Tải bản đầy đủ (.doc) (158 trang)

LUAN VAN tìm hiểu thành ngữ tiếng việt chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người trên lí thuyết ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.19 KB, 158 trang )

Lời cảm ơn!
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS
Nguyễn Thị Lương - người đã gợi mở, tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ, khoa
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường THPT Bắc Yên,
Ban Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình học tập.
Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn những người thân trong gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian qua.
Hà Nội, tháng 9 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Trung Kiên


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BN

: Bổ ngữ

BPCTN

: Bộ phận cơ thể người

CN

: Chủ ngữ



DT

: Danh từ

ĐH

: Đại học

ĐT

: Động từ

KHXH

: Khoa học xã hội

KHNV

: Khoa học Ngữ văn

Nxb

: Nhà xuất bản

NV

: Ngữ văn

PPT


: Phần phụ trước

PPS

: Phần phụ sau

TT

: Tính từ

VHTT

: Văn hóa thông tin

VN

: Vị ngữ


MỤC LỤC


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là một sản phẩm gần gũi và diệu kì nhất mà con người sáng
tạo ra trong quá trình lao động. Đó là hệ thống các kí hiệu đặc biệt được con
người sử dụng để giao tiếp và nhận thức về thế giới. Có thể nói một cách hình
ảnh: ngôn ngữ là chiếc “chìa khóa vạn năng” để con người mở cánh cửa bước
vào thế giới tự nhiên, xã hội và hiểu về chính bản thân mình. Chúng ta thử

hình dung nếu một ngày ngôn ngữ không còn nữa thì cũng là lúc con người
đánh mất đi những giá trị quan trọng mà nhân loại đã vất vả qua bao nhiêu thế
hệ mới tạo dựng nên. Chính vì thế mà ngôn ngữ luôn được xem là một thứ tài
sản quý báu, được gìn giữ và trao truyền qua các thế hệ. Tiếng Việt là báu vật
của dân tộc Việt Nam, trải qua bao sự biến đổi và thăng trầm của lịch sử,
tiếng Việt vẫn có một sức sống bền bỉ và mãnh liệt. Đó là một tài sản vô giá
mà ông cha đã để lại cho thế hệ hôm nay. Nhờ có ngôn ngữ riêng mà người
Việt Nam có thể phản ánh một cách đầy đủ và chân thực mọi mặt của đời
sống xã hội cũng những xúc cảm vi tế nhất trong tâm hồn mình.
Trong hệ thống các đơn vị ngôn ngữ, thành ngữ là đơn vị đa thành tố
tương đương với từ. Chúng được dùng khá phổ biến trong đời sống sinh hoạt
cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hằng ngày, đâu đó chúng
ta bắt gặp thành ngữ trong những câu nói như “mặt hoa da phấn”, “khẩu
phật tâm xà” hay “tức nổ ruột” để nêu lên một nhận xét, một lời đánh giá về
hình thức hoặc phản ánh một trạng thái tâm lí của con người. Trên các tít báo,
chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp những câu như: “Bắt kẻ mặt người dạ thú giết
chết vợ và con” hay “Nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời khi mất
mùa, mất giá”. Khi đi vào các tác phẩm văn chương, thành ngữ được sử dụng
như một công cụ để làm tăng tính gợi hình, gợi cảm. Không những thế qua
các thành ngữ chứa từ chỉ ngoại hình con người, chúng ta thấy ông cha ta

1


không chỉ đơn thuần dừng lại ở sự miêu tả mà còn gửi gắm vào đó là sự nhận
xét, đánh giá cũng như những kinh nghiệm của dân gian. Chúng ta hẳn sẽ
không thể quên được ấn tượng từ ngoại hình có ảnh hưởng đến tính cách của
những người phụ nữ trong câu ca dao:
(1). Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con

Những cô béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp cấu con cả ngày [1;408].
Thành ngữ còn xuất hiện trong lời bộc bạch tình cảm mộc mạc, chân thành
mà hết sức tinh tế của chàng trai đối với cô gái trong câu:
(2). Ai đem em tới giữa đồng?
Chân bùn tay lấm mà lòng anh say [1;85].
Trong Truyện Kiều, thành ngữ nói chung và thành ngữ chứa từ chỉ
BPCTN nói riêng đã giúp cho Nguyễn Du khắc họa rất thành công các nhân
vật từ ngoại hình đến tính cách. Sự xuất hiện sinh động của Từ Hải và Mã
Giám Sinh trong các trường hợp sau đây là những ví dụ tiêu biểu:
(3). Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài [56;160].
(4). Cho gươm mời đến Thúc lang
Mặt như chàm đổ mình dường giẽ run [56;170].
Thành ngữ có vị trí quan trọng trong giao tiếp cũng như trong văn học.
Cho nên, nó đã trở thành đối tượng nghiên cứu không chỉ của Ngôn ngữ học
mà còn của nhiều ngành khoa học khác như Văn học, Văn hóa học, Dân tộc
học, Nhân học “Thành ngữ không chỉ là kho tàng quý giá trong ngôn ngữ
dân tộc, không chỉ làm cho tiếng nói hay hơn đẹp hơn mà còn giúp mọi người

2


hiểu được tư duy, nhận thức, lối nói ví von trăm hình nhiều vẻ của nhân
dân.” [16;7]. Ở địa hạt của Ngôn ngữ học, thành ngữ đã được quan tâm tìm
hiểu trên các bình diện cấu trúc hình thức, cấu trúc ngữ nghĩa, ý nghĩa biểu
trưng cũng như sự vận dụng thành ngữ trong thơ ca, truyện ngắn, tiểu thuyết,
… Những nghiên cứu đó đã thu được nhiều kết quả quan trọng và làm rõ

được vai trò của thành ngữ trong đời sống sinh hoạt cũng như trong các sáng
tác văn chương.
Nhóm thành ngữ có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN) đã
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, đó là những công trình
nghiên cứu trên các bình diện độc lập. Chúng tôi nhận thấy vẫn còn một
“khoảng trống” khi nghiên cứu về thành ngữ nói chung và nhóm thành ngữ
chứa từ chỉ BPCTN nói riêng dựa trên một cái nhìn tổng thể, đa chiều của lí
thuyết ba bình diện ngôn ngữ: ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Đặc biệt là
việc đi sâu vào lí giải những “phần chìm” văn hóa ẩn tàng dưới “phần nổi”
của bề mặt ngôn từ. Đó cũng chính là lí do thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài
“Tìm hiểu thành ngữ tiếng Việt chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người trên lí
thuyết ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng”. Tác giả của đề tài
mong muốn được đóng góp một số ý kiến nhỏ để góp phần khỏa lấp những
“khoảng trống” trong việc nghiên cứu về thành ngữ như đã trình bày ở trên.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt
Khi tìm hiểu về ngôn ngữ tiếng Việt, các nhà nghiên cứu cũng đã đặt vấn
đề tìm hiểu về thành ngữ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, thành ngữ thường
được đánh đồng với tục ngữ mà không có một ranh giới để phân biệt chúng.
Đầu thế kỉ XX, Phạm Quỳnh có bản báo cáo mang tên “Về tục ngữ và
ca dao” đăng trên Tạp chí Nam Phong (1921). Cùng thời gian đó, Barbier nhà ngôn ngữ học người Pháp đã công bố bài viết “Những ngữ so sánh trong

3


tiếng An Nam”. Ít năm sau, tác giả Nguyễn Văn Ngọc cho ra đời cuốn sách
“Tục ngữ và phong dao”. Tuy nhiên, những công trình kể trên dù có bước
đầu đề cập đến vấn đề thành ngữ nhưng có thể nói nghiên cứu về thành ngữ ở
thời điểm đó vẫn chưa được quan tâm. Nó còn là một “khoảng đất trống” trên
lãnh địa của Ngôn ngữ học.

Đến giữa thế kỉ XX, tác giả Dương Quảng Hàm trong sách “Việt Nam
văn học sử yếu” (1943) đã tách khái niệm thành ngữ ra khỏi tục ngữ. Cuốn
sách của học giả Dương Quảng Hàm được xem là “dấu mốc” quan trọng
trong nghiên cứu thành ngữ. Từ đây, thành ngữ bắt đầu được xem xét như
một đối tượng riêng rẽ, độc lập trên các bình diện cấu tạo, ý nghĩa và cú pháp.
Cuối thế kỉ XX, đặc biệt là những thập niên tám mươi, chín mươi đã
đánh dấu sự “nở rộ” của các công trình nghiên cứu về thành ngữ với cách tiếp
cận đa dạng từ nhiều góc nhìn của ngữ âm học, từ vựng học và cú pháp học,
… Các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Văn Tu (1962; 1981; 1986); Nguyễn
Kim Thản (1963); Nguyễn Văn Mệnh (1972; 1986); Cù Đình Tú (1973;
1982); Nguyễn Thiện Giáp (1975; 1985; 1996); Hồ Lê (1976); Hoàng Văn
Hành (1976); Trương Đông San (1976); ... [48; 4].
Nhiều khuynh hướng nghiên cứu thành ngữ đã xuất hiện. Những tác giả
có thiên hướng nghiên cứu thành ngữ ở phương diện nguồn gốc, sự phát triển
gắn với các bình diện văn hóa là: Bùi Khắc Việt (1988), Hoàng Văn Hành
(1980); Phan Xuân Thành (1980; 1993); Đỗ Hữu Châu (1981), Nguyễn Đức
Dân (1986); Nguyễn Như Ý (1992); Nguyễn Văn Khang (1994); …
Các tác giả như Trương Đông San (1976), Hoàng Văn Hành (1976) thì
đi sâu vào nghiên cứu một tiểu loại nhỏ của thành ngữ tiếng Việt là thành ngữ
so sánh; tác giả Nguyễn Văn Hằng với công trình “Thành ngữ bốn yếu tố
trong tiếng Việt hiện đại” đã góp một tiếng nói quan trọng vào việc nghiên

4


cứu thành ngữ đối, … Nghiên cứu về cấu trúc ngữ nghĩa và giá trị biểu trưng
có các tác giả như Phan Xuân Thành, Trịnh Cẩm Lan, …
Những năm gần đây, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành, các luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về thành ngữ có một số lượng không
nhỏ. Đó là những nghiên cứa đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung và

có chiều sâu về văn hóa. Tuy vậy, một điểm chung dễ nhận thấy là nghiên cứu
thành ngữ trong sự phối hợp của các bình diện ngôn ngữ, nhất là bình diện
ngữ dụng học vẫn chưa được thực sự quan tâm.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN
Nhận thức là một nhu cầu thiết yếu và thường trực của con người. Từ xa
xưa, con người nhận thức về thế giới xung quanh đồng thời cũng nhận thức về
chính bản thân mình. Quan niệm “Dĩ nhân vi trung” (lấy con người là trung
tâm của vũ trụ) là một quan niệm khá phổ biến của các dân tộc trên thế giới. Vì
thế mà các BPCTN đã sớm được tri nhận một cách tỉ mỉ và sâu sắc. Điều này
đã hắt bóng vào trong ngôn ngữ nói chung và được biểu hiện trong một bộ
phận của ngôn ngữ nói riêng là thành ngữ.
Khi nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt, từ trước đến nay đã có khá nhiều
công trình tập trung nghiên cứu về từ chỉ BPCTN trong thành ngữ ở phương
diện từ vựng và ngữ nghĩa. Có thể kể đến hai hướng nghiên cứu cơ bản sau đây:
Hướng nghiên cứu thứ nhất: nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt có từ chỉ
BPCTN trong sự so sánh đối chiếu với một ngôn ngữ khác. Có thể kể đến các
công trình như “So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ
Anh - Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể người (giới hạn ở khuôn mặt)” của
tác giả Tôn Vân Trang. Luận văn này đã rút ra được những kết luận về
phương thức thể hiện ý nghĩa biểu trưng của thành ngữ qua khuôn mặt con
người cũng như những điểm giống nhau và khác nhau của người Anh và
người Việt trong việc đánh giá con người thông qua khuôn mặt. Tác giả Bùi

5


Thị Hòa được biết đến với công trình “Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của các
từ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (có so sánh với tiếng
Anh)”. Hướng nghiên cứu của luận văn là gắn ngôn ngữ với văn hóa để thấy
được những đặc điểm về tư duy cũng như cách tri nhận của người Việt và

người Anh qua các từ chỉ BPCTN. Ngoài ra có thể kể đến công trình “Khảo
sát ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ có từ chỉ bộ phận cơ thể trong tiếng Nhật
(so sánh với tiếng Việt)” của tác giả Ngô Minh Thúy.
Hướng nghiên cứu thứ hai: nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa
của thành ngữ có từ chỉ BPCTN. Một số công trình tiêu biểu như “Ý nghĩa
biểu trưng của từ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt” của Mã
Thị Hiển. Với công trình này, tác giả đã đi sâu tìm hiểu về số lượng, sự phân
bố, các cách kết hợp của từ chỉ bộ phận cơ thể người và phân tích chúng ở nghĩa
biểu trưng. Lâm Thị Thu Hương với công trình “Một vài đặc điểm về thành ngữ
có từ chỉ bộ phận cơ thể trong tiếng Việt” lại đi vào miêu tả những đặc điểm của
thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN. Tô Thị Lý thì tập trung nghiên cứu về ý nghĩa
biểu trưng của một tiểu loại thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN là thành ngữ ẩn dụ
qua công trình “Nghĩa biểu trưng của bộ phận cơ thể người trong thành ngữ ẩn
dụ tiếng Việt”. Gần đây nhất có công trình “Thành ngữ chỉ ngoại hình con
người xét trên lí thuyết ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng” của Trần
Thị Quế. Trong công trình này, tác giả cũng tập trung vào việc phân loại một
tiểu nhóm của thành ngữ chỉ BPCTN là thành ngữ chỉ ngoại hình con người để
bước đầu đi đến những kết luận về mối quan hệ của ngôn ngữ và văn hóa Việt.
Kế thừa thành tựu trong những công trình nghiên cứu của các tác giả đi
trước, chúng tôi mong muốn dưới góc nhìn về lí thuyết ba bình diện của ngôn
ngữ là ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng sẽ có một cái nhìn khái quát, tổng hợp
hơn về nhóm thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN. Đồng thời phân loại và miêu
tả nhóm thành ngữ này thành các tiểu loại như thành ngữ chứa từ chỉ bộ phận

6


bên ngoài cơ thể, thành ngữ chứa từ chỉ bộ phận bên trong cơ thể. Chỉ ra được
mối liên hệ giữa phần bên trong và phần bên ngoài của cơ thể. Qua đó lí giải
những đặc trưng trong cách tư duy, trong bề sâu văn hóa được biểu hiện thông

qua các thành ngữ được khảo sát.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thành ngữ tiếng Việt có số lượng lớn lên đến mấy nghìn đơn vị. Không
những thế nó còn đa dạng về đề tài và chủ đề. Đứng trước kho tàng thành ngữ
rộng lớn, chúng tôi xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là
nhóm thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN. Cơ sở lí thuyết để phục vụ cho việc
nghiên cứu là lí thuyết về ba bình diện của ngôn ngữ (ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ
dụng) và lí thuyết về thành ngữ tiếng Việt.
Tư liệu chính phục vụ cho việc nghiên cứu là các thành ngữ chứa từ chỉ
BPCTN được thống kê trong cuốn Thành ngữ tiếng Việt, Nguyễn Lực, Lương
Văn Đang, Nxb, Khoa học xã hội, 2009.
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo từ các cuốn sách khác như:
Từ điển thành ngữ học sinh, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan
Xuân Thành, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009.
Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ
Quang Hào, Nxb Văn hóa - Thông tin, 1995.
Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nguyễn Lân, Nxb Thời đại, 2010.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi
trước, chúng tôi xác định mục đích của luận văn là chỉ được ra các đặc điểm
của nhóm thành ngữ tiếng Việt có chứa từ chỉ BPCTN trên các bình diện ngữ
pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Từ đó có những nhận xét và kiến giải về mối
quan hệ của nhóm thành ngữ này với những đặc trưng trong tư duy và văn
hóa của người Việt Nam.

7


Để đạt được mục đích đó, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau đây:

Thống kê những thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt.
Xác định được các dạng cấu tạo của thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN
và chức năng ngữ pháp của chúng.
Xác định được các loại ý nghĩa của thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN.
Trong đó chú ý đến ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu trưng.
Tìm hiểu mối quan hệ của thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN trong mối
quan hệ với người sử dụng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng tổng hợp một số
phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp thống kê và phân loại
Dựa trên cơ sở của tư liệu đã chọn, chúng tôi tiến hành thống kê số
lượng cụ thể các thành ngữ có từ chỉ BPCTN. Sau đó tiến hành phân loại để
xếp chúng vào những tiểu loại nhất định.
5.2. Phương pháp so sánh đối chiếu
Trong các tiểu loại đã được phân nhóm, chúng tôi tiến hành so sánh đối
chiếu chúng với nhau để có những nhận xét.
5.3. Phương pháp miêu tả
Chúng tôi tiến hành miêu tả các trường hợp điển hình về vị trí, cách kết hợp,
chức năng ngữ pháp của các thành ngữ trong phạm vi nghiên cứu của luận văn.
5.4. Phương pháp phân tích dựa vào thành ngữ
Dựa vào kết quả thống kê, so sánh, đối chiếu, chúng tôi đi vào phân
tích các đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Từ đó làm cơ sở để rút ra
những kết luận cho nhóm thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN.

8


6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phần

phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí thuyết
Chương 2. Thành ngữ tiếng Việt chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người
trên bình diện ngữ pháp
Chương 3. Thành ngữ tiếng Việt chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người
trên bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng

9


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày sơ lược những vấn đề lí
thuyết cơ bản có liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của luận văn,
lấy đó làm kim chỉ nam cho việc tìm hiểu thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN ở
những chương sau. Để thực hiện nhiệm vụ đó, chúng tôi lần lượt trình bày hai
vấn đề lí thuyết:
* Một là: lí thuyết về ba bình diện của ngôn ngữ học
* Hai là: lí thuyết về thành ngữ và nhóm từ chỉ BPCTN
Nội dung cụ thể như sau:
1.1. Lí thuyết về ba bình diện của ngôn ngữ học
Khi cho rằng ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, F. de Saussure
đã chỉ ra cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong ngôn ngữ. Cùng với thời gian,
hướng nghiên cứu tổng hợp ngôn ngữ trên ba bình diện là ngữ pháp, ngữ
nghĩa, ngữ dụng đã ra đời. Đây là sự bổ sung kịp thời và đầy đủ cho những
học thuyết trước đó để mang đến cho ngôn ngữ học một hướng nghiên cứu
toàn diện hơn.
Hai người có công đầu trong việc tìm hiểu để đưa ra thuật ngữ tín hiệu
học là hai nhà khoa học người Mĩ Ch. S. Peirce (1839 - 1914) và Ch. U. Morris.

Họ cho rằng, quá trình tín hiệu hóa có chung một cấu trúc gồm ba phần:
* Phương tiện tín hiệu (cái biểu đạt) là những sự vật hoặc hiện tượng có
tư cách tín hiệu.
* Cái được biểu đạt là cái được tín hiệu chỉ ra hoặc biểu thị.
* Người tạo lập hoặc người sử dụng là người dùng tín hiệu.
Tín hiệu học đã phân biệt ba loại quan hệ là kết học (quan hệ giữa tín
hiệu với tín hiệu), nghĩa học (quan hệ của tín hiệu với cái được biểu đạt) và
dụng học (quan hệ của tín hiệu với người dùng). Ba loại quan hệ của tín hiệu
10


như đã kể trên cũng tương ứng với ba bình diện ngữ pháp học, ngữ nghĩa học
và ngữ dụng học trong nghiên cứu ngôn ngữ học.
1.1.1. Bình diện ngữ pháp
Trong tín hiệu học có bình diện kết học (syntax). Bình diện này có thể
xem là tương đương với bình diện ngữ pháp của ngôn ngữ học. Đỗ Hữu Châu
cho rằng: Kết học là “lĩnh vực của các quy tắc hình thức kết hợp tín hiệu
thành một thông điệp. Nói vắn tắt kết học là lĩnh vực nghiên cứu mối quan hệ
giữa tín hiệu với tín hiệu trong thông điệp.” [3;3].
Tên gọi ngữ pháp được dịch từ thuật ngữ “grammar” (tiếng Anh) và
“gramaire” (tiếng Pháp), nó có 2 nghĩa là: (1) ngữ pháp là một bộ phận của
cấu trúc ngôn ngữ, đơn vị của nó khác với đơn vị của từ vựng và ngữ âm; (2)
ngữ pháp là một ngành của ngôn ngữ học nghiên cứu sự hoạt động hành chức
theo những quy tắc nhất định để biến các đơn vị ngôn ngữ thành các đơn vị
giao tiếp.
Việc nghiên cứu bình diện ngữ pháp của một ngôn ngữ lại bao gồm
nhiều phân ngành khác nhau. Ngữ pháp tiếng Việt được chia thành từ pháp
học và cú pháp học.
* Từ pháp học: đối tượng nghiên cứu là các từ, với mục đích xác định
các quy tắc cấu tạo từ, quy tắc biến đổi từ, đặc điểm ngữ pháp của các từ loại.

* Cú pháp học: nghiên cứu quy tắc cấu tạo cụm từ và câu (kết hợp các
từ thành cụm từ, kết hợp các từ, cụm từ thành câu, tổ chức các thành phần câu
và các kiểu câu). Như vậy, có thể cú pháp học lại được chia thành cú pháp
cụm từ và cú pháp câu. Cú pháp cụm từ nghiên cứu cấu tạo của các loại cụm
từ. Trong đó quan tâm đến phần trung tâm, các phần phụ trước và phụ sau của
cụm từ. Cú pháp câu ngoài việc nghiên cứu cấu tạo của các kiểu câu trong
tiếng Việt còn tìm hiểu về chức năng của các thành phần câu trong hoạt động
hành chức.

11


Ngữ pháp của ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác
như với ngữ âm, từ vựng, cú pháp, ... Bình diện ngữ pháp có quan hệ mật thiết
với bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng. Trong luận văn này, chúng tôi đã vận
dụng kiến thức lí thuyết về bình diện ngữ pháp để nghiên cứu các dạng cấu
tạo của thành ngữ và chức năng ngữ pháp mà các thành ngữ chứa từ chỉ
BPCTN có thể đảm nhiệm được trong câu.
1.1.2. Bình diện ngữ nghĩa
Tín hiệu học có thuật ngữ nghĩa học (semamntics). Đây là phương diện
của những quan hệ giữa tín hiệu và hiện thực được nói tới trong thông điệp.
Nói cách khác, nghĩa học nghiên cứu ý nghĩa với tư cách là cái ở giữa các biểu
thức ngôn ngữ và cái mà biểu thức này miêu tả. Ví dụ khi tham gia giao thông,
các tín hiệu biển báo giúp cho người lái xe biết được đoạn đường cấm đi ngược
chiều, cấm rẽ trái, cấm quay đầu xe, ... các tín hiệu đèn giao thông đỏ, vàng,
xanh báo hiệu cho người lái xe biết cần phải dừng lại hay được đi tiếp.
Bình diện ngữ nghĩa của ngôn ngữ là một khái niệm rộng. Sau đây là
một số quan niệm:
Morris (đại diện cho quan niệm của những người theo chủ nghĩa hành
vi) cho rằng nghĩa của từ là “khả năng hành động có sẵn, là sự sẵn sàng

hành động theo một phương thức nhất định do các từ gây nên.” [7;121].
Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Ý nghĩa của từ biểu thị những sự vật và hiện
tượng trong đời sống thực tế và đời sống tâm lí của con người. Người ta có
thể hiểu biết về một đối tượng nào đấy không có trước mặt khi nhắc tới tên
gọi của nó. Như vậy là có mối liên hệ giữa từ và các đối tượng phức tạp của
đời sống.” [2;34].
Đỗ Việt Hùng quan niệm:“Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần có
quan hệ ổn định với hình thức từ.” [5;195].

12


Chúng tôi đề cập đến một số khái niệm của ngữ nghĩa học như nghĩa
miêu tả, nghĩa tình thái, nghĩa biểu trưng để có cơ sở lí thuyết thuận lợi cho
quá trình nghiên cứu.
Nghĩa miêu tả (nghĩa sự vật): là phần nghĩa phản ánh sự việc, hiện
tượng, hoạt động, trạng thái, tính chất, … ngoài thực tế khách quan được đưa
vào ngôn ngữ. Sự vật tồn tại trong thế giới ở những dạng khác nhau, trong đó
dạng cơ bản là vật chất. Trong khi đó ý nghĩa miêu tả của từ thuộc phạm trù
tinh thần của ngôn ngữ. Sự chia cắt thế giới thành các “mẩu - sự vật” ứng với
nghĩa của từ ở các dân tộc khác nhau là khác nhau.
Ví dụ: Cái máy giặt này rất tiện lợi.
Nhờ vào ý nghĩa miêu tả của cụm từ cái máy giặt, khi đi vào sử dụng,
trong cụm từ cái máy giặt này, từ máy giặt cùng với các từ khác quy chiếu
vào một cái máy giặt cụ thể trong thế giới bên ngoài. Nghĩa sự vật cụ thể của
từ trong hoạt động cụ thể là nghĩa chiếu vật.
Nghĩa tình thái: là phần nghĩa thể hiện mục đích, thái độ, quan hệ, đánh
giá của người nói đối với người nghe hoặc hiện thực được phản ánh.
Ví dụ:
(5). Chú Sáu đã hi sinh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu

Thân 1968 [53].
Cùng là nói về việc mất khả năng sống hoặc không còn biểu hiện của
sự sống, chúng ta có các từ như băng hà, từ trần, viên tịch, hi sinh, chết, bỏ
mạng, ngỏm, ... Những từ này gợi ra các sắc thái ý nghĩa khác nhau có thể là
trân trọng, có thể là khinh thường và đôi khi là mang sắc thái trung tính. Ở ví
dụ trên, từ hi sinh được dùng với sắc thái trang trọng.
Nghĩa biểu trưng: là toàn bộ những ý nghĩa, khái niệm được khái quát
từ hình ảnh, sự vật, sự việc cụ thể được miêu tả được nhắc tới [48;30].

13


Ví dụ: thành ngữ “mồm năm miệng mười” không phải để miêu tả một
đối tượng với bộ phận cụ thể mà câu thành ngữ đề cập đến một đặc điểm
“lắm lời, nói tranh, nói át cả người khác”. Đặc điểm được nói đến này là ý
nghĩa biểu trưng của thành ngữ trên [16; 411].
Kiến thức lí thuyết về bình diện ngữ nghĩa được chúng tôi áp dụng để
tìm hiểu về ý nghĩa miêu tả và ý nghĩa biểu trưng của các thành ngữ chứa từ
chỉ BPCTN.
1.1.3. Bình diện ngữ dụng
Dụng học là một trong ba lĩnh vực của tín hiệu học. Dụng học (Pragmatics)
là nghiên cứu mối quan hệ giữa tín hiệu với người dùng, giữa tín hiệu với việc sử
dụng tín hiệu trong các tình huống cụ thể.
Trong ngôn ngữ học, bình diện ngữ dụng nghiên cứu cách sử dụng
ngôn ngữ trong mối quan hệ với ngữ cảnh xã hội. Đặc biệt là ý nghĩa của phát
ngôn được xuất hiện trong các tình huống cụ thể. Ngữ dụng học lại được chia
thành các cấp độ như ngữ dụng của từ và ngữ dụng của câu:
Bình diện ngữ dụng của từ (hoặc cụm từ): nghiên cứu nghĩa của từ
trong quá trình sử dụng. Tức là để hiểu nghĩa của từ, nhất thiết chúng ta phải
đặt từ (cụm từ) vào trong câu hoặc trong một ngữ cảnh cụ thể. Ví dụ: nghĩa

của từ nước chỉ được hiểu một cách chính xác nếu ta đặt vào trong các câu cụ
thể sau đây:
(i). Cốc nước đặt trên mặt bàn.
(ii). Nước tôi có danh tướng Trần Hưng Đạo.
(iii). Bây giờ anh nghĩ em chỉ còn nước ra đầu thú.
Nước trong câu (i) là một danh từ chỉ một dạng chất lỏng không màu,
không mùi, không vị mà con người có thể uống được. Nước trong câu (ii) chỉ
một quốc gia có một chế độ chính trị riêng. Trong câu (iii), nước là từ chỉ
cách thức của hành động, hoạt động để tác động đến tình hình, thoát khỏi thế bí.

14


Từ việc phân tích các ví dụ trên, chúng ta thấy rằng tìm hiểu bình diện
ngữ dụng của từ không thể tách rời việc nghiên cứu bình diện ngữ dụng của
câu chứa nó.
Bình diện ngữ dụng của câu: nghiên cứu mối quan hệ giữa câu với
người sử dụng, giữa câu với việc sử dụng câu trong tình huống giao tiếp cụ
thể nhằm phát hiện ra ý nghĩa của câu - phát ngôn trong tình huống cụ thể đó.
Có quan điểm cho rằng: ngữ dụng là sự thống hợp của các lĩnh vực ngữ âm âm vị học, cú pháp học, ngữ nghĩa học vì thế cho nên phạm vi nghiên cứu của
ngữ dụng học là rất rộng lớn. Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung vào một số vấn
đề cơ bản của ngữ dụng học có liên quan đến nhóm thành ngữ có từ chỉ
BPCTN như: lí thuyết lập luận; lí thuyết hội thoại (tín hiệu phi lời trong giao
tiếp); vấn đề lịch sự, ý nghĩa hàm ẩn.
* Lập luận (argrumentation) là thuật ngữ dùng trong tu từ học và logic
học. Hai nhà ngôn ngữ học người Pháp là O. Ducrot và J. C. Anscombre đã
đưa khái niệm lập luận vào nghiên cứu trong dụng học của ngôn ngữ học.
Trong giao tiếp thông thường, ít khi chúng ta miêu tả chỉ thuần túy là
để miêu tả mà bao giờ cũng nhằm hướng người nghe tới một điều gì đó nằm
ngoài sự vật, hiện tượng, sự kiện được miêu tả. Nội dung mà người nói hướng

người nghe tới rất đa dạng. Đó có thể là một thái độ, một tình cảm, một sự
đánh giá, một nhận định hay một hành động nào đó cần phải thực hiện. Nói
cách khác cái mà thông tin miêu tả hướng tới là một kết luận nào đó rút ra từ
thông tin miêu tả đó.
Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết
luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới [3; 155].
Mô hình của một lập luận đầy đủ là: p – r (trong đó p là lí lẽ, r là kết
luận. p,r có thể được diễn đạt bằng các diễn ngôn U1, U2 …). Ví dụ:

15


(6). Quanh năm họ làm ăn vất vả (r), chân lấm tay bùn (p), đổi bát mồ
hôi lấy bát cơm (q) [16;135].
Cơ sở của một lập luận là lẽ thường (topos). Lẽ thường là những chân lí
thông thường có tính kinh nghiệm, không có tính tất yếu, bắt buộc như các
tiền đề logic. Lẽ thường được chia thành lẽ thường phổ quát mang tính chung
cho toàn thế giới và lẽ thường riêng cho một quốc gia thậm chí riêng cho một
địa phương. Ở ví dụ trên, kết luận (r) quanh năm họ làm ăn vất vả dựa trên cơ
sở của các luận cứ (p) là thành ngữ chân lấm tay bùn và (q) đổi bát mồ hôi
lấy bát cơm. Kết luận và các luận cứ dựa trên lẽ thường về đời sống của người
nông dân trước cách mạng tháng Tám, họ phải chịu cùng một lúc nhiều tầng
áp bức bóc lột cho nên cho dù người nông dân có cần cù làm lụng song cuộc
sống của họ vẫn chịu cảnh cực khổ, bần hàn.
* Lí thuyết hội thoại (linguistique interactionnelle): Hội thoại khi xuất
hiện được nghiên cứu trong Xã hội học, Dân tộc học. Đến năm 1970, hội
thoại chính thức được các nhà ngôn ngữ học Mĩ đưa vào nghiên cứu như một
phân ngành độc lập của Ngôn ngữ học. Đến nay, hầu như ngôn ngữ học của
tất cả các quốc gia đều bàn đến vấn đề hội thoại.
Để đạt được hiệu quả trong hội thoại, các nhân vật tham gia hội thoại

phải phối hợp với nhau để tạo thành sự liên hòa phối. C.K. Orecchioni đã ví
von: “Có thể xem mỗi nhân vật tương tác là những nhạc công trong một bản
giao hưởng vô hình mà phần nhạc họ chơi không được biên soạn từ trước,
mỗi người tự soạn ra trong diễn tiến của cuộc hòa nhạc, một cuộc hòa nhạc
không có nhạc trưởng.” [3; 220]. Trong hội thoại, lời nói là yếu tố có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, nó giúp truyền tải thông tin một cách tối ưu. Tuy nhiên,
hiệu quả của một cuộc hội thoại nhiều khi còn phụ thuộc cả vào những yếu tố
kèm lời và phi lời.

16


Yếu tố kèm lời (paraverbal) là các yếu tố không có đoạn tính như âm vị
và âm tiết nhưng đi kèm với các yếu tố đoạn tính. Các yếu tố kèm lời có thể
ngữ điệu, trọng âm, cường độ, độ dài, đỉnh giọng, ...
Yếu tố phi lời (non verbal) là những yếu tố như cử chỉ, khoảng không
gian, tiếp xúc cơ thể, tư thế cơ thể, vẻ mặt, ánh mắt, ... được dùng trong đối
thoại mặt đối mặt (face to face). Các yếu tố cơ thể - vận động được tiếp nhận
bằng thị giác. Diện mạo, ngoại hình, trang phục cung cấp những thông tin về
giới tính, tuổi tác, dân tộc, trong một chừng mực nhất định nó là sự biểu hiện
của tính cách (trông mặt mà bắt hình dong) của người đối thoại. Sự thay đổi
của nét mặt, cử chỉ, điệu bộ khi giao tiếp cũng bộc lộ những đặc điểm tâm lí
của các nhân vật tham gia giao tiếp và hiển nhiên là có tác động đến nội dung
giao tiếp. Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “những tín hiệu phi lời tuy là thứ
yếu nhưng rất quan trọng, thiếu chúng, cuộc trò chuyện sẽ tẻ nhạt, thậm chí
phải chấm dứt.” [3;222].
* Lí thuyết lịch sự (politesse): Nguyên tắc cộng tác trong hội thoại của
Grice đã giải quyết được vấn đề “tìm kiếm hiệu quả tối ưu của sự trao đổi
thông tin”. Tuy nhiên chính bản thân ông cũng cảm thấy không thỏa mãn với
điều đó. Grice có phát biểu trong “Logic và hội thoại” rằng: chắc chắn còn

những quy tắc khác (thẩm mĩ, xã hội, đạo đức) kiểu như quy tắc “hãy lịch sự”
mà người tham gia hội thoại đều tuân thủ và chúng có thể làm xuất hiện
những hàm ngôn phi quy ước. Vậy là, trong hội thoại, ngoài quan hệ trao đổi
thông tin còn có quan hệ liên cá nhân. Các quy tắc lịch sự sẽ đề cập đến
phương diện liên cá nhân của hội thoại.
R. Lakoff cho rằng lịch sự là tôn trọng nhau. Nó là một biện pháp dùng
để làm giảm bớt trở ngại trong tương tác giao tiếp giữa các cá nhân. Do vậy,
cần phải thực hiện các quy tắc: quy tắc lịch sự quy thức (formal politeness);

17


quy tắc lịch sự phi quy thức (informal Politeness); quy tắc về phép lịch sự bạn
bè hay thân tình.
Leech quan niệm lịch sự là sự bù đắp những hao tổn, thiệt thòi do hành
động nói năng của người nói gây ra cho người đối thoại. Lí thuyết lịch sự của
Leech dựa trên khái niệm lợi (benefit) và thiệt (cost) gây ra cho người nói và
người nghe và nội dung đó nằm ở quy tắc: Tối thiểu hoá những lời nói bất
lịch sự và tăng tối đa những lời nói lịch sự.
Lấy cơ sở là khái niệm thể diện (face), Brow và Levinson đã xây dựng
nên lí thuyết lịch sự. Các tác giả cho rằng: lịch sự thông qua thể diện là hình
ảnh về ta trước cộng đồng mà mỗi thành viên muốn mình có được. Brown và
Levinson cũng phân biệt hai phương diện của thể diện là thể diện dương tính
(positive face) và thể diện âm tính (nagative face) hay còn có tên gọi khác là
thể diện tích cực và thể diện tiêu cực.
Trở lên là những vấn đề về mặt tích cực của phép lịch sự. Cũng giống
như mọi phạm trù ngôn ngữ khác, lịch sự còn bao gồm cả không lịch sự, M.
Green viết: “Những người tham gia hội thoại có thể chọn cách xử sự lịch sự,
tránh cục cằn, thô lỗ. Ngoài ra, họ còn có thể lựa chọn cách xử sự tùy thích
không đếm xỉa đến tình cảm và nguyện vọng của người khác. Họ còn có thể

dựa vào những hiểu biết của mình về các quy tắc lịch sự để tỏ ra cục cằn, thô
lỗ một cách cố ý.” [3;256].
* Nghĩa hàm ẩn là nghĩa thường được xác định trong sự đối lập với
nghĩa tường minh. Nghĩa tường minh là nghĩa mà người nghe có thể hiểu
được một cách trực tiếp dựa trên câu chữ, tức là dựa trên những từ ngữ được
dùng trong câu và quan hệ cú pháp của chúng, còn nghĩa hàm ẩn là nghĩa
mang tính gián tiếp, cần phải suy luận mới hiểu được.
Trong giao tiếp, với nhiều trường hợp, nghĩa hàm ẩn mới là nội dung
quan trọng mà người nói muốn gửi gắm đến người nghe. Nói cách khác, nếu

18


chúng ta chưa hiểu được nghĩa hàm ẩn của câu nói là chưa thực sự hiểu câu
nói. Nhờ nghĩa hàm ẩn trong giao tiếp mà người ta có thể chuyển tải được
nhiều thông tin hơn so với những gì được truyền đạt một cách trực tiếp theo
câu chữ. Xét ví dụ: “Ở đây ngột ngạt quá!”.
Nghĩa tường minh là thông báo về trạng thái ngột ngạt ở nơi mà câu
này được nói ra.
Nghĩa hàm ẩn của câu trên tùy theo ngữ cảnh sẽ có những cách hiểu
khác nhau. Chẳng hạn, nếu đó là câu nói của một người nào đó trong phòng
đông người mà cửa sổ bị đóng kín thì đó là một gợi ý nên mở cửa sổ ra. Nếu
trong một cuộc tranh luận căng thẳng của một nhóm người nào đó thì câu trên
là một nhận xét với mong muốn đi một chỗ khác để tìm cảm giác thoải mái
hơn. Còn trong trường hợp là một chàng trai tới chơi ở phòng một cô gái
trong kí túc xá thì câu nói “Ở đây ngột ngạt quá!” lại là lời gợi ý đầy tế nhị
và kín đáo của chàng trai hay cô gái nên đi đâu đó ra bên ngoài để có một chỗ
tâm sự riêng tư hơn.
Từ những vấn đề đã trình bày trên, có thể thấy rằng, ngữ dụng học ra
đời đã mở ra những chân trời mới cho nghiên cứu ngôn ngữ. Chân trời càng

xa, càng rộng thì càng chứng tỏ được tính chất kì diệu và vai trò quan trọng
của ngôn ngữ trong đời sống của chúng ta. Quả thật, với sự ra đời của ngữ
dụng học, ngôn ngữ học đã “bước ra khỏi cái tháp ngà của cấu trúc luận nội
tại do F. De. Saussure khởi xướng” [3;12] để đi vào mọi ngõ ngách của đời
sống con người.
Chúng tôi đã vận dụng những vấn đề lí thuyết của ngữ dụng học để tìm
hiểu về yếu tố phi lời trong giao tiếp và biểu hiện của lịch sự trong giao tiếp
được biểu hiện thông qua các thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN. Bên cạnh đó,
chúng tôi cũng quan tâm tìm hiểu về vai trò của các thành ngữ này trong việc
tham gia vào lập luận.

19


1.2. Vấn đề thành ngữ trong tiếng Việt
1.2.1. Khái niệm thành ngữ
Thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
tìm hiểu. Cũng vì thế mà có nhiều quan niệm khác nhau về thành ngữ. Các
quan niệm về thành ngữ được cụ thể dần cùng với lịch sử nghiên cứu vấn đề
thành ngữ trong tiếng Việt. Ban đầu, chưa có một quan niệm cụ thể cho thành
ngữ vì còn có sự đồng nhất giữa thành ngữ với các đơn vị ngôn ngữ khác như
tục ngữ, quán ngữ, … Từ những năm bốn mươi của thế kỉ XX trở lại đây, khái
niệm thành ngữ mới mang tính chất độc lập để phân biệt với các đơn vị ngôn
ngữ khác. Sau đây là một số quan niệm về thành ngữ của các nhà nghiên cứu:
Dương Quảng Hàm: “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ,
hoặc khuyên răn và chỉ bảo điều gì; nghĩa là thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn
để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý nghĩa gì hoặc tả một trạng thái gì cho có
màu mè.” [8;107].
Nguyễn Văn Mệnh: “Thành ngữ nhằm giới thiệu một hình ảnh, một
hiện tượng, một trạng thái, một tính cách, một thái độ.” [37;13]. Tác giả còn

nói rõ thêm “Mỗi thành ngữ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn
chỉnh”. Năm 1986, trong bài viết “Một vài suy nghĩ góp thêm phần xác định
khái niệm thành ngữ trong tiếng Việt” đăng trên “Tạp chí Ngôn ngữ” số 3, tác
giả chỉ rõ: “Thành ngữ là loại đơn vị có sẵn, chúng là những ngữ có kết cấu
chặt chẽ và ổn định, mang một ý nghĩa nhất định, có chức năng định danh và
được tái hiện trong giao tế.” [37;13].
Nguyễn Văn Tu: “Thành ngữ là cụm từ cố định mà các từ trong đó
đã mất tính độc lập đến một trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm thành một
khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa của từng
thành tố (từ) tạo ra. Những thành ngữ này cũng có tính hình tượng hoặc cũng

20


có thể không có. Nghĩa của chúng đã khác nghĩa của những từ nhưng cũng
có thể cắt nghĩa bằng từ nguyên học.” [22;185].
Hoàng Văn Hành: “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền
vững về hình thức - cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy, về ý nghĩa, được sử dụng
rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ.” [10;27].
Hồ Lê: “Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định về cấu trúc, có nghĩa
bóng, được sử dụng để miêu tả những hình ảnh, những hiện tượng, tính cách
hay quan hệ.” [15;97].
Nguyễn Đức Dân: “Thành ngữ là đơn vị ổn định về hình thức, phản
ánh lối nói, lối suy nghĩ đặc thù của mỗi dân tộc. Thành ngữ phản ánh các
khái niệm và các hiện tượng.” [24;11].
Mai Ngọc Chừ: “Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc
ý nghĩa. Nghĩa của chúng có tính hình tượng và gợi cảm.” [5;157].
Nguyễn Như Ý: “Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên
khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác
tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và

hoạt động như một từ riêng biệt ở trong câu.” [23;271].
Có thể nói, mỗi nhà nghiên cứu đều có một cách kiến giải riêng về
thành ngữ tiếng Việt. Các khái niệm được đưa ra có nhiều điểm tương đồng
nhưng cũng có cả những điểm khác biệt. Đây cũng là một khó khăn để đi đến
việc tìm ra một khái niệm thống nhất cho thành ngữ tiếng Việt. Tiếp thu các
quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra một khái niệm
chung về thành ngữ tiếng Việt như sau: Thành ngữ tiếng Việt là những ngữ
cố định có cấu trúc tương đối ổn định, bền vững, có ngữ nghĩa trọn vẹn và
mang tính biểu trưng.

21


1.2.2. Nguồn gốc của thành ngữ
Thành ngữ cũng giống như các đơn vị ngôn ngữ khác, chúng có quá
trình hình thành và phát triển cùng với lịch sử phát triển ngôn ngữ của mỗi
dân tộc. Vấn đề đi tìm nguồn gốc của thành ngữ là một vấn đề khá nan giải và
phức tạp. Vì nguồn gốc của thành ngữ được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau. Xét một cách tổng quát, thành ngữ được hình thành từ các nguồn cơ bản
sau đây:
1.2.2.1. Nguồn gốc từ văn học dân gian
Văn học dân gian và ngôn ngữ của một dân tộc có mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Ngôn ngữ là chất liệu quan trọng nhất của văn học dân gian và văn
học dân gian cũng làm phong phú thêm vốn từ vựng và giúp cho từ ngữ được
chau chuốt, gọt rũa ngày càng tinh xảo hơn.
Văn học dân gian bao gồm nhiều thể loại như thần thoại, truyền thuyết,
sử thi, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, ca dao, tục
ngữ, vè, … Ở thể loại nào, chúng ta cũng đều thấy có sự đóng góp cho việc
hình thành nên các thành ngữ. Chẳng hạn, với trường hợp của thành ngữ “nợ
như chúa Chổm”, thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu chuyện dân gian

kể về Lê Ninh (tên gọi khác là chúa Chổm). Thời nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê,
Lê Ninh là hoàng tử nhưng ông rất nghèo thường phải ăn chịu ở các quán ăn
trong thành. Tuy nhiên các quán ăn này nếu được ông mở hàng thì rất đắt
khách. Vì vậy, nhiều quán đã mời ông ăn chịu và ghi nợ. Khi Lê Ninh được
lên làm vua, (tức vua Lê Trang Tông) các chủ quán đến đòi nợ. Vua ra lệnh
mở kho để trả nợ nhưng trả nhiều lần chưa hết vì có kẻ đòi nợ khống. Từ đấy
thành ngữ nợ như chúa Chổm có ý chỉ những người nợ rất nhiều. Ví dụ:
(7). Lúc ấy ông Đaclơ đang mắc nợ như chúa Chổm và khánh kiệt gia
tài thì nhờ hơi một chính khách có thế lực, ông ta được bổ sang làm quan cai
trị ở Đông Dương [16;501].

22


×