Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội giai đoạn 2003-2008 và dự đoán cho các năm tiếp theo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.31 KB, 97 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp

MỤC LỤC
Xây dựng kế hoạch đào tạo toàn diện các mặt nghiệp vụ cho cán bộ, đồng thời phải có
sự phối hợp với các trung tâm đào tạo của hội sở MBBank để đào tạo thống nhất
trong toàn hệ thống ngân hang.....................................................................................86
Với cán bộ quản lý, có các chương trình đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, cập
nhật với các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý điều hành
ngân hàng, kiến thức công nghệ thông tin trong lĩnh vực ngân hàng, phân tích, dự báo,
quản trị rủi ro với hoạt động của ngân hàng.................................................................86
Với cán bộ giao dịch, MBBank có những lớp đào tạo ngắn hạn nhằm nâng cao khả
năng giao tiếp với khách hàng, cũng như các kỹ năng Marketing, đàm phán, để có thể
gia tăng khách hàng, tạo ra những mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài với khách hàng.........86
Có những qui định cụ thể nhằm chuẩn hoá quy trình thủ tục, đảm bảo tính thống nhất
quy trình giữa các bộ phận, chi nhánh trực thuộc với cùng loại sản phẩm để tạo điều
kiện cho các nhân viên trong việc thực hiện các nghiệp vụ của mình, không bị trùng
lặp cũng như tránh việc bỏ sót các công đoạn, hồ sơ thủ tục.......................................86
Học tập kinh nghiệm từ các ngân hàng đã có thành công, đúc rút kinh nghiệm từ đội
ngũ nhân viên của họ, phong cách làm việc, các thức xử lý các công việc trong hoạt
động của ngân hàng , và điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp khi áp dụng vào MBBank
đối với mỗi phân đoạn thị trường, mỗi loại khách hàng khác nhau.............................86
Đặc biệt, với những nguồn nhân lực mới, MBBank có quy trình tuyển dụng bao gồm
cả hệ thống tiêu chuẩn cũng như cách thức thi tuyển để chọn được những người có đủ
năng lực và phẩm chất đáp ứng được yêu cầu của công việc nhằm chọn ra những nhân
viên tốt nhất..................................................................................................................87

Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

Khoa: Thèng kª Kinh doanh



Chuyªn ®Ò thùc tËp

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1: Phân tổ vốn huy động theo đối tượng huy động
Bảng 2.2: Vốn huy động của MB Bank giai đoạn 2003- 2008
Bảng 3.1: Quy mô vốn tự có và hệ số an toàn vốn
Bảng 3.2: Biến động vốn huy động của MB Bank giai đoạn 2003- 2008
Bảng 3.3: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng huy động của MB Bank giai
đoạn 2003-2008
Bảng 3.4: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền tệ của MB Bank giai đoạn
2003-2008
Bảng 3.5: Biến động dư nợ cho vay của MB Bank giai đoạn 2004- 2008
Bảng 3.6: Cơ cấu của dư nợ cho vay theo kỳ hạn cho vay giai đoạn 2003-2008
Bảng 3.7: Cơ cấu của dư nợ cho vay theo loại tiền tệ giai đoạn 2003-2008
Bảng 3.8: Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ của MB Bank
Bảng 3.9: Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Bảng 3.10: Các chỉ tiêu ROA, ROE
Bảng 3.11: Biến động lợi nhuận của MB Bank giai đoạn 2003-2008
Bảng 3.12: Số liệu trong mô hình phân tích sự biến động lợi nhuận của NH
năm 2008 so với năm 2007do ảnh hưởng của 2 nhân tố: Tỷ suất lợi nhuận tính
theo vốn kinh doanh và tổng vốn kinh doanh
Bảng 3.13: Số liệu phân tích sự biến động lợi nhuận của NH năm 2008 so với
năm 2007 do ảnh hưởng của 3 nhân tố: Tỷ suất lợi nhuận tính theo vốn huy
động, tỷ trọng vốn huy động trong tổng vốn kinh doanh và tổng vốn kinh doanh
Bảng 3.14: Biến động tổng thu nhập của MB Bank giai đoạn 2003-2008
Bảng 3.15: Số liệu trong mô hình phân tích sự biến động tổng thu nhập của
NH năm 2008 so với năm 2007do ảnh hưởng của 2 nhân tố: Hiệu năng sử
dụng vốn kinh doanh và tổng vốn kinh doanh
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn


Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
Bảng 3.16: Các chỉ tiêu kết quả và chi phí của MB Bank năm 2007, 2008
Bảng 3.17: Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh dạng thuận
Bảng 3.18: Số liệu về lợi nhuận của MB Bank giai đoạn 2003-2008
Bảng 3.19: Bảng tính SSE của 2 phương pháp dự đoán dựa vào lượng tăng
(giảm) tuyệt đối bình quân và tốc độ phát triển bình quân.
Bảng 3.20: Kết quả dự báo lợi nhuận của MB Bank năm 2009,2010
Bảng 3.21: Số liệu về dư nợ cho vay của MB Bank giai đoạn 2003-2008
Bảng 3.22: Bảng tính SSE của 2 phương pháp dự đoán dựa vào lượng tăng
(giảm) tuyệt đối bình quân và tốc độ phát triển bình quân.
Bảng 3.23: Kết quả dự báo dư nợ cho vay của MB Bank năm 2009,2010

Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp

LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền
kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế- xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ
cho toàn xã hội. Thu nhập từ Ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của
nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh
nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Đối với các

doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho
việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị.
Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua
hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay
tài khoản điện tử....Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính
quan trọng nhất, thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền
tệ, vì vậy, nó là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ
nhằm ổn định kinh tế.
Phân tích hoạt động kinh doanh là một công tác có tầm quan trọng đặc
biệt giúp cho các nhà quản lý đánh giá hoạt động ngân hàng, xây dựng các
mục tiêu và tìm biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động. Công tác
phân tích sẽ làm rõ thực trạng hoạt động ngân hàng, những nhân tố tác động
tới thực trạng đó, so sánh với các tổ chức tín dụng khác nhằm thúc đẩy cạnh
tranh. Ban lãnh đạo ngân hàng phải thường xuyên phân tích hoạt động của
ngân hàng để phát hiện kịp thời mặt mạnh, chỗ yếu của đơn vị mình, trên cơ
sở đó có những biện pháp thích hợp trong sử dụng lao động, vốn, góp phần
hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.
Phương pháp thống kê là công cụ rất hữu hiệu để phân tích hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Con số thống kê là cơ sở quan trọng để kiểm định,
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

1

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, chiến lược mà ngân hàng đề ra. Từ đó,
giúp ngân hàng có thể dự báo, hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch phát
triển trong ngắn hạn và dài hạn. Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP

Quân đội, em nhận thấy phương pháp thống kê rất quan trọng trong công tác
hoạt động của Ngân hàng. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Vận dụng một
số phương pháp thống kê phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng TMCP Quân đội giai đoạn 2003-2008 và dự đoán cho các năm
tiếp theo” làm chuyên đề thực tập của mình.
Kết cấu chuyên đề của em bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản và đặc trưng hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại
Chương II: Một số chỉ tiêu và phương pháp thống kê phân tích hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội giai đoạn 2003-2008 và dự đoán
cho các năm tiếp theo.
Đây là một đề tài nghiên cứu rộng và phức tạp. Do trình độ còn hạn chế
nên bài chuyên đề của em không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong thầy giúp
đỡ em để bài chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Ngọc Phác và các anh chị
phòng kế toán của Ngân hàng TMCP Quân đội đã giúp đỡ em hoàn thành bài
chuyên đề này.

Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

2

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ ĐẶC TRƯNG HOẠT ĐỘNG KINH

DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại:
1.Khái niệm và bản chất của Ngân hàng thương mại (NHTM):
1.1. Khái niệm:
Ở mỗi nước có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví
dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
các dịch vụ tài chính và họat động trong ngành dịch vụ tài chính. Ở Pháp: ngân
hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận tiền của
công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng
cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính…
Ở Việt Nam, theo quy định tại điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín
dụng (luật số 02/1997/QH10) được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành thì: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ, là một tổ chức tín dụng thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các
chủ thể trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển
kinh tế, tiêu dùng cho xã hội.
1.2. Bản chất:
- NHTM là một tổ chức kinh tế.
- NHTM hoạt động mang tính chất kinh doanh.
- NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ
ngân hàng.
Ngân hàng (NH) vừa là người “cung cấp” đồng vốn, đồng thời cũng là
người “tiêu thụ” đồng vốn của khách hàng. Tất cả những hoạt động “mua,
bán” này thường thông qua một số công cụ và nghiệp vụ của ngân hàng. Là
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

3

Khoa: Thèng kª Kinh doanh



Chuyªn ®Ò thùc tËp
một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, NHTM luôn tìm cách tối đa hoá lợi
nhuận. NHTM kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay. Để thu hút tiền
vào, ngân hàng đưa ra các điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Tiếp đó,
ngân hàng phải tìm ra những cách có lợi để đem cho vay những gì đã vay
được. Với tư cách là trung gian tài chính,ngân hàng hoạt động theo nguyên
tắc phát hành các phiếu ghi nợ (sổ tiết kiệm, tín phiếu, mở tài khoản...) để thu
hút tiền của công chúng, sau đó sử dụng tiền vay được để mua các chứng
khoán (cổ phiếu, trái phiếu, vật cầm cố...) và để cho vay. Nói theo ngôn ngữ
thị trường, ngân hàng thu nhận vốn bằng cách bán (phát hành) các tài sản nợ
(nguồn vốn), rồi vốn này có thể dùng để mua những tài sản có (cho vay, đầu
tư vào các giấy tờ có giá...) mang lại thu nhập.
Sơ đồ: Hoạt động của Ngân hàng thương mại
Gửi tiền
Các DN,
cá nhân

Thanh toán
Tiết kiệm

Cho vay
Ngân hàng
thương mại

Cung cấp
Dịch vụ NH

Các DN,
cá nhân

khác

2. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại:
- NHTM là một doanh nghiệp đặc thù kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệtín dụng. Các hoạt động của NHTM nhằm thúc đẩy và lưu chuyển các dòng
tiền tệ phục vụ cho việc giao dịch, thanh toán phát sinh hàng ngày trong nền
kinh tế, đồng thời thông qua các hoạt động huy động vốn và cho vay các
NHTM có khả năng tạo tiền từ các nghiệp vụ kinh doanh của mình thông qua
các công cụ lãi suất, tỷ giá.
- Sản phẩm, hàng hoá mà NH kinh doanh và làm dịch vụ là hàng hóa tài
chính (tài sản tài chính) đó là tiền và các chứng từ có giá như cổ phiếu,
thương phiếu, hối phiếu, trái phiếu, tín phiếu...đó là sản phẩm cao cấp của nền
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

4

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
kinh tế thị trường. Vì vậy, nó vận động theo một quy trình và phải được điều
hành bởi nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn nhất định, dựa trên những
cơ sở pháp lý do Luật pháp quy định.
- Trong quá trình hoạt động, NHTM không tạo ra sản phẩm dở dang,
tồn kho mà tạo ra sản phẩm hàng hoá trực tiếp cung ứng cho người tiêu dùng
khi có nhu cầu, bởi lẽ đó hoạt động của NH dựa vào thương hiệu, uy tín tạo
ra đối với khách hàng. Vì vậy, các NH phải không ngừng nâng cao chất
lượng, dịch vụ cung cấp và không ngừng quảng bá tiếp thị hình ảnh của
mình tới khách hàng.
- Hoạt động của NH là cầu nối giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, cá
nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các cá nhân có nhu

cầu vay vốn. Vì vậy, các NH góp phần không nhỏ vào việc giải quyết nạn thất
nghiệp, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, góp phần ổn định trật tự
xã hội cũng như góp phần đảm bảo vốn đối với các ngành kinh tế nhằm phát
triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong một quốc gia.
3. Chức năng của Ngân hàng thương mại:
3.1.Chức năng trung gian tín dụng:
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể
có nhu cầu tiền tệ cần bổ sung gặp phải nhiều hạn chế. Hoạt động tín dụng
của NHTM đã góp phần khắc phục các hạn chế đó. Thực hiện chức năng này,
một mặt, NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt
khác, trên cơ sở vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu
cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng ...của các chủ thể kinh tế, góp phần
đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

5

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
trưởng kinh tế. Như vậy, NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay,
hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của NHTM là đi vay để cho vay.
Vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên
tục và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản
xuất, tạo thành chu kỳ tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết
thúc của một vòng tuần hoàn này thể hiện dưới dạng tiền tệ. Trong quá trình

sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh
nghiệp phải đồng thời tồn tại ở 3giai đoạn: dự trữ- sản xuất- lưu thông. Từ đó
xảy ra hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời: tại một thời điểm nhất định có
những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (thừa vốn) và có những
đơn vị khác tạm thời thiếu vốn. Hiện tượng này làm nảy sinh yêu cầu ngày
càng bức thiết phải giải quyết cho được vấn đề điều hoà vốn. NHTM với vai
trò là một trung gian tín dụng đứng ra tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ,
điều hoà cung và cầu vốn trong các doanh nghiệp của nền kinh tế, đã góp
phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn.
Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của
chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa công ty (khi phát
hành cổ phiếu ) với những nhà đầu tư: chuyển giao các mệnh lệnh trên thị
trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty...theo cách
này, ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên
thị trường.
Do đó, ngân hàng không chỉ làm trung gian giữa người gửi tiền và người
vay tiền mà còn làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên
thị trường. Những trung gian tài chính làm việc này để kiếm lời bằng việc đặt
ra một lãi suất cao hơn cho các món vay so với món lãi họ thanh toán cho
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

6

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
người cho vay. Như vậy,tác dụng của trung gian tài chính là giảm thiểu những

chi phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế.
Thông qua chức tín dụng, NHTM đã góp phần điều hoà vốn trong nền
kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, là cầu nối
giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động viên vật tư hàng hoá đưa vào sản xuất
lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình
tái sản xuất.
3.2.Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện
thanh toán:
Trong NHTM, chức năng trung gian thanh toán gắn bó chặt chẽ và hữu
cơ với chức năng trung gian tín dụng: ngân hàng dùng số tiền gửi của người
này để cho người khác vay. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ
được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách
nhanh chóng, tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có giá trị lớn.
NHTM ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng
hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng
thực hiện. Mọi quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể mở
tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả
hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài
khoản của mình.
Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ
lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển
ngân, thẻ thanh toán...) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông,
đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá.
Ban đầu ngân hàng đã sử dụng tiền ngân hàng thay cho tiền vàng trong lưu
thông tiết kiệm được chi phí đúc tiền, vận chuyển, bảo quản và hao mòn tiền
vàng trong lưu thông. Kế tiếp, ngân hàng lại sử dụng các công cụ lưu thông
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

7


Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
tín dụng như séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán...để thay thế cho tiền mặt,
đã tiết kiệm được nhiều chi phí trong việc in, đếm, vận chuyển tiền. Từ các
phương tiện thanh toán, khách hàng của ngân hàng không phải chi trả với
nhau bằng những bao tiền mặt rất tốn kém, mà chỉ cần ra lệnh NHTM thông
qua các phương tiện, ngân hàng sẽ ghi nợ cho tài khoản người này, ghi có cho
tài khoản người kia nhanh chóng.
Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến
mức đa dạng, không chỉ là trung gian thanh toán truyền thống như trước, mà
còn quản lý các phương tiện thanh toán. Ở các nước phát triển và các nước
đang phát triển, phần lớn công tác thanh toán được thực hiện thông qua séc và
phần lớn séc thanh toán ở trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù
trừ,thông qua hệ thống NHTM. Nếu việc phát hành séc để rút tiền từ tài
khoản tiền gửi và ký thác trong cùng một ngân hàng chỉ là một động tác làm
chuyển dịch vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác và nếu chỉ 2ngân hàng
trong cùng một địa bàn, sẽ tiến hành việc trao đổi séc trực tiếp, nhưng nếu xảy
ra trong một số ngân hàng trong cùng một địa bàn, buộc phải được tiến hành
thông qua thanh toán bù trừ.
3.3.Chức năng tạo tiền:
Các ngân hàng có khả năng tạo ra tiền gửi khi họ cho vay hoặc đầu tư,
tức là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cho vay và đầu tư. Khi một ngân
hàng cho một cá nhân hoặc doanh nghiệp vay, nó tạo ra trên sổ sách của nó
một khoản tiền gửi dành cho quyền lợi của người đi vay. Tương tự như vậy,
khi ngân hàng mua trái phiếu kho bạc hoặc các loại chứng khoán khác cho
danh mục của mình, thì tiền gửi được tạo ra cho quyền lợi của người bán
những chứng khoán này.
Ý nghĩa kinh tế của các chức năng tạo tiền của các NHTM phản ánh

trước hết từ nhu cầu bên trong của chính hệ thống và từng NHTM riêng lẻ.
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

8

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
Điều hiển nhiên ai cũng phải thừa nhận là, để có thể hoạt động, và đặc biệt
cho sự phát triển của các hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM, yêu
cầu bản thân các NHTM, bằng các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống phải
tạo điều kiện cho sự tăng trưởng nguồn vốn, phù hợp với yêu cầu tăng trưởng
kinh tế. Hơn thế nữa, năng lực của hệ thống NHTM trong việc tạo tiền không
chỉ đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân các NHTM mà còn
mang ý nghĩa kinh tế to lớn: với một hệ thống tín dụng năng động có vai trò
cực kỳ quan trọng như là người mở đầu, người tham gia và có khi là người
nâng đỡ và quyết định đối với mọi quá trình sản xuất. Vai trò của các NHTM
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm sử dụng tốt nhất vốn tạm thời thừa của
các doanh nghiệp và các nhân và nói rộng ra là của nền kinh tế, và đồng thời
bổ sung kịp thời nhu cầu vốn khi thiếu.
3.4.Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác:
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng có
những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các
doanh nghiệp. Với những điều kiện đó, ngân hàng có thể làm tư vấn về tài
chính và đầu tư cho các doanh nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, bảo đảm
đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Khi một doanh nghiệp muốn phát hành
chứng khoán, họ có thể nhờ ngân hàng cung cấp các dịch vụ như: lựa chọn
loại chứng khoán phát hành, tư vấn các vấn đề về lãi suất chứng khoán, thời
hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác. Ngoài ra, ngân hàng còn cung

cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng, làm dịch vụ thu
lãi chứng khoán...
Ngân hàng còn cung cấp cho các khách hàng các dịch vụ khác như: dịch
vụ bảo quản an toàn vật có giá của khách hàng, dịch vụ cho thuê két ngân
buổi tối, dịch vụ tín thác hoặc uỷ thác ngân hàng….
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

9

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
4. Vai trò của Ngân hàng thương mại:
4.1. Vai trò thực thi chính sách tiền tệ:
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương; để
thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt
buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng...Chính các NHTM là
chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng
vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến
khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua NHTM và các
định chế tài chính trung gian khác, tình hình, sản lượng, giá cả, công ăn việc
làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá...của nền kinh tế được
phản hồi về cho Ngân hàng Trung ương có những chính sách điều tiết thích
hợp với từng tình hình cụ thể.
Vai trò điều tiết kinh tế vi mô của Ngân hàng thương mại được thể hiện
qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế vào
NHTM (thu nhận tiền bán hàng do các doanh nghiệp gửi vào tài khoản, thu
nhận tiền gửi của công chúng...), đồng thời NHTM cũng cung ứng tiền mặt
theo nhu cầu khi các doanh nghiệp rút tiền mặt từ tài khoản của mình để trả

lương cho công nhân viên chức, trả tiền mua nguyên vật liệu, thu mua hàng
hoá..., khi công chúng rút tiền gửi để chi dùng cho những nhu cầu của mình
như mua sắm tài sản, trả nợ,...Qúa trình thu nhận và cung ứng khối lượng tiền
mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu
thông tiền tệ trong từng khu vực. Khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đi qua
quỹ nghiệp vụ NHTM là những công cụ tác động trực tiếp vào hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của các tầng lớp dân cư. Bằng chính sách thu hút và nghệ thuật kinh
doanh, ngân hàng sẽ tiếp nhận một khối lượng tiền mặt không nhỏ, rồi từ đó
lưu thông về ngân hàng khối lượng tiền mặt này sẽ đáp ứng nhu cầu tiền mặt
cho các doanh nghiệp và công chúng, đảm bảo cho nền kinh tế thường xuyên
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

10

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
có một khối lượng tiền mặt cần thiết và hợp lý, phục vụ cho hoạt động kinh
doanh và các hoạt động khác trong phạm vi từng doanh nghiệp, từng khu vực,
cũng như trong phạm vi toàn nền kinh tế phát triển bình thường.
Như vậy, với vai trò thực thi chính sách tiền tệ, điều tiết kinh tế vi mô,
NHTM đã xâm nhập vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, cá nhân, các lĩnh vực khác của nền kinh tế thông qua nghiệp vụ tín
dụng, tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt, các quan hệ về tham gia hùn
vốn, tư vấn... Thông qua đó, NHTM giúp các hoạt động của các doanh nghiệp
được phát triển bình thường và ngày càng phát triển.
4.2. Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng
tạo tiền của NHTM:

Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô thuộc về
Ngân hàng Trung ương. Chức năng này được thể hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn
thảo chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là loại công cụ của chính sách can
thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và các quy luật vận
động của nó. Nhưng NH Trung ương không trực tiếp giao dịch với công
chúng, do đó phải dựa vào thông tin phản hồi từ các định chế tài chính trung
gian để làm căn cứ soạn thảo chính sách tiền tệ. Như vây, rõ ràng là nếu
không có hệ thống NHTM hoàn chỉnh, không có thông tin phản hồi do hệ
thống NHTM cung cấp, thì việc hoạch định chiến lược và soạn thảo chính
sách tiền tệ của NH Trung ương sẽ không hoàn hảo.
Thứ hai, chính sách tiền tệ, được thiết kế và khởi động từ NH Trung
ương, lan ra đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây
chuyền của hệ thống NH trung gian và các tổ chức tài chính trong nước.
Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, NH trung ương sử dụng
các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội, mà trước hết là
trong hệ thống NHTM. Các công cụ này là những thao tác hoạt động hàng
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

11

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
ngày của Ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của
Ngân hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ
của chính sách tiền tệ đã vạch ra.
5. Các dịch vụ của Ngân hàng thương mại:
So với các doanh nghiệp sản xuất, tính đặc thù của doanh nghiệp ngân

hàng thể hiện trong đặc điểm riêng biệt của sản phẩm ngân hàng. Nếu các
doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hoá hữu hình (như lúa,gạo, vải, giày
dép, máy móc...) thì các NHTM sản xuất ra các hàng hoá vô hình, hay đúng
hơn là các dịch vụ.
5.1.Các dịch vụ truyền thống của ngân hàng:
5.1.1.Thực hiện trao đổi ngoại tệ:
Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được
thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại
tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và
hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ
sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc
gia hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại
tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như
vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
5.1.2.Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại:
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là
cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ
(khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược
chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng,
giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
5.1.3.Nhận tiền gửi:
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

12

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp

kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn
quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng – một
quỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều
tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử
đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất
16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các
chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.
5.1.4.Bảo quản vật có giá trị:
Các ngân hàng đã thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho
khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do
ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu
giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ
tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường
do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
5.1.5.Tài trợ các hoạt động của Chính phủ:
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường
là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận
với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp
phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy
phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó
các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải
mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các
doanh nghiệp của Chính phủ.
5.1.6.Cung cấp các tài khoản giao dịch:
Tài khoản tiền gửi giao dịch là một tài khoản tiền gửi cho phép người
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

13


Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra
loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan
trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả
của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng
hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
5.1.7.Cung cấp dịch vụ ủy thác:
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và
quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo
đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý.
Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác. Hầu hết các ngân
hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ
gia đình; và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
5.2.Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây:
5.2.1.Cho vay tiêu dùng:
Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung
có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở
nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều
hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại
lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã
buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng
trung thành tiềm năng. Người tiêu dùng là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng
và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
5.2.2.Tư vấn tài chính:
Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động

tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung
cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

14

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và
ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
5.2.3.Quản lý tiền mặt.
Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà
họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong
những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng
ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần
thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn
cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
5.2.4.Dịch vụ thuê mua thiết bị:
Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn
mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó
ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định yêu cầu
khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng
sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa
và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở
hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn.
Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì bới tư cách là
một người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng
nhằm làm tăng lợi ích về thuế.

5.2.5.Cho vay tài trợ dự án:
Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi
phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi
ro trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường được thực
hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng
với sự tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng,
cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

15

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
5.2.6.Bán các dịch vụ bảo hiểm:
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách
hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị
chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng thương mại
trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các
hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài
sản như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo
hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý
kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn
phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu
nhập từ các dịch vụ ở đó.
5.2.7.Cung cấp các kế hoạch hưu trí:
Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu
trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát
lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán

các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến
khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
5.2.8.Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán:
Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở
thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong
những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới
chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
5.2.9.Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp:
Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất
quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

16

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
tư đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại
hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết
thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày
nhất định trong tương lai (chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ
bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm
vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu
của quỹ
5.2.10.Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn:
Ngân hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong
việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho

các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài
trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh
phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ
hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị
trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để
những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do
hay từ các tổ chức cho vay khác.
II. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại:
1. Quan hệ tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở hoàn trả:
NHTM với tư cách là một doanh nghiệp kinh tế tiền tệ hoạt động trên cơ
sở “đi vay” để “cho vay” thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình.
Trước hết, vốn mà ngân hàng mua quyền sử dụng của những chủ thể có
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phải được trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu
của nó theo những cam kết đã được giao ước. Là người đi vay, NHTM phải
đảm bảo hoàn trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng yêu cầu thanh toán
của khách hàng với một món lợi tức hợp lý kèm theo.
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

17

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
Là người cho vay, NHTM sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức là
tạm thời bán quyền sử dụng vốn cho người khác, NHTM vẫn luôn mong
muốn khách hàng của mình sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ
vốn và lãi đúng kỳ hạn theo những quy định đã cam kết. Như vây, trong mối
quan hệ tay ba giữa NHTM, người gửi tiền ký thác và người đi vay đều dựa
vào lòng tin của nhau để giải quyết tình trạng thừa hay thiếu vốn của các chủ

thể nêu trên.
Khác với các quan hệ mua bán thông thường khác (sau khi trả tiền người
mua trở thành chủ sở hữu vật mua), quan hệ tín dụng ngân hàng chỉ trao đổi
quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sử hữu khoản vay.
Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng hàng hoá hay tiền tệ cho
người kia sử dụng khoản vay trong thời hạn nhất định, sau khi khai thác giá
trị sử dụng khoản vay trong thời hạn cam kết, người vay phải hoàn trả toàn
bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản lợi tức trả cho người cho vay.
2. Lãi suất- biểu hiện đặc trưng về hoạt động kinh doanh của một
trung gian tài chính:
Lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm
thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay
coi lãi suất như là khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền
của người khác. Như vậy, lãi suất hàm chứa một mâu thuẫn: người cho vay
muốn có lãi suất cao nhất, trong khi người đi vay muốn có lãi suất thấp nhất.
Vì vậy, như giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất được xác định bởi
cung và cầu. Cung vốn có được chủ yếu từ các khoản ký thác của công chúng
và lượng vốn được cung ứng phụ thuộc nhiều vào giá cả (lãi suất). Do đó nếu
lãi suất quá thấp, đa số dân chúng sẽ quyết định là không đáng kể cho vay các
khoản tiết kiệm của mình, họ sẽ giữ các khoản tiền này dưới dạng khả dụng
(tức là dễ chuyển thành tiền mặt hơn) và để chi tiêu khi cần. Khi lãi suất tăng
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

18

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyên đề thực tập
cao, lng tin tit kim m dõn chỳng sn sng cho vay tng lờn, v s lng

vn cung s tr nờn ln hn. Nhng ngi i vay vn coi lói sut l mt
khon chi phớ v nh vy, chi phớ cng gim thỡ cu cng tng, khi lói sut
tng thỡ cu vay vn gim xung.
3. Yu t lũng tin trong hot ng kinh doanh tớn dng ngõn hng:
Trong gii ti chớnh, mt ngi c xem l cú uy tớn khi ngi khỏc tin
tng v sn sng ký thỏc ti sn hoc tin bc cho anh ta. Tớn dng l s cho
vay cú ha hn thi gian hon tr. S ha hn biu hin mc tớn nhim ca
ngi cho vay, yu t tớn nhim l yu t bao trựm trong hot ng tớn dng,
l iu kin cn cho quan h tớn dng phỏt sinh.
Trong quan hệ tín dụng, sự tín nhiệm là yếu tố tuy vô hình nhng không
thể thiếu. Một tính đặc thù của hoạt động ngân hàng là tình trạng tài chính của
ngân hàng phụ thuộc vào niềm tin của khách hàng gửi tiền vào giá trị tài sản
của ngân hàng đó. Nếu khách hàng gửi tiền tin rằng nhiều tài sản của ngân
hàng đã giảm giá trị thì ai cũng cố rút tiền của mình ra và gửi vào một ngân
hàng khác. V nếu không khí hoảng loạn về tài chính phát triển, sự phá sản
ngân hàng có thể không chỉ giới hạn trong những ngân hàng quản lý kém tài
sản của họ. Các vấn đề của một ngân hàng có thể dễ dàng lan sang các ngân
hàng khác đang hoạt động tốt nếu ngời ta nghi là các ngân hàng đó đã cho
ngân hàng kia vay. Sự mất tín nhiệm toàn bộ nh vậy đối với các ngân hàng sẽ
đem lại sự suy giảm nghiêm trọng trong khả năng của hệ thống ngân hàng tài
trợ cho đầu t, do đó có thể đẩy nền kinh tế vào suy thoái.
4. Tín dụng của ngân hàng tạo tiền ký thác, tạo tài nguyên cho hoạt
động kinh doanh ngân hàng
Chức năng tạo tiền và huỷ tiền là chức năng riêng có của tín dụng ngân
hàng. Chức năng này đã làm cho hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân
hàng khác hẳn với các hoạt động kinh doanh thông thờng khác.
Thuở ban đầu, các ngân hàng có thể tạo tiền bằng việc phát hành các
Sv: Ngô Thị Minh Hiền

19


Khoa: Thống kê Kinh doanh


Chuyên đề thực tập
ngân phiếu thanh toán thay cho vàng trong lu thông. Ngày nay nhìn chung
việc tạo tiền của ngân hàng vẫn nh trớc, nhng chức năng phát hành ngân phiếu
đợc giao cho NH Trung ơng, NHTM không còn tạo tiền bằng cách phát hành
ngân phiếu, và tạo ra bút tệ (tiền ghi sổ) bằng cách cho khách hàng rút quá số
d tiền gửi tài khoản séc qua hình thức thấu chi, hoặc vay thanh toán, hoặc phát
hành séc. Tóm lại, ban đầu ngân hàng đã sử dụng giấy bạc ngân hàng thay cho
tiền vàng trong lu thông, tiết kiệm đợc chi phí đúc tiền, vận chuyển, bảo quản
và hao mòn tiền bạc trong lu thông. Kế tiếp, ngân hàng lại sử dụng các công
cụ lu thông tín dụng, nh séc, giấy chuyển ngân hàng, thẻ thanh toánđể thay
thế cho tiền mặt, đẫ tiết kiệm đợc nhiều chi phí trong việc in,đếm, vận chuyển
tiền.
5. Công nghệ ngõn hng l cụng ngh c bit: cụng ngh bin i c
cu thi hn ca cỏc ng tin
Ngõn hng hat ng nh mt trung gian ti chớnh: nhn tin gi ca
khỏch hng v cho vay phn ln tin thu gom ny cho cỏc khỏch hng khỏc.
Nh vy, trong bng tng kt ti sn ngõn hng, ti sn n ln nht l tin gi
trong cỏc ti khon ca nhng ngi gi tin vo NH, ti sn cú ln nht l
s tin cho khỏch hng vay. Vic NH duy trỡ mt lng tin mt v mt s ti
sn kh dng cn thit dựng thanh toỏn cho ngi ký thỏc l cc k quan
trng. Tuy nhiờn vic duy trỡ mt lng ti sn di dng tin mt v vn kh
dng ó ny sinh mt vn : mt ti sn cú tớnh kh dng cng cao thỡ kh
nng sinh li cng thp. Ti sn phi mt nhiu thi gian mi chuyn c
thnh tin mt s thu c lói sut cao v ti sn cú lói sut cao nht l ti sn
kộm lu hot nht, ú l cỏc khon cho khỏch hng vay. Do ú, ngõn hng
phi chn mt mc cõn bng gia cỏc ti sn cú tớnh kh dng tt nhng kh

nng sinh li kộm v ti sn cú kh nng sinh li cao nhng tớnh kh dng
kộm, xem xột vn i nghch gia tớnh kh dng v kh nng sinh li trong
kh nng chp nhn c.
Sv: Ngô Thị Minh Hiền

20

Khoa: Thống kê Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
Chìa khoá đạt đến thành công đòi hỏi NH phải có năng lực chuyển từ
hoạt động truyền thống về tiếp nhận ký thác, cho vay, chuyển tiền sang những
lĩnh vực mới như: mua bán tiền tệ, chứng khoán và sản phẩm dẫn xuất, nhưng
phải biết xử lý những rủi ro phức tạp trong các thị trường này.
Thước đo hiệu quả kinh doanh của một NHTM là lợi nhuận. Muốn đạt
được lợi nhuận cao, thì công nghệ NH phải tinh xảo, phải luôn có những công
nghệ để đạt hiệu quả trong kinh doanh tín dụng, nghiệp vụ trung gian và thu
hút vốn nhàn rỗi vào NH. Một trong những nội dung cơ bản của công nghệ
NH là biết giải quyết hài hoà khả năng sinh lời của tiền vốn và sự an toàn về
khả năng thanh toán giữa các nguồn thu và mức doanh lợi. NHTM phải luôn
luôn tính toán sao cho có một số tồn quỹ VNĐ và ngoại tệ đáp ứng yêu cầu
rút tiền của người ký gửi, có một tỷ lệ thích hợp đầu tư vốn vào các loại tài
sản có thể chuyển thành tiền mặt khi cần thiết, giúp NH tránh rủi ro, hoạt
động bình thường trên số dư tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng nhà nước, ở các
NH đại lý cũng như séc và các chứng từ khác trong quá trình thu tiền.
6. NHTM là trung tâm biến đổi và tiếp nhận rủi ro trong nền kinh tế
NHTM làm nhiệm vụ trung gian tín dụng. Vấn đề cơ bản nảy sinh trong
hoạt động tài trợ tín dụng là làm sao nối kết ý nguyện giữa chủ thể thừa tiền
muốn cho vay với chủ thể thiếu tiền muốn đi vay. Khi làm công việc kết nối

đó, NHTM đã ngầm chứa đựng rủi ro. Hơn nữa, khách hàng của NH là các
chủ thể chứa đựng rủi ro, họ tìm đến NH là muốn san sẻ rủi ro đó cho NH.
Khách hàng vay vốn của NH chủ yếu bao gồm hai loại: khách hàng vay sản
xuất và khách hàng vay tiêu dùng. Người sản xuất là những người hoạt động
trong môi trường đầy rủi ro. Các yếu tố gây rủi ro cho người sản xuất rất đa
dạng và phong phú xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau và khi xảy ra rủi
ro, khách hàng loại này thông qua kênh tín dụng chuyển các rủi ro đến cho
NH. Các cá nhân và gia đình sinh hoạt trong môi trường có nhiều rủi ro, các
Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

21

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


Chuyªn ®Ò thùc tËp
rủi ro mà họ gặp phải gắn với vấn đề thu nhập và công ăn việc làm, sức khỏe,
tuổi tác, hoàn cảnh gia đình… đều dẫn đến khả năng không hoàn trả được nợ
vay cho NH. Và như vậy, qua con đường tín dụng họ có thể chuyển các rủi ro
đó cho NH. Ngoài ra, rủi ro tín dụng còn bắt nguồn từ các yếu tố trong môi
trường kinh doanh. Những biến động về tự nhiên như hỏa hoạn, động đất,
những biến động chính trị xã hội, biến động của môi trường vĩ mô…đều ảnh
hưởng đến rủi ro tín dụng.
Đến lượt mình, với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng trở thành
“một trung gian chuyển rủi ro trong nền kinh tế”. Thông qua các kênh ký
thác, NHTM nhận các nguồn tài chính từ những người cho vay đầu tiên, còn
thông qua các kênh tín dụng, NHTM chuyển các luồng tài chính đến tay
người đi vay sau cùng, và cũng bằng hai cách đó, NHTM chuyển đi hoặc
nhận về các luồng tài chính từ các định chế tài chính khác. Nhưng khi làm
như vậy, NHTM cũng đồng thời tạo lập các kênh dẫn rủi ro giữa các chủ thể

kinh tế, các định chế tài chính với nhau.

Sv: Ng« ThÞ Minh HiÒn

22

Khoa: Thèng kª Kinh doanh


×