản phẩm và dịch vụ gia tăng cũng như thu thêm thuế thu
nhập từ người chủ doanh nghiệp và người lao động trong doanh
nghiệp. Số đóng góp của một doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân là
không lớn nhưng với số lượng đông đảo các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế tư nhân thì khoản đóng góp của khu vực này vào
ngân sách Nhà nước cũng là rất đáng kể.

b. Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế.
Có thể quan niệm hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền
kinh tế của quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia
vào sự phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế đa
phương, chấp nhận tuân thủ những quy định chung được hình thành
trong quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên của các tổ
chức ấy, “luật chơi chung”. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm
không những quan hệ đa phương, song phương mà còn là quan hệ
mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Nội dung của nó về phía kinh tế đối
ngoại là thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học, kỹ thuật …
với từng nước, từng khu vực hoặc các tổ chức quốc tế cũng như
thực hiện các định chế kinh tế cả ở cấp đa phương và toàn cầu. Hội
nhập kinh tế quốc tế, các nước tham gia phải tuân theo những “luật
15


chơi chung” được thể hiện trong một hệ thống những điều ước quốc
tế hết sức phức tạp và chặt chẽ. Nói một cách đơn giản thì quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế phản ánh những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế hay quá trình toàn cầu hoá
kinh tế đã tạo nên nhiều sự liên kết giữa các nền kinh tế quốc gia,
đẩy tới mức độ chuyên sâu của phân công lao động quốc tế.
Các nền kinh tế quốc gia quan hệ chằng chịt, đan xen lẫn nhau
đến mức tạo ấn tượng rằng kinh tế thế giới là một “mạng lưới”
khổng lồ, rất đa dạng, không thuần nhất, trong đó có các nền kinh tế
quốc gia là những điểm nút vừa bảo vệ tính tự chủ, vừa tác động lẫn
nhau và chịu ảnh hưởng của cả “mạng lưới”. Về cơ chế quản lý, ở
tầm vĩ mô cũng như vi mô xuất hiện những sáng kiến mới phù hợp
với đặc điểm mới của kinh tế thế giới. Những tiến bộ về khoa học
công nghệ, về tổ chức sản xuất và quản lý đã tạo ra năng suất lao

động cao hơn, hiệu quả kinh tế lớn hơn, làm cho nền kinh tế thế giới
tạo ra một lượng sản phẩm lớn chưa từng thấy.
Thứ hai, hội nhập kinh tế thực chất là nói đến quá trình toàn
cầu hoá và khu vực hoá kinh tế phù hợp với trình độ lực lượng sản
xuất và các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới.
Có thể nhận thấy quá trình hội nhập kinh tế diễn ra ở nhiều
cấp độ khác nhau: song phương, tam giác, tứ giác, tiểu khu vực, khu
vực, liên khu vực, liên châu lục và toàn cầu; dưới nhiều phương
thức đa dạng: khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị
trường chung, liên minh kinh tế, diễn đàn hợp tác kinh tế; bằng cơ
16


chế ngày càng thông thoáng hơn theo hướng tự do hoá. Cho đến nay
đã hình thành những tổ chức kinh tế toàn cầu như: Quỹ tiền tệ quốc
gia (IMF) gồm 182 nước thành viên; Ngân hàng thế giới (WTO)
gồm 180 thành viên; Tổ chức thương mại thế giới (WTO) gồm 136
thành viên và hàng trăm tổ chức kinh tế khu vực: Liên lục địa
(ASEM, Đại Tây Dương…); khu vực (EU, APEC, Ấn độ
dương…); Tiểu khu vực (Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á, Nam Mỹ,
Bắc Mỹ…); Liên quốc gia (chỉ riêng ASEAN đã có tam giác phía
Nam, tam giác phía Bắc, tiểu vùng lưu vực sông Mêkông…). Có
thể nói hiện nay trên thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
với tốc độ ngày càng nhanh, với lĩnh vực ngày càng nhiều, với hình
thức ngày càng đa dạng.
Những nhân tố nói trên phát sinh từ quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đã tạo nên quan hệ “tuỳ thuộc lẫn nhau” giữa các nền kinh
tế mà không một ai, một nước nào có thể cưỡng lại được. Quan hệ
này cho phép phát huy các thế mạnh và bổ sung các thế yếu của nền

kinh tế quốc gia, đồng thời góp phần củng cố tính độc lập tự chủ
của nền kinh tế quốc gia trong cạnh tranh toàn cầu. Tuy nhiên, đối
với các nước chậm phát triển, cần đề phòng một nguy cơ ngược lại
nếu để diễn ra trên thực tế không phải là sự tuỳ thuộc lẫn nhau mà là
sự tuỳ thuộc một chiều của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế
nước khác.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình giảm thiểu dần
và đi tới xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Hội nhập

17


kinh tế quốc tế cũng đồng thời là quá trình mở cửa các thị trường
quốc gia cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh, đầu tư.
Tham gia vào nền kinh tế thế giới, Nhà nước không được bao
cấp cho các doanh nghiệp trong nước và phải tạo ra một sân chơi
bình đẳng như nhau cho tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài
nước thông qua việc giảm thiểu dần và đi tới xoá bỏ các hàng rào
thương mại. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu có nghĩa là
làm cho các dòng hàng hoá, tư bản, lao động, khoa học kỹ thuật,
thông tin, ý tưởng ... có thể lưu chuyển vòng quanh thế giới với tốc
độ ngày càng cao và dễ dàng hơn giữa các nền kinh tế quốc gia trên
thế giới.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế tư nhân và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra mạnh mẽ
trên thế giới, đặc biệt là ở các nước mới chuyển sang phát triển nền
kinh tế thị trường đã đòi hỏi một sự phân tích, đánh giá lại một cách
thận trọng, khách quan và công bằng hơn về vai trò ngày càng trở
nên quan trọng hơn của thành phần kinh tế tư nhân. Từ những năm

1980 - 1990 trở lại đây, tính hiệu quả của kinh tế trong sự phát triển
đa dạng, đa chiều của nhiều nền kinh tế quốc gia nói riêng và của
nền kinh tế nói chung đã được khẳng định. Nhìn vào thực tế, chúng
ta có thể thấy rằng sự phát triển của kinh tế tư nhân và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế là sự biểu hiện của một mối quan hệ liên kết
cùng phát triển hết sức chặt chẽ. Đó không phải là mối quan hệ tác
động một chiều của cái này lên cái kia mà là sự phát triển tương hỗ,
18


sự phát triển của kinh tế tư nhân có vai trò thúc đẩy sự ra đời, phát
triển của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ngược lại quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế khi đã hình thành lại có sự tác động ngược trở
lại thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn.
Thứ nhất, xem xét từ giác độ sự phát triển của kinh tế tư
nhân, chúng ta có thể thấy vai trò của kinh tế tư nhân trong
việc thúc đẩy quá trình ra đời và phát triển của xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế có thể được biểu hiện ở những điểm chính như
sau:
- Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa
học kỹ thuật và quá trình phân công lao động trên toàn thế giới,
qua đó thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong xã hội phong kiến do lực lượng sản xuất và giao thông
kém phát triển nên sản xuất và trao đổi chỉ được thực hiện trong
một phạm vi qui mô nhỏ. Mặc dù trong thời đại phong kiến đã có sự
thông thương vượt biên giới quốc gia, nhưng chưa tạo ra sự phụ
thuộc trong quan hệ, chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại.
Chỉ đến khi lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự phân công lao
động sản xuất quốc tế, làm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ mang
tính quốc tế, gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau. Lấy lực lượng sản xuất

làm điểm xuất phát để giải thích những nguyên nhân gây nên quá
trình liên kết hội nhập kinh tế giữa các nền kinh tế quốc gia, Mác Angghen đã chỉ rõ: “... hơi nước và máy móc dẫn đến cuộc cách
mạng trong sản xuất công nghiệp. Đại công nghiệp hiện đại thay
cho công trường thủ công”. “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường
19


thế giới”[40, Tr18]. Như vậy, có thể thấy quốc tế hoá chính là có cơ
sở từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, chính những
thành tựu của khoa học công nghệ, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu và năng lượng mới, công nghệ hàng không, vũ trụ đã làm
thay đổi diện mạo của nền kinh tế thế giới. Chính sự phát triển như
vũ bão của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng rào ngăn cách địa
giới trong giao dịch của con người trên tất cả các mặt giữa các quốc
gia. Và khi nói đến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật
chúng ta không thể bỏ qua vai trò quan trọng của các thành phần
kinh tế tư nhân. Chính quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất từ
khi ra đời, phát triển cho đến giai đoạn của chủ nghĩa tư bản đã có
vai trò hết sức quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Dựa trên quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ sản xuất, quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã
tạo điều kiện cho khoa học phát triển một cách nhanh chóng mạnh
mẽ, đặc biệt là trong giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, khi mà
thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội thì quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn
có vai trò nhất định trong phát triển lực lượng sản xuất (điều này đã
được các nhà khoa học Macxít chứng minh), đặc biệt là ở các nước
kém và đang phát triển trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, có thể
khẳng định rằng kinh tế tư nhân có tác động to lớn tới việc hình
thành và phát triển xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.


20


- Phát triển kinh tế tư nhân sẽ thúc đẩy sự phát triển và liên
kết các nền kinh tế thị trường, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Sự tồn tại của hệ thống hình thức, đã quy mô, đa loại hình sở
hữu hiện nay là yêu cầu khách quan của quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Mặt khác, đa dạng hoá loại hình sở hữu cũng chính là củng cố,
mở rộng một trong hai điều kiện cho sự ra đời của sản xuất hàng
hoá và trên cơ sở đó thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cả về quy
mô lẫn tốc độ, nhờ vậy những ưu thế của sản xuất hàng hoá được
tận dụng, phân công lao động xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ
này càng phát triển. Ngày nay kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ
không chỉ ở sự mở rộng về không gian mà còn phát triển theo chiều
sâu với sự hình thành của các loại thị trường, của các loại hình công
cụ thị trường mới. Nền kinh tế thế giới ngày nay thống nhất ở công
cụ vận hành: Cơ chế thị trường - đây chính là một cơ sở quan trọng
thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (quá trình toàn cầu hoá
kinh tế) giữa các quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế thức chất là
việc nền kinh tế thị trường của các quốc gia liên kết, hợp tác với
nhau thành một liên minh thị trường thống nhất trên cơ sở nguyên
tắc các bên tham gia cùng có lợi. Phát triển kinh tế tư nhân là phù
hợp với các quy luật kinh tế khách quan thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế thị trường. Và kinh tế tư nhân thông qua các hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình sẽ tạo ra một sự liên kết chặt chẽ,

21



năng động giữa các thị trường với nhau, thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Kinh tế tư nhân có xu hướng phát triển trở thành các công
ty, tập đoàn kinh tế lớn xuyên quốc gia, chi phối, thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình toàn hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia trên thế
giới.
Sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia TNC
(Transnational Corporation). Các công ty này ngày nay chi phối và
kiểm soát 2/5 thương mại quốc tế, 4/5 nguồn FDI và 9/10 kết quả
nghiên cứu chuyển giao công nghệ thế giới… Chính thông qua các
công ty này mà các nền kinh tế quốc gia liên kết lại với nhau, làm
cho nền kinh tế thế giới ngày càng gắn bó chặt chẽ. Với nhiều cơ sở
hoạt động tích cực và hiệu quả tại nhiều nước đang phát triển (có tới
19,5% công ty mẹ và 50% chi nhánh có mặt ở các nước nghèo, tăng
nhanh tiềm lực khoa học kỹ thuật của nước sở tại bằng chuyển giao
công nghệ, đầu tư và giảm phần nào áp lực thất nghiệp của các nước
này, các nước đang phát triển chiếm tới 47% tổng số chỗ làm do
TNC tạo ra trên toàn thế giới). Rõ ràng, các quan hệ kinh tế xuyên
quốc gia đặt dưới sự điều hành chủ yếu của tư nhân đã làm tăng tính
thống nhất của nền kinh tế thế giới thông qua việc thực thi các hiệp
định, di chuyển lao động, vốn, công nghệ trong nội bộ các TNC. Sự
tiến triển bản chất các quan hệ này từ các quan hệ do quyền lợi quốc
gia quyết định sang các quan hệ do các tác nhân tư nhân quy định
đã làm cho phân công lao động quốc tế trong điều kiện tự do hoá trở
nên hiệu quả hơn, các mối quan hệ gắn kết chặt chẽ hơn. Như vậy,
22



có thể thấy rằng các công ty xuyên quốc gia ngày nay có vai trò rất
to lớn trong quá trình phát triển kinh tế quốc tế của thế giới, mà hầu
hết các tập đoàn xuyên quốc gia trên thế giới hiện nay đều phát triển
đi lên từ các thành phần kinh tế tư nhân là các công ty tư nhân. Vì
vậy, có thể nói sự phát triển kinh tế tư nhân đóng một vai trò quan
trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Hoàn cảnh
mới này buộc các chính phủ phải có cách nhìn nhận tình hình thật
khách quan, đưa ra được chiến lược phát triển xác thực cùng những
cách ứng xử linh hoạt, hợp thời và hiệu quả để có thể vừa tận dụng
được những lợi thế của TNC đưa lại, đồng thời tránh được những
mặt trái vốn có của chúng, như thao túng quốc gia sở tại, tạo ra bất
bình đẳng, gây ô nhiễm môi trường, lồng ghép ý đồ chính trị…
Thứ hai, trong một chiều ngược lại, chúng ta có thể thấy
rằng trong khoảng ba thập kỷ gần đây quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và có những tác
động to lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp (trong đó có
các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân), chủ thể
của các nền kinh tế quốc gia.
Điều này được thể hiện rõ nét qua quá trình tự do hoá mậu
dịch đang ngày càng mở rộng và khẳng định tính hiệu quả của cách
thức tổ chức sản xuất quy mô toàn cầu với sự lưu chuyển xuyên
quốc gia của các dòng hàng hoá, tư bản, lao động, thông tin, ý
tưởng… dựa trên một hệ thống tài chính đang được quốc tế hoá
hoàn toàn. Việc hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị bãi bỏ từng
bước, hình thành nên những thị trường rộng lớn đã tạo thuận lợi
23


những luồng hàng hoá, dịch vụ gia tăng nhanh chóng cả về lượng và
chất. Đối với các nước đang phát triển, tự do mậu dịch giúp họ

nhanh chóng tiệp cận nhiều sản phẩm mới vốn là thành quả của tiến
bộ khoa học và công nghệ được các nước phát triển đầu tư nghiên
cứu và triển khai. Thêm nữa, đẩy mạnh tự do hoá mậu dịch, các
quốc gia nghèo có thể tiếp nhận nhiều vốn để bổ sung cho phần
thiếu hụt của đầu tư trong nước, tiếp nhận công nghệ mới để giảm
dần khoảng cách giữa khu vực truyền thống năng suất thấp do hàm
lượng lao động, tài nguyên cao với khu vực hiện đại năng suất cao
nhờ hàm lượng công nghệ, phong cách quản lý tiên tiến, góp phần
nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới. Bởi
những lẽ đó, tự do mậu dịch có tác động tích cực đến quá trình tăng
trưởng kinh tế của các nước này. Việc tạo ra một thị trường đơn
nhất có tác động mở rộng khuôn khổ hoạt động của các doanh
nghiệp trong nhiều lĩnh vực mà tiến bộ công nghệ đã làm đảo lộn
điều kiện sản xuất và tạo ra những cơ hội mới. Kinh nghiệm về nhất
thể hoá Châu Âu cho thấy rõ điều này. Châu Âu đã dự kiến kế
hoạch về thị trường đơn nhất nhằm đạt được sự hợp nhất bằng cách
phá bỏ những rào càn dai dẳng đối với việc lưu thông hàng hoá,
dịch vụ, tiền vốn và con người trong khối thị trường chung. Như
vậy, có thể thấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến sự
phát triển các nền kinh tế các quốc gia, mà chủ thể của nó là các
doanh nghiệp (trong đó có các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế tư nhân) thông qua những thách thức cũng như cơ hội mà kinh tế
quốc tế đem lại:
24


Những cơ hội là: có một thị trường rộng lớn để có thể tiêu thụ
sản phẩm được sản xuất ra; thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư
nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và các định
chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ

quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…, có điều kiện
tiếp nhận công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý thông qua các
dự án đầu tư, hợp tác liên doanh liên kết.
Những thách thức: Đồng hành với cơ hội, nền kinh tế quốc
gia tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ phải đối đầu với
những thách thức to lớn. Đó là sự cạnh tranh quyết liệt trên cả ba
cấp độ do hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ, do phải thực hiện chế độ đãi
ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia, nên các sản phẩm trong nước
sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với các sản phẩm nước khác không chỉ
trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường nội địa. Điều đó
không chỉ đòi hỏi bản thân sản phẩm phải có chất lượng cao, giá
thành hạ (điều này chủ yếu do công nghệ sản xuất, công nghệ quản
lý của doanh nghiệp quyết định) để sản phẩm được người tiêu dùng
chấp nhận, mà doanh nghiệp còn phải có khả năng thị trường, làm
tốt các dịch vụ sau bán hàng và xây dựng thương hiệu. Bằng cách
đó, doanh nghiệp đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng và mở
rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy, cạnh tranh không chỉ ở cấp độ
sản phẩm mà còn là ở cấp độ doanh nghiệp. Chưa hết! Là đơn vị
kinh tế cơ sở, hoạt động của doanh nghiệp tuy phản ánh tất cả,
nhưng tự nó không quyết định tất cả. Khả năng cạnh tranh của một
doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào chi phí đầu vào mà doanh
25


×