Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (2).DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.25 KB, 106 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, BH PNT đã bắt đầu hình thành từ năm 1965. Từ 1965 đến
1994 là thời kỳ BH PNT hoàn toàn hoạt động độc quyền với một DNBH Nhà
nước duy nhất . Do vậy, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế rất hạn chế.
Bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành BH Việt
Nam được đánh dấu bằng Nghị định 100/NĐ-CP,ban hành ngày 18 tháng 12 năm
1993 về KDBH. Theo đó, đã ra đời một số công ty BH và TTBH Việt Nam mới
bắt đầu hình thành, hoạt động và bước đầu đáp ứng được một số nhu cầu của các
tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, TTBH nói chung và TTBH phi nhân thọ
nói riêng còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục, đổi mới.Mặt khác, trong su thế hội
nhập kinh tế quốc tế và trong điều kiện nước ta ra nhập tổ chức thương mại quốc
tế WTO, các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực tài chính,
bảo hiểm.... Vì vậy, rất cần thiết phải có những đổi mới toàn diện, tạo nên bước
phát triển đột phá trong ngành BH phi nhân thọ.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, tác giả đã chọn chủ đề :“Phát triển thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế” làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Ở Việt Nam, TTBH phi nhân thọ mới được hình thành từ năm 1994. Ngành
BHTM nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng còn rất non trẻ, nhìn chung
còn là lĩnh vực mới mẻ. Do đó, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
vấn đề này, mới chỉ dừng lại ở một số chuyên đề, hội thảo ở một lĩnh vực nhất
định của TTBH phi nhân thọ. Một vài luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu về thị
trường bảo hiểm Việt Nam, tuy nhiên mới chỉ nghiên cứu trên lĩnh vực Maketing,
lịch sử kinh tế… và cũng chỉ trong một vài lĩnh vực cụ thể. Chưa có một công
1
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể đặc biệt là trên góc độ Kinh tế
chính trị và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
PGS –TS Phương Ngọc Thạch đã viết chuyên đề về thị trường bảo hiểm:
vấn đề và kiến nghị, song mới chỉ nói riêng về bảo hiểm con người và bảo hiểm


hàng hóa xuất nhập khẩu. Ths. Nguyễn Tiến với chuyên đề: Mở cửa TTBH Việt
Nam - thực trạng và giải pháp. Chuyên đề không đánh giá mà chỉ bàn về những
quan điểm của Chính phủ trong việc phát triển TTBH, xoay quanh việc mở cửa
TTBH. Tác giả Trần Đình Ba, với đề tài BH phi nhân thọ trong quá trình mở cửa
TTBH Việt Nam mới chỉ đề cập đến vấn đề tăng doanh thu phí bảo hiểm.
Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm
Việt Nam của tác giả Trần Trung Tính (2002), nghiên cứu trong lĩnh vực
maketing của TTBH nói chung. Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Quá trình phát triển
thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2004 - thực trạng
và giải pháp, của tác giả Trịnh Thị Xuân Dung ( 2005), nghiên cứu trong lĩnh vực
lịch sử kinh tế và cũng chỉ tập trung nghiên cứu những DNBH lớn trong điều kiện
thực tế của thời gian nghiên cứu. Nhìn chung các luận văn trên mới chỉ nghiên
cứu TTBH trong phạm vi “đóng” mà không đặt nó trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế. Mặt khác, các luận văn đó cũng chỉ tập trung nghiên cứu về mặt kinh
doanh BH mà chưa chú trọng đến mảng đầu tư vốn nhàn dỗi vào nền kinh tế của
các DNBH.
Điểm khác biệt của luận văn là nghiên cứu toàn diện, tổng thể TTBH phi
nhân thọ dưới góc độ kinh tế chính trị và đặt nó trong điều kiện hội nhập KT quốc
tế. Đồng thời nghiên cứu đầy đủ cả KDBH và đầu tư trở lại nền kinh tế cũng như
vị trí, vai trò của các DNBH phi nhân thọ với tư cách là trung gian tài chính trong
thị trường tài chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ khoa học của luận văn:
- Góp phần làm rõ những vấn đề về lý luận về BH phi nhân thọ và TTBH
PNT. Vận dụng những vấn đề đó vào điều kiện thực tế ở Việt Nam.
2
- Phân tích, đánh giá thực trạng TTBH phi nhân thọ ở Việt nam trong thời
gian từ 1994 đến 2005.Khảo sát kinh nghiệm TTBH một số nước.
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTBH PNT.
- Đề xuất những phương án, giải pháp nhằm phát triển TTBH phi nhân thọ
ở Việt Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận chung về TTBH phi nhân
thọ. Những nhân tố để phát triển TTBH phi nhân thọ.
Phạm vi: Nghiên cứu toàn bộ TTBH PNT Việt Nam từ 1994 đến 2005.
5. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lịch sử
với phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra,
phương pháp so sánh, hệ thống hóa cũng được sử dụng để thực hiện luận văn.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ những vấn đề chung về BH PNT và TTBH phi nhân thọ.
- Trình bày một số kinh nghiệm về phát triển TTBH PNT ở các nước trên
thế giới, có thể vận dụng vào phát triển TTBH PNT ở Việt Nam.
- Qua phân tích thực trạng và hệ thống các giải pháp nhằm cải thiện môi
trường KDBH PNT ở Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBH
PNT, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực KDBH PNT để phát triển thị TTBH
PNT ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo luận văn có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm phi nhân thọ và thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ.
Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở
Việt Nam.
3
Chương 3: Định hướng và giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
VÀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1. BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ

TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1.1.1. Những vấn đề chung về bảo hiểm thương mại và bảo hiểm phi nhân thọ
Trong đời sống xã hội, con người phải thường xuyên có mối quan hệ tác
động qua lại với tự nhiên, xã hội và cũng luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro
bất ngờ xảy ra như: Bão, lụt, động đất, sóng thần, rét, hạn hán, tai nạn lao động,
tai nạn giao thông, mất trộm, mất cắp tài sản, ốm đau dịch bệnh, mất việc làm, hỏa
hoạn, bạo lực… đều có ảnh hưởng đến thu nhập và hoạt động của các tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân…gây tác động xấu đến KT XH nói chung.
Để đối phó, xử lý các rủi ro con người có các biện pháp khác nhau. Có thể
là kiểm soát, ngăn chặn việc xảy ra rủi ro, nhưng trên thực tế có nhiều loại rủi ro
bất ngờ không thể kiểm soát được. Biện pháp khác là chấp nhận rủi ro tức là tự
khắc phục hậu quả.Cũng có thể chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng -đây chính
là bảo hiểm.BH là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu
quả nhất. Như vậy, BH ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống và hoạt động
sản xuất kinh doanh.
1.1.1.1. Khái niệm và nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại
a) Khái niệm: Có rất nhiều cách khái niệm về BHTM.Tùy thuộc vào quan
niệm của từng lĩnh vực mà các khái niệm có một số điểm khác nhau:
- Theo ủy ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa kỳ
thì: Bảo hiểm là việc tập trung các tổn thất bất ngờ bằng việc chuyển giao những
4
rủi ro gây ra chúng cho những người bảo hiểm khi họ cam kết bồi thường cho
những tổn thất này, cung cấp các quyền lợi bằng tiền khác khi tổn thất xảy ra,
hoặc cung cấp các dịch vụ liên quan đến rủi ro.
- Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì: Bảo hiểm là sự thỏa thuận, qua
đó một bên ( Người bảo hiểm) cam kết sẽ thanh toán cho bên kia ( Người được
bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm), một khoản tiền nếu có sự cố xảy ra gây
tổn thất về tài chính cho Người được bảo hiểm. Trách nhiệm thanh toán những tổn
thất này được chuyển giao từ Người tham gia bảo hiểm đến Người bảo hiểm. Để
chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, Người bảo hiểm đòi Người được bảo hiểm

một khoản tiền đó là phí bảo hiểm.
- Một cách toàn diện hơn người Pháp cho rằng: Bảo hiểm là một hoạt động,
thông qua đó một cá hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi
trả nếu rủi ro xảy ra, nhờ vào khoản đóng góp cho mình hay cho người khác.
Khoản bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhiệm, tổ chức này có
trách nhiệm trước các rủi ro và bù trừ chúng theo qui luật thống kê.
Dù BHTM được khái niệm bằng cách nào nhưng nó đều thể hiện bản chất
của BH nói chung đó là sự san sẻ rủi ro trên cơ sở số lớn của các cá nhân và tổ
chức xã hội thông qua hoạt động của các tổ chức BH. Nói cách khác BH là
phương sách xử lý tủi ro, nhờ đó việc chuyển giao, phân tán rủi ro trong từng
nhóm người được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh của các DNBH.
b) Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại
*) Nguyên tắc số đông bù số ít: KDBH là việc người BH tìm kiếm lợi ích kinh
tế dựa trên cơ sở hợp đồng BH, mà theo đó đổi lấy phí BH, người BH cam kết
thực hiện bồi thường, hoặc trả tiền BH cho người được BH khi có sự kiện BH xảy
ra. Khoản tiền bồi thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với
khoản phí BH mà các DNBH nhận được. Để làm được điều này, hoạt động của
BHTM phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt
không thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào.
5
Các DNBH thông qua việc huy động bằng hình thức phí BH, thành lập nên
quỹ bồi thường để chi trả cho các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những
người tham gia BH. Các DNBH đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số
lớn. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia BH thì quỹ BH tích tụ được
càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng, rủi ro được san sẻ cho nhiều người
hơn. Thông thường, một sản phẩm BH chỉ có thể được triển khai có hiệu quả khi
có nhiều nhu cầu về cùng loại dịch vụ đó.
*) Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm: Về nguyên tắc, những rủi ro có thể
được BH là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được và những nguyên nhân
gây ra rủi ro phải là khách quan và không cố ý. Vì vậy, các DNBH thường không

nhận BH cho các trường hợp tổn thất gây ra do hành vi cố ý của người tham gia
BH (ví dụ cố ý tự tử), những tổn thất đã xảy ra, hoặc chắc chắn sẽ xảy ra ( ví dụ
hao mòn tự nhiên, giảm giá trị thương mại..), hay những tổn thất bởi người tham
gia BH vi phạm nghiêm trọng pháp luật…Để đảm bảo nguyên tắc này, trong các
điều khoản của hợp đồng BH luôn qui định các rủi ro bị loại trừ.
Nguyên tắc này nhằm tránh việc bồi thường cho những tổn thất có thể thấy
trước hoặc chắc chắn sẽ xảy ra. Đồng thời làm giảm sác xuất rủi ro trong khi tính
toán và đưa ra mức phí BH chính xác, hợp lý. Nguyên tắc này không chỉ đảm bảo
quyền lợi cho các DNBH mà chính những người tham gia BH cũng được hưởng
mức phí BH hợp lý và cảm thấy công bằng hơn khi mua BH.
*)Nguyên tắc phân tán rủi ro: Các DNBH có chức năng huy động và thành lập
quỹ BH trên cơ sở sự đóng góp của nhiều người. Đây là một quỹ tài chính lớn và
dùng để thực hiện cam kết bồi thường và chi trả BH. Tuy nhiên các DNBH cũng
phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn mà không phải lúc nào DNBH cũng
đảm bảo được khả năng thanh toán ( có thể thấy điều này ở các DNBH có qui mô
nhỏ, hoặc mới thành lập).
Vì lý do trên, các nhà BHTM thường không nhận những rủi ro quá lớn vượt
quá khả năng tài chính của mình. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kỵ là phải từ
BHIỂM
PHI

NHÂN
THỌ
6
chối nhận BH, đồng thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, các DNBH áp
dụng nguyên tắc phân tán rủi ro đó là đồng BH và tái BH. Nếu trong đồng BH,
nhiều DNBH cùng nhận BH cho một rủi ro lớn thì tái BH lại là phương thức trong
đó, một DNBH nhận BH cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt phần rủi ro cho
một hoặc nhiều DNBH khác.
*) Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Nguyên tắc này đòi hỏi các DNBH phải có

trách nhiệm cân nhắc các điều kiện điều khoản để soạn thảo hợp đồng đảm bảo
cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà BH là sản phẩm dịch vụ và
là sản phẩm “vô hình”. Người mua chỉ có trong tay một hợp đồng, một cam kết
chứ không hề có một sản phẩm cụ thể. Vì vậy, chất lượng sản phẩm có được đảm
bảo hay không, quyền lợi của người mua có được đầy đủ công bằng hay không…
đều chủ yếu dựa vào sự trung thực từ phía các DNBH. Ngược lại, nguyên tắc này
cũng đòi hỏi người tham gia BH phải trung thực khi kê khai về những đối tượng
trước khi tham gia BH, để xác định mức phí phù hợp, cũng như phải trung thực
khi khai báo rủi ro trong khi đòi bồi thường. Mọi hành vi gian lận, không trung
thực, nhằm trục lợi BH sẽ bị pháp luật xử lý.
*) Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Nguyên tắc này yêu cầu người
tham gia BH phải có một số quan hệ với đối tượng tham gia BH và được pháp luật
công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng, quyền tài sản và quyền nghĩa vụ nuôi,cấp dưỡng đối với đối tượng
được BH. Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng BH cho tài sản của người khác,
hoặc cố tình gây thiệt hại nhằm thu lợi từ một hợp đồng BH.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, còn có một số nguyên tắc đó là nguyên
tắc bồi thường, nguyên tắc khoán…áp dụng cho từng trường hợp cụ thể.
1.1.1.2 Bảo hiểm phi nhân thọ và phân loại bảo hiểm phi nhân thọ
a) Bảo hiểm phi nhân thọ: Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào đưa ra một
khái niệm riêng cho BH phi nhân thọ. Song có thể hiểu khái niệm về BH phi nhân
thọ chính là khái niệm BH thương mại, bởi lẽ:
BHIỂM
PHI

NHÂN
THỌ
7
Nguyên tắc hoạt động, đối tượng và lĩnh vực hoạt động của BHTM cũng
chính là những nguyên tắc, đối tượng và lĩnh vực hoạt động của BH PNT . Đối

tượng bao gồm các loại tài sản (hữu hình và vô hình), con người và một số trách
nhiệm phát sinh do mối quan hệ giữa con người với con người. Vì vậy, theo tiêu
thức đối tượng, BHTM gồm có: BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự và BH con
người (bao gồm con người PNT và BH nhân thọ). Như vậy, có thể hiểu BHTM
hoạt động trên hai lĩnh vực PNT và nhân thọ - trong đó BH nhân thọ chỉ là một
hình thức của BH con người.( BH nhân thọ là sự cam kết trong đó người BH sẽ trả
cho người tham gia BH một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước
xảy ra, còn người tham gia BH phải nộp phí BH theo qui định của hợp đồng. BH
nhân thọ là quá trình BH các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi
thọ con người, đồng thời nó còn có tính chất tiết kiệm). BH PNT không có tính
tiết kiệm và chỉ BH rủi ro khách quan, bất ngờ.
Chúng ta có thể thấy rõ điều muốn nói ở trên qua sơ đồ sau:
b) Phân loại bảo hiểm phi nhân thọ: Tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm ý nghĩa
mà các sản phẩm BH được phân chia thành các nhóm như sau:
*) Nếu căn cứ theo hình thức tham gia, BH phi nhân thọ có hai loại: Bảo hiểm
bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Phần lớn các sản phẩm BH PNT là BH tự
nguyện. Việc tham gia BH hay không phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của
người tham gia BH. Các DNBH đáp ứng được hay không cũng tùy thuộc vào khả
BẢO
HIỂM
THƯƠNG
MẠI
BẢO
HIỂM
THƯƠNG
MẠI
BHIỂM
TÀI SẢN
BHIỂM
TNDSỰ

BHIỂM
CON
NGƯƠÌ
BH CON
NGƯỜI PNT
BHIỂM
NHÂN THỌ
BHIỂM
PHI

NHÂN
THỌ
8
năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của DN đó. Trong khi đó, BH bắt buộc
bao gồm các sản phẩm BH mà pháp luật qui định các tổ chức cá nhân phải tham
gia BH và các DNBH phải phục vụ theo một số điều khoản, mức phí và mức trách
nhiệm BH theo qui định của nhà nước. Hiện nay ở Việt Nam có một số loại BH
bắt buộc như: BH bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và hành
khách trên xe, BH trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật,
BH trách nhiệm nghề nghiệp của DN môi giới BH, một số loại BH cháy nổ.
*) Nếu căn cứ theo đối tượng bảo hiểm phi nhân thọ có ba loại: BH tài sản, BH
trách nhiệm dân sự và BH con người phi nhân thọ.
- Bảo hiểm tài sản: Là loại BH có đối tượng là tài sản ( có thể là hữu hình hoặc
vô hình). Những tài sản hữu hình tồn tại dưới hình thể vật chất ( nhà cửa, phương
tiện vận chuyển, đường xá, cầu cống bến cảng, cây trồng vật nuôi…) và tài sản vô
hình là phát minh, sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa…Với sự đa dạng đó,
cho đến nay không phải tất cả các loại tài sản đều đã có thể được BH, song cũng
đã hình thành nhiều loại BH tài sản khác nhau.
Hiện nay, ở Việt nam có những nghiệp vụ BH tài sản cơ bản sau:
+ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; BH hàng hóa vận chuyển nội địa.

+ BH thân tàu ( tàu biển, tàu hoạt động nội thủy, sông hồ,thuyền đánh cá)
+ Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới.
+ Bảo hiểm thân máy bay.
+ Bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng; Bảo hiểm lắp đặt.
+ Bảo hiểm tài sản trong vận chuyển dầu, thăm dò khai thác dầu khí.
+ Bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt.
+ Bảo hiểm nông nghiệp ( cây trồng vật nuôi).
+ Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
+ Một số nghiệp vụ khác: BH tiền trong két, nhà tư nhân,trộm cắp,tín dụng …
Đặc trưng cơ bản của BH tài sản: Người được BH có thể do chủ sở hữu
hoặc người được giao quyền chiếm hữu sử dụng, người thừa kế. BH tài sản có thể
9
nhận BH một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản , không BH lớn hơn giá trị tài sản
đó. Trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường không thể lớn hơn thiệt hại của tài
sản đó trong một sự cố BH.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS): TNDS là một loại trách nhiệm
pháp lý, nó phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. TNDS được coi là biện pháp
cưỡng chế, nó được áp dụng đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật. Nhìn
chung TNDS là trách nhiệm bồi thường thiệt hại .Tại điều 3.10 Bộ Luật dân sự
nước ta đã chỉ rõ: “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù
đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra.
Người gây thiệt hại… phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại”.TNDS có
hai loại TNDS theo hợp đồng và TNDS ngoài hợp đồng. Một số nghiệp vụ BH
TNDS cơ bản:
+ BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 và hành khách trên xe.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hàng hóa vận chuyển trên xe.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ tàu biển.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ hãng hàng không
+ Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ thầu đối với người thứ ba trong xây lắp.

Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm TNDS: Đối tượng BH trong BH TNDS
mang tính trìu tượng: Khi thiết lập hợp đồng thì đối tượng BH chưa xuất hiện. Nó
chỉ biểu hiện cụ thể khi có sự cố xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường.
Phương thức BH có thể là có giới hạn (được ấn định trong hợp đồng), hoặc không
giới hạn (không ấn định trước mà bồi thường theo phát sinh trách nhiệm)
- Bảo hiểm con người phi nhân thọ: Là loại BH có mục đích thanh toán
những khoản trợ cấp hoặc số tiền ấn định cho người được BH hoặc người được
thụ hưởng BH, trong trường hợp xảy ra những sự kiện tác động đến chính bản
thân người được BH. Những rủi ro trong BH con người PNT là tai nạn, bệnh tật,
ốm đau, tử vong. Vì lý do giá trị con người là không thể xác định bằng tiền, nên
10
trong BH con người không có khái niệm BH trùng, và thuật ngữ “chi trả BH”
hoặc “thanh toán tiền BH” được thay thế cho “bồi thường bảo hiểm”.
- Một số loại BH con người ở Việt Nam hiện nay: BH tai nạn con người,
BH trợ cấp nằm viện và phẫu thuật, BH sinh mạng cá nhân, BH toàn diện học
sinh, BH tai nạn hành khách, BH tai nạn thuyền viên, BH khách du lịch…..
- Đặc trưng của BH con người PNT: Đối tượng của BH con người PNT là
tính mạng, sức khỏe: Đây là một phạm trù phi giá trị hóa.Số tiền BH, được ấn
định trước trên hợp đồng BH. Khi có sự kiện BH, các khoản tiền BH được thanh
toán mang tính chất khoán chứ không phải là bồi thường thiệt hại.
Việc phân loại như trên sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát
triển các sản phẩm BH khác nhau. Mặt khác, nó giúp các DNBH quản lý tốt
nghiệp vụ và tiến hành tổ chức kinh doanh khoa học và có hiệu quả cao hơn.
1.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ
a) Đặc điểm của bảo hiểm phi nhân thọ
- Quá trình hoạt động KDBH phi nhân thọ, là quá trình tạo lập, quản lý và
sử dụng quỹ tiền tệ của các DNBH.
- Trên phương diện xử lý rủi ro, BH là loại biện pháp rất có hiệu quả. Cơ
chế hoạt động là chuyển giao, phân tán rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Cơ chế đó
khiến cho việc gánh chịu rủi ro, đặc biệt là những rủi ro trầm trọng vượt quá khả

năng chống đỡ của mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức trở nên dễ dàng hơn.
- Đã có ý kiến cho rằng, ở một góc độ nào đó BH PNT là “kinh doanh rủi
ro”điều này đúng nhưng chưa đủ. Một trong những đặc điểm của BH PNT là chỉ
nhận BH cho những rủi ro có thể xảy ra và gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng,sức
khỏe..mà không có tính chất tiết kiệm như BH nhân thọ.Điều đó cũng có nghĩa chỉ
khi các rủi ro được BH gây thiệt hại cho người được BH thì mới được bồi thường.
Khi hết thời hạn BH mà không có rủi ro xảy ra thì người được BH hết quyền lợi
và đương nhiên sẽ không được trả lại số phí BH đã đóng.
11
- Thời hạn của hợp đồng BH phi nhân thọ thường là 01 năm hoặc ngắn hơn
( ngoại trừ một số hợp đồng trong BH xây dựng lắp đặt có thời hạn theo thời gian
xây dựng công trình). Thậm chí có những hợp đồng BH chỉ có hiệu lực vài tháng (
ví dụ BH hàng hoá xuất nhập khẩu), vài ngày ( BH vận chuyển hàng hóa, BH du
lịch), hoặc chỉ và giờ ( BH tai nạn hành khách, BH du lịch).
- Nếu BH nhân thọ áp dụng kỹ thuật tồn tích, thì bảo hiểm con người phi
nhân thọ lại áp dụng kỹ thuật phân chia trong quản lý quỹ tài chính BH.
b) Vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ
- BH PNT góp phần đảm bảo ổn định đời sống, ổn định tài chính, từ đó ổn
định về tinh thần cho người tham gia BH và mang lại sự an toàn cho xã hội. Khi
gặp rủi ro thiên tai hay tai nạn bất ngờ, các cá nhân, DN sẽ bị tổn thất về kinh tế
hoặc thiệt hại về người.Tổn thất đó sẽ được BH bồi thường hoặc trợ cấp về tài
chính, để người tham gia BH nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống,
khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh. Từ việc hỗ trợ tài chính, BH còn đáp
ứng các nhu cầu về đảm bảo an toàn cho người tham gia BH, đưa đến cho họ sự
tin cậy về sự an toàn và một chỗ dựa tinh thần.
- Do tính chất nghề nghiệp và xuất phát từ chính lợi ích của các DNBH phi
nhân thọ, đòi hỏi họ phải có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá rủi ro, thống kê tai
nạn, xác định các nguyên nhân và đề ra các biện pháp kiểm soát , ngăn ngừa giảm
thiểu rủi ro cho toàn xã hội. Để thực hiện điều đó, các DNBH PNT thường xuyên
tiến hành các hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất giúp cho cuộc sống con người

an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo của mỗi cá nhân mỗi DN. Điều
này có ý nghĩa rất lớn đối mỗi con người và toàn xã hội.
- Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động KDBH PNT là tạo
lập, quản lý quỹ tài chính đủ lớn, nhằm chủ động đối phó với rủi ro và góp phần
làm giảm “tổng rủi ro” của xã hội. Trong cuộc sống cũng như trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, mỗi cá nhân hay tổ chức, DN khó mà xác định được có những
rủi ro gì mà họ sẽ gặp phải và mức độ thiệt hại là như thế nào, bởi lẽ rủi ro luôn là
12
ngẫu nhiên và bất ngờ. Vì vậy, họ khó có thể định trước được kế hoạch tài chính
để đối phó với những thiệt hại đó. Tuy nhiên, các DNBH có thể tính toán xác suất
rủi ro trên cơ sở quy luật số lớn, từ đó có kế hoạch tài chính tương đối phù hợp với
những hậu quả của các rủi ro có thể gây nên.
- BH PNT là “ tấm lá chắn” hữu hiệu cho các DN, thông qua việc ổn định
giá thành sản phẩm. Thật vậy, khi không may gặp rủi ro bất ngờ, DN sẽ bị thiệt
hại về tài chính và chắc chắn sẽ đẩy chi phí của DN tăng lên. Khi đó nếu giữ
nguyên giá để cạnh tranh, thì sẽ bị giảm lợi nhuận thậm chí bị lỗ. Ngược lại nếu
tăng giá thì sẽ mất cạnh tranh về giá. Tác động này là rất lớn nếu DN gặp những
thiệt hại lớn do rủi ro. Đây là bài toán rất khó hóa giải,nhất là đối với các DN vừa
và nhỏ có số vốn hạn chế dễ bị “ chèn ép” về giá. Bài toán đó sẽ được các DNBH
PNT hóa giải một cách đơn giản nếu các DN tham gia BH.
- BH PNT góp phần ổn định chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các tổ chức, đơn
vị hoạt động bằng nguồn ngân sách Nhà nước có thể tham gia BH. Thay vì bỏ ra
số phí BH “ tương đối nhỏ”, mà ngân sách Nhà nước không phải chi ra số tiền có
thể rất lớn để trợ cấp cho các thành viên khi gặp rủi ro. Mặt khác, BH PNT cũng
còn đóng góp vào ngân sách Nhà nước thông qua các loại thuế.
- BH PNT có thể cung cấp một số vốn không nhỏ để đầu tư, phát triển kinh
tế - xã hội. Với đặc điểm trong KDBH : phí nộp trước, việc bồi thường, trả tiền
BH chỉ phải thực hiện sau đó một thời gian. Vì vậy, lượng vốn phần lớn có thời
gian tạm thời nhàn rỗi sẽ được đem đầu tư vào nền kinh tế. Thực tế ở nhiều quốc
gia phát triển, các tổ chức BH hoạt động rất mạnh trên thị trường bất động sản, thị

trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường vốn. Đóng vai trò là một rung gian tài
chính, các tổ chức BH thu hút vốn, cung ứng vốn, thúc đẩy nhanh sự luân chuyển
về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
- Bảo hiểm phi nhân thọ cũng góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế
giữa các nước thông qua hoạt động tái BH.
13
- Cuối cùng BH PNT là chỗ dựa tinh thần cho mọi cấ nhân,tổ chức xã
hội;giúp họ yên tâm trong cuộc sống sinh hoạt và trong sản xuất kinh doanh. Bởi
vì với một giá khiêm tốn ( phí BH), BH PNT có thể giúp đỡ các gia đình các tổ
chức, DN khắc phục những hậu quả khôn lường mà rủi ro gây ra.
- BH PNT- một trung gian tài chính trong thị trường tài chính: Cũng như
các thị trường tài chính, các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức năng dẫn
vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Không có trung gian tài chính, thị trường
tài chính không thể có lợi ích trọn vẹn, bởi lẽ nó thực hiện việc “ kết nối” những
món tiền nhàn rỗi với những người đi vay một cách nhanh chóng, hiệu quả và an
toàn nhất.
Các doanh nghiệp BHTM, trong đó có DNBH phi nhân thọ là một trong
những trung gian tài chính quan trọng trong thị trường tài chính. Các DNBH phi
nhân thọ thực hiện trung gian tài chính bằng tích tụ, tập trung một quỹ tiền tệ từ
nguồn thu phí BH của khách hàng. Nguồn vốn này phần lớn là có thời gian tạm
thời nhàn rỗi và dùng để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức: Mua công trái,
trái phiếu, cổ phiếu, đầu tư bất động sản, cho vay ủy thác…. Như vậy, các DNBH
PNT đã góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy nhanh sự luân chuyển của
vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.2.1. Bảo hiểm phi nhân thọ trên thế giới:
Trên thế giới, BH đã có lịch sử hơn nửa thiên niên kỷ phát triển. Sự ra đời và
quá trình phát triển của nó được ghi nhận bởi những dấu ấn đáng chú ý sau:
- Ai Cập (khoảng 2.500 năm trước công nguyên) những người thợ đẽo đá đã
biết lập quỹ tương trợ để giúp đỡ những người gặp hoạn nạn.

- Babylone (khoảng 1700 năm trước công nguyên) và Athènes (khoảng 500
năm trước công nguyên) xuất hiện hệ thống vay mượn với lãi suất rất cao, có khi
lên đến 400% nhằm phục vụ cho việc buôn bán và vận chuyển hàng hóa. Hình
thức cho vay với “mạo hiểm lớn”. Điểm đáng chú ý ở quan hệ cho vay mượn là
14
nếu hàng hoá có rủi ro, tổn thất thì người vay không phải trả khoản tiền đã vay.
Thực chất đó là một sự kết hợp giữa hoạt động vay mượn và ý đồ BH.
- Rôme: Hệ thống cho vay dựa trên những điều kiện tương tự đã được thiết
lập, lãi suất tối đa lên đến 50%.
- Tuy nhiên quan hệ vay mượn đó đã bị lạm dụng và sau này bị cấm như một
hình thức cho vay nặng lãi. Từ đó đã dần dần hình thành nên một hệ thống mới:
các nhóm nhà buôn chấp nhận trả một khoản tiến nhất định để được đảm bảo giá
trị tàu thuyền và hàng hoá chuyên chở.
- Thế kỷ 14, những thỏa thuận BH đầu tiên xuất hiện gắn liền với hoạt động
giao lưu, buôn bán hàng hoá bằng đường biển đã rất phát triển vào thời kỳ đó. Bản
hợp đồng cổ nhất còn được lưu giữ đến ngày nay được phát hành tại Gênes - Italia
vào năm 1347.
- Những thoả thuận BH trong lĩnh vực hàng hải đó có nội dung cơ bản là:
một bên là nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền nhất định, nếu hàng
hoá, tàu thuyền không đến được nơi giao hàng thì bên kia (nhà bảo hiểm) sẽ trả
cho họ một khoản tiền phù hợp. Những thỏa thuận đó đã đánh dấu chính thức cho
sự khởi đầu của BH phi nhân thọ. Kể từ thời điểm đó trong xã hội đã xuất hiện các
tổ chức BH (công ty BH đầu tiên của ngành vận tải biển và đường bộ được thành
lập năm 1424 tại Gênes).
- Những tổ chức BH bắt đầu đứng ra cung cấp một loại dịch vụ đặc biệt trong
xã hội, họ ký kết các hợp đồng BH, đảm bảo cho các khách hàng trước rủi ro.
Hoạt động BH của họ mang tính kinh doanh, hoàn toàn khác với công việc dự trữ,
dự phòng.
- Sau BH hàng hải phải nói đến BH hỏa hoạn. Tại những thành thị đông đúc
của thế kỷ 17 ở Châu Âu, hầu hết nhà cửa đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lửa để

sưởi, đun nấu và chiếu sáng. Vì thế rủi ro nhà cửa bị bắt lửa rất lớn (Năm 1666 vụ
hỏa hoạn ở London đã thiêu cháy khoảng 1.300 nóc nhà, trong đó có đến 87 nhà
thờ). BH hỏa hoạn đã ra đời sau sự cố đó. Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển
15
của sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ BH đã xuất hiện và
phát triển rất nhanh: BH ô tô, máy bay, trách nhiệm dân sự…
- Ngày nay BH đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội.
BHTM nói chung và BH PNT nói riêng đang giữ một vị trí rất quan trọng trong
nền kinh tế nhiều quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển.(Theo tạp chí
SIGMA số 4/1997 của SWISS: Nếu tính bình quân/năm, người Nhật đã chi tiêu
nhiều nhất về bảo hiểm: 5.088USD/người dân. Đứng thứ hai là Thụy Sỹ:
4.507USD/người.Phần lớn các nước công nghiệp đạt mức 1.200USD đến
2.400USD/người.Các nước công nghiệp hóa thườngở mức dưới 100USD/người)
1.1.2.2.Bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam:
BH PNT Việt Nam ra đời muộn hơn nhiều so với thế giới. Hoạt động BH
đã có ít nhiều ngay từ thời kỳ nước ta còn bị Pháp đô hộ và ở miền Nam, song thời
điểm đáng chú ý là sự ra đời của Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) ngày
17/12/1964 và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/01/1965.
Trong suốt một thời gian dài, Bảo Việt hoạt động với cơ chế độc quyền.
Cho đến ngày 18/12/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/NĐ-CP về
KDBH, đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển TTBH ở nước ta.
Bắt đầu từ năm 1994 Việt Nam mới thực sự có TTBH.
1.1.3. Sự cần thiết khách quan phải phát triển thị trường bảo hiểm phi
nhân thọ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.3.1. Bảo hiểm phi nhân thọ góp phần tạo ra môi trường và kích thích kinh tế
- xã hội phát triển.
- Quỹ BH PNT dùng để bồi thường những thiệt hại cho người tham gia BH,
giúp họ ổn định tài chính và đời sống khi không may gặp rủi ro.Từ đó góp phần
ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Nhờ có quỹ BH PNT mà ngân sách nhà nước thay vì phải trợ cấp để khắc

phục những hậu quả do rủi do bất ngờ là chi một khoản tiền nhỏ đóng góp vào quỹ
BH. Do đó, có điều kiện để đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội.
16
- Quỹ BH nhàn rỗi của BH phi nhân thọ được sử dụng để đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội. Đây là nguồn tài chính đáng kể góp phần làm phong phú nguồn
vốn cho thị trường tài chính.
- BH không chỉ góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo việc
làm cho người lao động mà còn góp phần tạo ra thu nhập cho nền kinh tế, tức là
góp phần làm tăng tổng sản phẩm trong nước ( GDP); nói cách khác nó góp phần
làm tăng trưởng kinh tế.
Cũng cần thấy rằng, sự phát triển kinh tế xã hội có tác động tích cực đến sự
phát triển của bảo hiểm nói chung, BHPNT nói riêng.Giữa BH và phát triển KT-
XH có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển. Bởi lẽ:
Kinh tế - xã hội càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người
dân càng cao thì nhu cầu về BH càng lớn. Điều đó đã trở thành qui luật, và như
vậy sự phát triển của BH phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội.
- Kinh tế phát triển, thu nhập của người lao động được nâng cao, mọi nhu
cầu của con người càng phát triển, trong đó có nhu cầu đảm bảo cho cuộc sống,
sức khỏe, tài sản. Hay nói cách khác khả năng và điều kiện để tham gia các loại
hình BH càng nhiều.
- Kinh tế phát triển, chính trị ổn định thì hệ thống pháp lý pháp lý được
hoàn thiện, tạo nên môi trường kinh doanh tốt. Đó cũng là điều kiện làm cho
BHTM nói chung và BH PNT nói riêng kinh doanh có hiệu quả và phát triển.
- Kinh tế - xã hội phát triển thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, các hoạt
động trong đời sống văn hóa- nghệ thuật phong phú… thúc đẩy các nghiệp vụ BH
mới ra đời, làm phong phú, đa dạng thêm hoạt động BH.
- Kinh tế phát triển, cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế làm cho BH
PNT cũng mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà cả quốc tế.
1.1.3.2. Vai trò của TTBH phi nhân thọ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
- BH PNT là một dịch vụ tài chính. TTBH PNT là một bộ phận cấu thành

không thể thiếu của thị trường tài chính. Vì vậy, TTBH nói chung và TTBH phi
17
nhân thọ nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện và phát triển
đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường tài chính. Đây là điều kiện và
cơ sở để thúc đẩy nhanh hơn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thị trường BH phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu
tư nước ngoài. Một mặt nó là một trong những yếu tố quan trọng của môi trường
đầu tư nước ngoài nói chung. Mặt khác, cơ sở hạ tầng và các yếu tố của TTBH phi
nhân thọ phát triển sẽ thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh
vực KDBH phi nhân thọ.Từ đó, thúc đẩy KTXH phát triển.
- Thị trường BH phi nhân thọ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cũng
góp phần tích cực trong việc nâng cao năng lực về mọi mặt của các DNBH. Đồng
thời tạo cho các DNBH trong nước có điều kiện và nhiều cơ hội để mở rộng phạm
vi hoạt động ra nước ngoài.
- Trong quá trình hội nhập, TTBH phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, tạo thêm nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Đồng thời nó tạo ra cơ sở và điều kiện để các DNBH PNT
nước ngoài đầu tư tích cực và hiệu quả vào nền kinh tế.
1.1.3.3. Phát triển TTBH phi nhân thọ vừa đáp ứng nhu cầu vừa thúc đẩy
nhanh hơn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tự do hóa thương mại dịch vụ, trong đó có dịch vụ BH là xu thế chung
của thế giới mà Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Mặt khác trong quá trình
hội nhập quốc tế, tất yếu sẽ diễn ra phân công lao động quốc tế, sự giao lưu về
mọi mặt kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…quá trình này đòi hỏi phải có hệ
thống dịch vụ tài chính đi kèm, trong đó không thể thiếu dịch vụ về bảo hiểm. Vì
vậy, phát triển TTBH phi nhân thọ là yêu cầu và xu thế chung của thế giới.
- Để đẩy nhanh quá trình hội nhập và thực hiện phân công lao động quốc tế
một cách có hiệu quả. Một trong những yêu cầu cấp thiết là phải hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường, trong đó nội dung quan trọng là xây dựng và phát triển
18

đồng bộ các loại thị trường. TTBH phi nhân thọ là một bộ phận của thị trường tài
chính. Do đó, phát triển TTBH phi nhân thọ là do đòi hỏi của sự phát triển đồng
bộ các loại thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trong quá trình hội nhập, phát triển TTBH phi nhân thọ góp phần thu hút
vốn đầu tư nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực KDBH phi nhân thọ nói
riêng.Nó không chỉ tạo nên một xã hội an toàn, ổn định, tạo thêm nhiều việc làm
cho xã hội mà còn tạo cho nền kinh tế một nguồn vốn đầu tư phát triển không nhỏ.
Từ đó tạo ra thu nhập cho nền kinh tế, hay nói cách khác nó góp phần làm tăng
trưởng kinh tế quốc dân..
- Quá trình toàn cầu hoá và quốc tế hóa đã tạo ra cho toàn thế giới trở thành
một ngôi nhà chung mà biên giới sẽ chỉ là “đường biên giới mềm”.Mặt khác khi
kinh tế xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về đảm bảo đời sống, tài sản, tính
mạng ngày càng cao, việc xây dựng một thế giới an toàn, ổn định theo một chuẩn
mực quốc tế là nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong điều kiện hội nhập. Hơn
thế nữa, bảo hiểm phi nhân thọ là một ngành dịch vụ tài chính mang tính toàn cầu,
rủi ro BH không giới hạn trong phạm vi một nước, các DNBH phải thực hiện liên
kết đồng BH, tái BH để phân tán rủi ro và cùng nhau gánh chịu tổn thất xảy ra. Do
vậy TTBH các nước chịu tác động lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với
nhau.Vì vậy phát triển TTBH phi nhân thọ là đòi hỏi khách quan của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
- BH là một trong những nội dung quan trọng trong đàm phán và thực hiện
các cam kết hội nhập quốc tế trong quá trình tự do hoá thương mại nói chung và
dịch vụ tài chính, BH nói riêng. (Ở Việt Nam đó là những cam kết trong quan hệ
thương mại song phương và đa phương của Việt Nam với các nước trong khối
ASEAN, hiệp định thương mại Việt Mỹ, các cam kết về dịch vụ tài chính của Tổ
chức thương mại quốc tế WTO... ). Vì vậy, rất cần thiết phải phát triển TTBH cho
phù hợp với thông lệ, các cam kết và tiêu chuẩn quốc tế.
19
- BH phi nhân đóng vai trò quan trọng trong việc bảo toàn vốn đầu tư, đảm
bảo tính mạng và tài sản khác, cũng như nghĩa vụ trước pháp luật cho các nhà đầu

tư nước ngoài. Do đó, nó là yếu tố không thể thiếu trong môi trường đầu tư nước
ngoài. Vì vậy, muốn tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và hoàn thiện cần thiết phải
phát triển TTBH, trong đó có TTBH phi nhân thọ.
Tóm lại: TTBH phi nhân thọ và sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau
cùng phát triển. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế, cần thiết phải phát triển TTBH một cách toàn diện, vững chắc và phù hợp
với các chuẩn mực quốc tế. Có như vậy, BH phi nhân thọ mới thực sự là “ tấm lá
chắn” hữu hiệu cho mọi cá nhân tổ chức, đồng thời là một kênh huy động vốn
đáng kể cho nền kinh tế và là một yếu tố quan trọng trong môi trường đầu tư nước
ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
1.2. NỘI DUNG VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI
NHÂN THỌ
1.2.1. Đặc điểm, phân loại và sản phẩm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1.1.Khái niệm
Thị trường bảo hiểm theo nghĩa hẹp là sự tiếp xúc giữa những người có
cùng mục đích giao dịch mua bán các sản phẩm bảo hiểm. Theo thuật ngữ bảo
hiểm, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một
sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ.
TTBH không nhất thiết phải là một địa điểm cụ thể. Như vậy có thể thấy
TTBH không có không gian xác định.
1.2.1.2. Đặc điểm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
- TTBH phi nhân thọ ra đời muộn hơn so với các thị trường khác, bởi lẽ nhu
cầu BH chỉ phát sinh khi có một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Khi kinh tế -
xã hội phát triển đến một mức độ nhất định, thu nhập và đời sống được cải thiện,
môi trường pháp lý đã ổn định, các loại thị trường khác như thị trường hàng hoá
20
tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động.. đã hình thành , thì mới phát sinh
nhu cầu BH và từ đó hình thành nên TTBH.
- TTBH PNT có phạm vi hoạt động rất rộng lớn và trong mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội. Bởi vì đối tượng của BH PNT rất đa dạng, phong phú, đó là các
loại tài sản hữu hình và vô hình, toàn bộ các thành viên trong xã hội, các phát sinh
trách nhiệm do mối quan hệ giữa con người với con người gây ra.
- TTBH PNT là một thị trường mang tính đặc thù. Bởi lẽ, sản phẩm của BH
PNT là sản phẩm vô hình, sản phẩm này luôn gắn liền với những rủi ro bất ngờ
không thể dự đoán trước được, chỉ khi gặp sự cố rủi ro mà được bồi thường hay
trả tiền BH thì người mua mới dùng đến “giá trị sử dụng” của sản phẩm . Mặt
khác, đây là một loại dịch vụ đặc biệt, đó là dịch vụ “an toàn”, vì thế ngoài ý
nghĩa về kinh tế, nó còn có ý nghĩa xã hội và nhân văn. Vì vậy, ở một số lĩnh vực,
nhà nước luôn can thiệp cụ thể vào hoạt động của thị trường này (Qui định một số
loại hình BH bắt buộc, thậm chí còn qui định cả điều khoản, biểu phí, mức trách
nhiệm BH..). Điều này chỉ có trong hoạt động KDBH mới có.
- Cuối cùng, trong su hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các
DNBH có su hướng liên kết với nhau để cùng nhau phát triển. Một mặt liên kết để
tìm ra tiếng nói chung, tránh gây thiệt hại cho nhau, tăng cường sức mạnh để cạnh
tranh, liên kết để trao đổi kinh nghiệm quản lý, công nghệ tiến tiến để cùng nhau
phát triển. Mặt khác, liên kết để đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh thông qua
việc đồng BH, tái BH. Đây là một trong những su hướng phát triển của các DNBH
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
1.2.1.3. Phân loại thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
TTBH có thể phân lọai theo nhiều tiêu thức khác nhau, tùy theo mục đích
nghiên cứu như phân loại thị trường theo địa lý, theo nhân khẩu học, phân loại
theo tâm lý người tiêu dùng hoặc theo hành vi của người tiêu dùng.Song để xác
định thị trường mục tiêu và tương lai phát triển của thị trường sản phẩm, người ta
21
sử dụng cách phân loại thị trường theo khả năng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã
hội. Theo tiêu thức này, TTBH được chia thành:
a) Thị trường của doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ khách hàng mua sản
phẩm của DN.Thị trường này được đo bằng doanh số thực hiện của các DNBH.
b) Thị trường thực tế: Bao gồm toàn bộ khách hàng hiện tại của một loại

sản phẩm, nghĩa là bao gồm thị trường của DN và thị trường cạnh tranh.Các
doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh gay gắt với nhau để chiếm lĩnh và giữ vững thị
phần của mình trong thị trường thực tế.
c) Thị trường tiềm năng: Bao gồm toàn bộ các khách hàng có khả năng
mua sản phẩm ( khả năng thanh toán và các điều kiện khác). Như vậy, thị trường
này bao gồm thị trường thực tế và bộ phận khách hàng tiềm năng. Đó là những
trong tương lai của các DNBH. DN nào là người đầu tiên khai thác vào các bộ
phận khách hàng tiềm năng sẽ không có đối thủ cạnh tranh và có khả năng mở
rộng nhanh chóng thị trường của mình.Lẽ đương nhiên, khi thị trường thực tế
bằng thị trường tiềm năng thì thị trường sản phẩm trở nên bão hòa.
d) Thị trường lý thuyết: Bao gồm toàn bộ những người quan tâm tới sản
phẩm.Trong thị trường lý thuyết có cả khách hàng hiện tại, khách hành tương lai
và cả những người không tiêu dùng tương đối. Việc nghiên cứu thị trường lý
thuyết giúp cho DN tìm hiểu những khả năng khai thác thị trường khác nhau, để
xác định các chiến lược ngắn hạn và dài hạn trong kinh doanh.
Phân loại thị trường để phục vụ cho mục đích nghiên cứu thị trường nhằm
nắm bắt thường xuyên kịp thời đầy đủ thông tin về thị trường giúp các DNBH
nhận biết, đón đầu được các thời cơ, cũng như đánh giá, dự đoán và phòng tránh
các rủi ro , để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.1.4.Sản phẩm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ và đặc thù của nó
- Sản phẩm BH là sản phẩm không định hình: Đó là sự đảm bảo về mặt vật
chất trước những rủi ro cho khách hàng. Ở tại thời điểm bán, sản phẩm mà các
DNBH cung cấp chỉ là lời hứa, lời cam kết bồi thường hay trả tiền BH, khi có sự
22
cố BH xảy ra. Đó là những sản phẩm vô hình mà người mua không cảm nhận
được nó bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó, ngửi hoặc nếm thử.. còn người
bán thì không chỉ ra được màu sắc, kích thước hay hình dạng của nó. Vì vậy, các
DNBH cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc quảng bá, giới thiệu sản
phẩm. Để khắc phục khó khăn đó, cũng là để củng cố lòng tin của khách hàng, các
DNBH cố gắng mô tả sản phẩm một cách đầy đủ, dễ hiểu và ấn tượng, làm cho

khách hàng chú ý đến các lợi ích có liên quan đến sản phẩm
- Sản phẩm BH là sản phẩm có “hiệu quả xê dịch” và là sản phẩm “ không
mong đợi”: Lợi ích của sản phẩm BH phi nhân thọ đối với khách hàng là việc bồi
thường hay trả tiền BH khi có sự cố xảy ra. Nhưng lợi ích này cũng bấp bênh và
xê dịch theo thời gian, bởi lẽ khi mua BH người mua không nhận được lợi ích tức
thì của sản phẩm mà phải sau một thời gian.Người mua cũng chỉ được hưởng “giá
trị sử dụng” của sản phẩm sau khi gặp rủi ro và được bồi thường hay trả tiền BH.
Đặc điểm này khiến cho người mua BH “ không mong đợi” được hưởng “ giá trị
sử dụng” của sản phẩm BH.
- Sản phẩm BH là sản phẩm của “chu kỳ kinh doanh đảo ngược”:Các
DNBH nhận phí BH của người tham gia BH trước và sau đó một thời gian mới
thực hiện nghĩa vụ với người được BH khi có sự cố xảy ra ( ngược với các DN
kinh doanh khác là phải bỏ vốn ra trước). Do vậy, khi bán sản phẩm, không thể
không thể tính được chính xác hiệu quả của nó.Khả năng sinh lợi của sản phẩm
BH chỉ được đánh giá trong một thời hạn trung bình và tốt nhất thường trong một
thời gian dài.Vì vậy việc đổi mới hay thiết kế một sản phẩm BH mới chỉ có thể
thực hiện sau một thời gian khá dài, khi những kết quả đã xác định.
- Sản phẩm BH là sản phẩm dễ bắt chước: Một sản phẩm BH ra đời được
thể hiện bằng qui tắc, điều khoản và hợp đồng BH, nhưng dù nó là bản gốc cũng
không được cấp bằng phát minh sáng chế và không được bảo hộ về bản
quyền.Các đối thủ cạnh tranh có thể sao chép lại của các DN khác (ngoại trừ tên
và các tờ rơi quảng cáo) mà không hề bị xử lý. Để chống lại việc bắt chước, sao
23
chép, các DNBH cần làm chủ được việc định phí BH, đào tạo về thương mại và
kỹ thuật cho nhân viên, phát triển tin học phục vụ cho việc quản lý hợp đồng.
1.2.2. Vai trò của nhà nước và các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ
1.2.2.1. Vai trò của nhà nước trong việc phát triển TTBH PNT
Nhà nước bao quát toàn bộ hoạt động kinh doanh BH và đóng vai trọng
quan trọng, quyết định sự phát triển của TTBH, cụ thể:

*) Nhà nước tạo ra môi trường pháp lý: Ban hành hệ thống chính sách pháp
luật về hoạt động KDBH.Xây dựng chiến lược và qui hoạch phát triển TTBH.
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các tổ chức BH. Áp dụng các
biện pháp cần thiết để tổ chức BH đảm bảo các yêu cầu về tài chính và thực hiện
cáccam kết với người được BH.Tạo điều kiện thúc đẩy TTBH phát triển.
*) Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế xã hội: Sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của TTBH, bởi kinh tế xã hội
càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm càng tăng.
Nhà nước tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin và dự báo tình hình TTBH
trong và ngoài nước giúp cho các DNBH chủ động trong hoạt động kinh doanh.
Nhà nước tạo điều kiện và cơ chế để các DNBH nâng cao năng lực về mọi mặt
(tài chính, năng lực kinh doanh, công nghệ, trình độ cán bộ…)
Nhà nước tổ chức nghiên cứu khoa học, đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ BH.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống và trình độ dân
trí, đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển TTBH.
*) Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế quốc tế cho hoạt động KDBH:
Nhà nước ban hành chính sách đầu tư nước ngoài về lĩnh vực bảo hiểm.
Tham gia ký kết các điều ước quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế về BH, đồng
thời quản lý hoạt động của các tổ chức bảo hiểm ở nước ngoài, nhằm tạo điều kiện
cho việc giao lưu, hợp tác, chuyển giao công nghệ về BH, thúc đẩy TTBH phát
triển có hiệu quả trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
24
1.2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Thứ nhất, môi trường pháp lý: Hệ thống chính sách, pháp luật tạo ra môi
trường, điều kiện cho các DN hoạt động. Nó đảm bảo cho các DNBH được cạnh
tranh lành mạnh,bình đẳng. Đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người tham gia BH,
từ đó thúc đẩy TTBH phát triển. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật
về hoạt động KDBH là điều kiện cần thiết để phát triển TTBH.
Thứ hai, môi trường KT XH: Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được
nâng cao, nhu cầu ăn, ở, mặc được đáp ứng đầy đủ thì nhu cầu cần được bảo vệ

càng trở nên quan trọng. Nói cách khác, khi kinh tế phát triển, sẽ có ảnh hưởng
tích cực đến TTBH phi nhân thọ. Bên cạnh yếu tố kinh tế, các yếu tố văn hóa cũng
có một số tác động đến TTBH phi nhân thọ.Văn hoá là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến nhu cầu và hành vi của người tiêu dùng.
Thứ ba, số lượng, loại hình các DNBH, các kênh phân phối sản phẩm, sự đa
dạng phong phú của các sản phẩm BH phi nhân thọ, quyết định qui mô TTBH.
Mặt khác, trong xã hội có nhiều tầng lớp dân cư, có nhiều đối tượng khác nhau về
độ tuổi, nghề nghiệp, về mức sống…Vì thế, sự đa dạng phong phú của các sản
phẩm BH phi nhân thọ nhằm dáp ứng mọi nhu cầu, mọi đối tượng, mọi tầng lớp
dân cư trong xã hội. Có như vậy thì thị trường BHTM nói chung và thị trường BH
phi nhân thọ nói riêng mới phát triển được.
Thứ tư, năng lực và chiến lược kinh doanh của các DNBH: Qui mô vốn,
trình độ quản, trình độ quản lý, trình độ khoa học công nghệ trình độ cán bộ, phạm
vi và phương thức họat động, cũng như các chính sách khách hàng, sự hợp tác
liên kết giữa các DNBH có ảnh hưởng lớn đến TTBH phi nhân thọ.
Chiến lược kinh doanh của các DNBH PNT bao gồm các bộ phận chủ yếu
là maketing, tài chính, kỹ thuật nghiệp vụ và tổ chức nhân sự.Trong chiến lược
kinh doanh, các yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến sự phát triển TTBH phi nhân
thọ là: Sản phẩm, giá cả, chất lượng phục vụ và truyền thông quảng cáo.
25

×