Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận môn tư tưởng Hồ Chí Minh Các phương pháp tuyên truyền, giáo dục trong tư tưởng đại đoàn kết hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.08 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tiểu luận:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT

Tên đề tài:
“Các phương pháp tuyên truyền, giáo dục trong tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh ”

SV thực hiện: Trần Hữu Hoà
Lớp: Tư tưởng HCM - K26B

Hà Nội- 2007


LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn kiên trì
tư tưởng đại đoàn kết; và Người chính là tượng trưng tiêu biểu của khối đại đoàn kết dân
tộc. Tư tưởng lớn của Người với khẩu hiệu chiến lược:
“ Đoàn kết, đoàn kết , đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Trở thành nguồn cổ vũ, động viên, tập hợp mọi tầng lớp, mọi cá nhân và cả cộng
đồng, làm nên sức mạnh vô địch của toàn dân ta. Để giải phóng dân tộc, phải tập hợp, đoàn
kết các tầng lớp nhân dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Trong xây dựng
đất nước càng phải tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước chỉ có thể hoàn thành thắng lợi khi cả dân tộc ta đoàn kết một
lòng, đồng tâm nhất trí, triệu người như một, mang hết tài năng và nghị lực cống hiến cho
Tổ quốc, vì tương lai xán lạn của thế hệ hôm nay và con cháu mai sau. Với chủ tịch Hồ
Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, lâu dài trong cách mạng giải
phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân
tộc, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết Bắc- Nam, đoàn kết miền ngược với miền xuôi, đoàn kết
giữa giai cấp và tầng lớp, đoàn kết giữa đồng bào trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài.
Người hết sức chú trọng xây dựng và củng cố liên minh giữa giai cấp nông dân và giai cấp
công nhân, nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất; đồng thời, Người cũng rất coi trọng
vai trò của các tầng lớp khác: trí thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, nhân sỹ yêu nước, người
Việt Nam ở nước ngoài…Người không bỏ sót một ai, từ mỗi cá nhân đến mỗi cộng đồng;
vừa đánh giá cao cống hiến và kinh nghiệm của thế hệ trước, vừa đặt niềm tin sâu sắc vào
thế hệ sau. Trong khi lên án gay gắt bọn phản động đội lốt tôn giáo chống lại dân tộc.
Người vẫn thực sự tôn trọng đức tin của đồng bào có đạo.
Tất cả những điều trên không hẳn Hồ Chí Minh tự nhiên mà có được, mà cũng
không dễ mà làm được, điều đó chỉ lý giải được khi chúng ta đi sâu vào nghiên cứu có hệ
thống một cách thật đầy đủ và sâu sắc những cách thức làm nên thành công trong tư tưởng
đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
Trong điều kiện hội nhập hiện nay, tình hình quốc tế đang diễn ra những biến đổi to
lớn và phức tạp, những vấn đề mới đang đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng nhiều thì
việc đẩy mạnh nghiên cứu, thấm nhuần sâu sắc, vận dụng những nguyên lý và phương
pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh càng trở nên nhiệm vụ cấp bách. Cho nên nhu cầu


học tập, nghiên cứu, nắm vững hệ thống quan điểm tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về
phương pháp tuyên truyền cách mạng. Đó cũng là lý do mà sinh viên chọn đề tài:
“Các phương pháp tuyên truyền, giáo dục trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh”
Đây là một đề tài mang tính chuyên sâu về nội dung phương pháp tuyên truyền đại
đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó thể hiện những nét tinh tế, độc đáo nhưng vô cùng giản dị
trong phương pháp tuyên truyền của Người. Là một đề tài mới, ít được khai thác cho nên
nguồn tư liệu để cung cấp cho đề tài không nhiều. Trong phạm vi nghiên cứu và viết đề tài
trong khoảng 20 ngày. Sinh viên cố gắng dùng những phương pháp tối ưu nhất để diễn đạt
nội dung của đề tài:
Phần I: Giới thiệu một số khái niệm về phương pháp và phương pháp tuyên truyền

Hồ Chí Minh.
Phần II: Nội dung và hình thức của phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết Hồ Chí
Minh.
Phần III: Vận dung phương pháp của Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện
nay.
Là một sinh viên, với thời gian nghiên cứu ngắn và khả năng diễn đạt còn hạn chế
cho nên trong quá trình thực hiện đề tài (Nội dung và hình thức) sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của thầy cô giáo để đề tài lần sau
được thực hiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP, TUYÊN TRUYỀN
1. Khái niệm phương pháp.
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp-methodos, có nghĩa là con
đường, công cụ nhận thức.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: phương pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến
hành một hoạt động có mục đích. Chẳng hạn, phương pháp học tập, phương pháp nghiên
cứu khoa học, phương pháp tuyên truyền …
Trong triết học, có hai cách hiểu đối lập nhau về phương pháp. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng cho rằng, phương pháp là hệ thống nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về
các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn có mục
đích của con người. Trong khi đó, chủ nghĩa duy tâm coi phương pháp là những quy tắc
độc quyền lý trí con người tự đặt ra để tiện cho nhận thức và hành động.
Thực chất, phương pháp là kết quả nhận thức của con người về hiện thực khách
quan, trên cơ sở đó rút ra những nguyên tắc, yêu cầu để định hướng nhận thức và hành
động của con người sau đó có hiệu quả hơn. Như vậy, phương pháp có tính khách quan,
mặc dù có được con người nhận thức và sử dụng như công cụ nhằm thực hiện mục đích.
Căn cứ vào những mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng của phương pháp, người ta phân
thành phương pháp riêng (áp dụng cho từng ngành khoa học), phương pháp chung(áp dụng

cho nhiều ngành khoa học), và phương pháp phổ biến(áp dụng cho mọi, lĩnh vực kho học
và công tác thực tiễn).
Phương pháp có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của con người. Ph.Bêcơnnhà triết học duy vật người Anh coi phương pháp như ngọn đuốc soi đường cho con người
đi trong đêm tối, và theo ông: “Nếu có phương pháp đúng thì người thọt chân có thể đi
nhanh hơn người bình thường”. Hêghen- nhà triết học duy tâm khách quan người Đức cho
rằng, phương pháp là “linh hồn” của của đối tượng, nếu nắm bắt được “linh hồn” đó thì
chắc chắn hoạt động nhận thức của con người và cải tạo đối tượng sẽ có hiệu quả cao.
Từ những cách nghĩ trên có thể rút kết luận: Phương pháp là tổng hợp các phương
tiện, thao tác, cách thức, quy trình và tính chất là một hệ thống mà con người dùng để nhận
thức hoặc cải tạo thế giới nhằm đạt được những mục đích cụ thể của mình đã định.
2. Khái niệm tuyên truyền
Thuật ngữ tuyên truyền được nhiều nhà khoa học giải thích khác nhau. Theo một số
tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền xuất hiện khoảng hơn 400 năm trước đây, được
nhà thờ La Mã sử dụng để chỉ các hoạt động của các nhà truyền giáo nhằm thuyết phục, lôi
kéo những người khác phấn đấu theo đức tin của đạo Ki tô. Sau này thuật ngữ tuyên truyền


được sử dụng để biểu đạt các hoạt động nhằm tác động đến suy nghĩ, tư tưởng của người
khác và định hướng hành động của họ theo một khuynh hướng nhất định.
Theo từ điển Bách khoa Liên Xô, thuật ngữ tuyên truyền có nguồn gốc từ tiếng La
tinh (propaganda- nghĩa là tryền đạt, truyền bá, phổ biến).
Từ điển chính trị lại cho rằng tuyên truyền là: “giải thích, phổ biến một tư tưởng
học thuyết, lý luận chính trị nhất định nào đó” 1. Theo từ điển tiếng Việt, tuyên truyền là
phổ biến một chủ trương, một học thuyết, để làm chuyển biến thái độ của quần chúng hoạt
động theo một đường lối và nhằm một mục đích nhất hoặc tuyên truyền giải thích rộng rãi
để thuyết phục, vận động mọi cá nhân làm theo.
Trong cuốn nguyên lý công tác tư tưởng, các tác giả lại cho rằng: “Tuyên truyền là
một hình thái của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược,
sách lược của giai cấp trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp
với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, bồi dưỡng tình cảm, củng cố niềm tin và tập hợp, cổ vũ

quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó”2.
Khi bàn về người tuyên truyền và cách tuyên truyền, Hồ Chí Minh cho rằng:
“Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm”3.
Tuy có nhiều cách lý giải khác nhau về thuật ngữ tuyên truyền, nhưng với những
đặc điểm chung nhất chúng ta có thể rút ra kết luận: “Tuyên truyền là phổ biến, giải thích
một tư tưởng, một học thuyết, một quan điểm nào đó, nhằm hình thành hoặc củng cố ở đối
tượng tuyên truyền một thế giới quan, nhân sinh quan, một lý tưởng, một lối sống… thông
qua đó mà ảnh hưởng tới thái độ tích cực của con người trong thực tiễn xã hội.
3.Khái niệm phương pháp tuyên truyền
Từ cách lý giải nêu trên đồng thời căn cứ vào khái niệm phương pháp và khái niệm
tuyên truyền, chúng ta có thể rút ra được kết luận về phương pháp tuyên truyền như sau:
Phương pháp tuyên truyền là tổng hợp các phương tiện, thao tác, cách thức, quy
trình mà chủ thể sử dụng để cung cấp cho đối tượng những thông tin nhất định nhằm củng
cố, bổ sung hoặc xây dựng ở họ một thế giới quan, nhân sinh quan mới hay nhận thức mới
về tự nhiên hoặc xã hội, thông qua đó tác động mạnh mẽ đến nhận thức, thái độ và hiệu
quả hành động thực tiễn của họ trong đời sống xã hội.
Trong hoạt động tuyên truyền, chủ thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để
tác động đến đối tượng. Tuy nhiên, mỗi phương pháp tuyên truyền có đặc điểm riêng, có
vai trò nhất định, có sự tác động khác nhau đối với quá trình nhận thức của đối tượng. Vì
1

Từ điển chính trị, NXB Sự thật, Hà Nội,1962,tr793.
Lương Khắc Hiếu (chủ biên) Nghuên lý công tác tư tưởng,NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998, t1,tr38,39.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập,NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002,t5,tr162.
2


vậy, việc phân loại phương pháp tuyên truyền có thể theo nhiều cách khác nhau. Nhưng
cách phân loại phương pháp tuyên truyền được nhiều nhà khoa học chấp nhận hơn cả là

phân chia theo 3 nhóm cơ bản.
- Nhóm các phương pháp dùng lời nói trực tiếp( độc thoại và đối thoại)
- Nhóm các phương pháp trực quan, bao gồm việc sử dụng các phương tiện tượng
trưng.(tranh cổ động, biếm hoạ, tờ rơi, biểu ngữ…)
- Nhóm các phương pháp các phương tiện kỹ thuật làm khâu trung gian( sách, báo,
băng, đĩa, truyền thanh…)
II. PHƯƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC TRONG TƯ TƯỞNG
ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng rất coi trọng vai trò và phương
pháp trong hoạt động cách mạng, trong đó có công tác tuyên truyền.Thực tiễn đã chứng
minh rằng, khi đã xác định đúng mục đích thì phương pháp trở thành nhân tố góp phần
quyết định chất lượng, hiệu quả công tác này.
Công tác tuyên truyền là hoạt động có mục đích của giai cấp, chính đảng nhằm xây
dựng, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, động
viên, cổ vũ tính tích cực xã hội của họ trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ. Muốn đạt
được mục đích đó, phải sử dụng hệ thống công cụ và cách thức tác động phù hợp
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh không cứng nhắc, không “nhất thành bất
biến” mà linh động, phát triển, thích ứng với sư vận động, biến đổi của thực tiễn khách
quan.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trước hết phải có phương pháp tuyên
truyền, giáo dục, vận động quần chúng thật sự khoa học để mọi người tự nhận thức được
sự cần thiết phải tập hợp lại, từ đó tự giác tham gia công tác cách mạng.
1.Nội dung phương pháp tuyên truyền, giáo dục trong tư tưởng đại đoàn kết
Hồ Chí Minh
Tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng thật sự là một khoa học, nghệ thuật
cách mạng, đòi hỏi các tổ chức cách mạng, các cán bộ cách mạng phải phấn đấu để thực
hiện có hiệu quả. Để thức tỉnh mọi người, đưa họ xích lại gần nhau và đoàn kết thành một
khối, điều quan trọng hàng đầu là nội dung tuyên truyền, giáo dục và vận động phải phản
ánh đúng nguyện vọng sâu xa và những quyền lợi bản nhất của dân chúng. Ở đây có những
quyền lợi chung, nguyện vọng chung có thể gắn kết tất cả các cộng đồng trong dân tộc, có

những nguyện vọng quyền lợi riêng phù hợp với từng giai cấp, từng cộng đồng xã hội cụ
thể. Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận dộng quần chúng phải đáp ứng cả hai yêu cầu


đó. Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc vấn đề này và đã thí nghiệm thành công việc xác
định nội dung tuyên truyền giáo dục quần chúng.
a.Xác định những nội dung chung nhất trong từng giai đoạn cách mạng.
Trong suốt cuộc đời của mình vấn đề đại đoàn kết là vấn đề xuyên suốt trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tuỳ theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng,
Hồ Chí Minh đã đưa vào cương lĩnh cách mạng của Đảng những mục tiêu chiến lược phản
ánh đúng những đòi hỏi cấp bách của lịch sử, những khát vọng cháy bỏng của nhân dân.
Những năm tháng chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, mục tiêu
chiến lược cũng là nội dung tuyên truyền, giáo dục, khẩu hiệu hành động của Hồ Chí Minh
là “ độc lập dân tộc, người cày có ruộng”, là dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
quyết giành cho được độc lập tự do”. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp xâm lược Người nhấn mạnh: “ Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Thời chống Mỹ,
cứu nước, Người nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trong sự nghiệp xây dựng
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Người nêu cao mục tiêu: “ xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc và ai cũng
được học hành”… Đó chính là những nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động thấm sâu
vào lòng người, có sức lay động, cuốn hút, tập hợp lớn lao.
Nhận xét về Hồ Chí Minh, một tờ báo nước ngoài đã viết: “Cụ Hồ là một con người
biết nói lên tiếng nói cần nói vào mõi giai đoạn lịch sử để động viên nghị lực, tập hợp lực
lượng, kích thích chủ nghĩa anh hùng và khen ngợi sáng kiến(…) Người là hiện thân ý chí
bất khuất của cả một dân tộc không bao giờ cam chịu nô lệ”.
Không chỉ độc đáo, sáng tạo trong việc xác định những nội dung tuyên truyền, giáo
dục chung nhất, phù hợp với tâm lý, nguyện vọng chung nhất của cộng đồng dân tộc, Hồ
Chí Minh còn hết sức nhạy cảm, sáng suốt trong việc chỉ ra những nội dung tuyên truyền
giáo dục, vận động sát hợp với từng giai cấp, với từng cộng đồng xã hội.
b. Đại đoàn kết với các giai cấp nông dân, công nhân và tầng lớp trí thức

Hồ Chí Minh phân tích vai trò của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức trong cách
mạng nước ta. Công nhân chế nhiều vũ khí, dụng cụ, sản phẩm để đánh giặc và cung cấp
cho nhân dân. Nông dân là người trồng lúa, lương thực, bông…để quân, dân đủ ăn, đủ
mặc, đủ dùng. Binh giết nhiều giặc, cướp nhiều đồn, đoạt nhiều vũ khí. Sỹ là những nhà
chuyên môn phát minh và sáng chế. Thương mở mang việc buôn bán phát triển kinh tế…
Người cho rằng ở nước ta, bất kì già, trẻ, gái, trai, sĩ, nông, công, thương, binh, toàn dân
đều đoàn kết thành một khối .


Trong khối đoàn kết ấy với giai cấp nông dân, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề
ruộng đất, vấn đề chống sưu cao, thuế nặng, đến khát vọng dân chủ và truyền thống tình
làng nghĩa xóm. Người luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh to lớn của nông dân trong trận
tuyến cách mạng .Nông dân thì xác định:
Ruộng rẫy là chiến trường,
Cuốc cày là vũ khí,
Nhà nông là chiến sỹ.
Nông dân là lực lượng đông đảo làm nên thắng lợi của phong trào XôViết - Nghệ
Tĩnh, thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên của nước ta, nông dân cũng là lực lượng
đóng góp không nhỏ vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và thắng lợi của chiến dịch
Điện Biên Phủ.
Với giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nỗi cơ cực của người lao
động làm thuê dưới chế độ thực dân, vai trò, trách nhiệm lãnh đạo cách mạng và người làm
chủ chế độ mới, làm chủ xí nghiệp; sự cần thiết phải cải tạo để vươn lên đảm đương vai trò
tiên phong; sự cần thiết phải liên minh với nông dân và nêu gương sáng cho toàn xã hội.
Với tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, Hồ Chí Minh biểu thị sự trân trọng đối với quyền
tự do sáng tạo, đồng thời luôn căn dặn, nhắc nhủ ý thức trách nhiệm với dân với nước và
tình cảm đối với công nhân, nông dân, nhân dân lao động, sự gắn bó biện chứng giữa lý
luận với thực tiễn, khoa học với đời sống, văn học - nghệ thuật với cuộc đời.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, ta đoàn kết nội bộ công nhân, nông dân, đồng thời củng cố
khối đoàn kết dân tộc công - nông - trí. Đoàn kết từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, cán

bộ cũ và mới, đảng viên cũ và mới, đoàn kết lương giáo. Chúng ta nắm vững đường lối,
chính sách của Đảng, luôn tin tưởng đoàn kết phấn đấu thì khó khăn mấy cũng vượt qua.
Trong lời chúc năm 1918 Người nêu rõ: “phát triển kinh tế, văn hoá tức là dần dần xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức
tạp, gian khổ và lâu dài. Nhân dân ta hãy đoàn kết chặt chẽ dựa trên nền tảng liên minh
công nông, bền bỉ phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, thì chúng ta nhất
định thắng lợi”.
Tổng kết thực tiễn trong bài 30 năm hoạt động của Đảng (1960), Hồ Chí Minh rút
ra kết luận quan trọng phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin: “trong điều kiện một nước nông
nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân, do giai cấp
công nhân lãnh đạo và chính quyền nhân dân thực chất là chính quyền công nông”. Người
nhiều lần khẳng định thực hiện được liên minh công nông là đảm bảo vững chắc nhất
những thắng lợi của cách mạng.


c. Đoàn kết các gia đình có công với nước, các tôn giáo, các dân tộc, các tầng lớp
trong xã hội
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta phải biết kính trọng và đền đáp công ơn
những thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với nước. Họ là những người “quyết hy sinh
tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để
bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào..” Người kêu gọi, tay chân tàn phế của thương
binh sẽ không mọc lại được. Những tử sĩ không thể tái sinh. Mà lòng bác ái của đồng bào
không có giới hạn. Vậy đồng bào trước nay đã giúp đỡ nhiều, sau này sẽ sẵn sàng giúp đỡ
mãi. Người nhấn mạnh, gia đình liệt sỹ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân.
Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ.
Với cộng đồng các tôn giáo, Hồ Chí Minh luôn chủ trương tự do tính ngưỡng và
phương châm tốt đạo đẹp đời. Người trân trọng và đề cao những giá trị nhân bản trong các
giáo lý nguyên sơ “ Nếu như phật Thích ca, chúa Giêsu, C. Mác, Tôn Dật Tiên sống cùng
thời thì chắc chắn các ông sẽ là bạn tốt của nhau, vì các ông đều có mong muốn giải
phóng cho con người”. Đối với đồng bào có đạo, Hồ Chí Minh có quan điểm rõ ràng, đề

nghị chính phủ tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết. Người chỉ rõ, đồng bào cả
nước, giáo và lương đều đoàn kết chặt chẽ, cương quyết giữ vững quyền tự do, độc lập.
Người phân tích, từ ngày nước ta trở nên dân chủ cộng hoà, Hiến pháp ta tôn trọng tự do
tín ngưỡng, thì Phật giáo cũng phát triển một cách thuận tiện. Thế là, nước có độc lập, thì
đạo Phật mới dễ mở mang… Đồng bào ta đại đoàn kết đoàn kết hi sinh của cải xương máu,
kháng chiến đến cùng để đánh tan thực dân phản động để cứu dân ta khỏi khổ nạn, để giữ
nguyên thống nhất độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của
Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ. Người kết luận
vấn để tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
của mỗi người.
Với đồng bào các dân tộc ít người , Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tuyên truyền,
giáo dục ý thức bình đẳng, sự cần thiết phải xoá bỏ các thành kiến dân tôc; chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần; khắc phục các tập tục lạc hậu… từng bước đưa đồng bào các dân
tộc thoát khỏi đói nghèo tăm tối, tiến kịp các dân tộc miền xuôi. Người nói, nước ta có
nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống từ nghìn đời nay. Trong thư gửi đại hội các dân tộc
thiểu số miền Nam tại Plâycu ngày 14-09-1946, Người khẳng định đồng bào Kinh hay
Thổ, Giarai hay Êđê, Xê đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, no đói giúp nhau: Giang sơn và
chính phủ là giang sơn và chính phủ của chung chúng ta. Vậy nên tất cả các dân tộc của


chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ chính phủ ta”. Cho nên
chúng ta phải thương yêu nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung. Hồ Chí
Minh chỉ rõ đồng bào dân tộc thiểu số rất hăng hái tham gia kháng chiến nhờ đó chúng ta
đã phá được các chính sách chia rẽ dân tộc của địch. Nhưng có nơi thì một phần do ta chưa
có chính sách rõ rệt, một phần vì cán bộ địa phương kém, cho nên ở đó có một số đồng bào
thiểu số bị địch lợi dụng chống lại ta. Hồ Chí Minh yêu cầu, các cấp cán bộ Đảng, chính
quyền phải thi hành đúng chính sách dân tộc, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ
giữa các dân tộc. Các dân tộc phải xoá bỏ các xích mích do đế quốc, phong kiến gây ra.
Đừng mắc mưu chúng để chúng kích động dân tộc này khinh rẻ dân tộc kia; dân tộc này

oán ghét dân tộc kia nhằm lôi kéo đồng bào chống lại chúng ta, chống lại lợi ích của chính
đồng bào. Biểu hiện niềm tin vào tinh thần yêu nước và phẩm chất tốt đẹp của những
người lao động theo tôn giáo, coi họ là bộ phận hữu cơ trong cộng đồng quốc gia dân tộc;
phân biệt họ với những phần tử phản động đội lốt tôn giáo.
Với thanh niên, Hồ Chí Minh thường khơi gợi tinh thần xung phong, guơng mẫu
“đầu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, giáo dục ý thức trách nhiệm đối với tiền
đồ của dân tộc, sự cần thiết phải rèn luyện đạo đức, tác phong và bản lĩnh cách mạng. Với
thiếu niên, nhi đồng, Người nêu ra “5 điều Bác Hồ dạy” và nhấn mạnh ý nghĩa sống còn
của việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Với phụ nữ, nội dung tuyên truyền giáo dục của Hồ Chí Minh là nam nữ bình
quyền, là khơi dậy và nhân lên phẩm chất cao quý: anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm
đang. Với các cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang cách mạng Hồ Chí Minh chú trọng
giáo dục phẩm chất “trung với Đảng, hiếu với dân”, “trí, dũng, liêm, trung” và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Với cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị cách mạng, Người
luôn luôn căn dặn phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, phải chống chủ nghĩa cá
nhân, phải phấn đấu làm người công bộc tận tụy, trung thành với nhân dân.
Với các quan lại, hoàng tộc, nhân sĩ yêu nước, Hồ Chí Minh biểu thị trân trọng ý
thức dân tộc và tinh thần yêu nước của họ, giúp họ nhận thức sâu sắc mưu đồ thâm độc và
tội ác của đế quốc, phong kiến, hướng họ trở về với nhân dân, với cách mạng. Đối với
những người bị ép buộc hoặc lầm đường lạc lối, Hồ Chí Minh luôn luôn dùng chính sách
khoan hồng, đại độ, giáo dục cảm hóa, khơi dậy trong tâm hồn họ tinh thần của những
người mang dòng máu lạc hồng và mở đường đi họ về với chủ nghĩa dân tộc. Đối với các
tầng lớp xã hội, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, thu phục nhân dân vì mục tiêu chung,
vì nghĩa cả của dân tộc. Người chủ trương làm công tác binh vận, giác ngộ người lầm lỗi,
quay trở lại hàng ngũ ta, phục vụ nhân dân, phụng sự đất nước. Người huy động sự đồng


tâm hiệp lực của các chủ tư sản, chủ đồn điền tiến bộ, những nhân sĩ, trí thức, các chức sắc
tôn giáo, những người đứng đầu dân tộc người Việt Nam ở nước ngoài, nhân dân tiến bộ
trên thế giới… ủng hộ tuyên bố. Người chủ trương lập “tuần lễ vàng”, “hũ gạo tiết

kiệm”… là những biện pháp thiết thực huy động sức dân, đoàn kết mọi người quanh chính
phủ vượt qua khó khăn. Sự đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải một ai,
không thiếu tầng lớp, giai cấp nào, không thiếu những lĩnh vực và việc làm gì để tạo nên
sức mạnh của dân tộc.
d) Đoàn kết dân tộc và cộng đồng thế giới.
Hồ Chí Minh phân tích: không giống như các dân tộc phương Tây, các dân tộc
phương Đông không có những quan hệ và tiếp xúc giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn toàn
không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ
thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau. Cho nên, phải khắc
phục tình trạng đó để tạo lập sự đoàn kết gắn bó, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Người cho rằng
trên đời này dù màu da khác nhau nhưng chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô
sản.
Hồ Chí Minh xác định, cách mệnh Việt Nam cũng là một bộ phận của cách mạng
thế giới. Ai làm cách mạng thế giới đều là đồng chí của Việt Nam. Đã là đồng chí thì sung
sướng, cực khổ đều phải có nhau. Người đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đứng về phía
quân đồng minh chống chủ nghĩa phát xit (1939-1945). Trong lời kêu gọi nhân dịp kỉ niệm
cách mạng tháng Tám và ngày quốc khánh 2-9 năm 1945, Người nhấn mạnh: để giữ gìn
và củng cố hoà bình chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ. Đoàn kết đồng bào toàn quốc… đoàn
kết anh em khơ-me và lao. Đoàn kết với nhân dân châu Á. Đoàn kết với nhân dân Pháp và
nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới”. Đoàn kết quốc tế không chỉ chúng ta tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ của các nước anh em, các dân tộc tiến bộ trên thế giới, mà còn phải tham
gia, thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, bảo vệ hoà bình,
tiến bộ xã hội. Người nhấn mạnh, thấm nhuần tư tưởng của Lênin và coi đó như là một
mệnh lệnh nhắc nhở chúng ta thực hiện khẩu hiệu: “giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại.
Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh sở dĩ có sức mạnh vô địch, sức sống bất diệt,
tên tuổi Hồ Chí Minh sở dĩ trở thành thân thiết, thiêng liêng với dân tộc Việt Nam, với mỗi
gia đình, mỗi con người Việt Nam chính là bởi vì Người - Hồ Chí Minh đã hiểu thấu tất cả,
cảm thông tất cả, phấn đấu và hi sinh vì tất cả những khát vọng, ước mơ sâu lắng nhất của

dân tộc- con người Việt Nam.


Có nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động đúng đắn là xuất phát điểm đặc biệt
quan trọng, song hiệu quả tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng còn tuỳ thuộc vào việc
sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động quần chúng thích hợp với từng đối tượng.
2. Hình thức phương pháp tuyên truyền, giáo dục trong tư tưởng đại đoàn kết
Hồ Chí Minh
a. Hình thức tuyên truyền có hình tượng
Khi truyền bá học thuyết Mác- Lênin và đường lối, chính sách của Đảng. Hồ Chí
Minh đề cập các vấn đề lý luận và trình bày chúng hết sức thực tế, linh hoạt, mềm dẻo sao
cho nhân dân dễ hiểu, dễ nhớ nhất mà Người không bị lệ thuộc vào câu chữ, không gò bó
vào những khái niệm, những phạm trù một cách hình thức. Đặc biệt, Hồ Chí Minh hết sức
tránh khoa ngôn, không cường điệu, khuyếch đại, không dùng từ ngữ to tát. Để diễn đạt
nội dung tuyên truyền phù hợp với trình độ nhận thức của nhân dân, Hồ Chí Minh đã chú
trọng sử dụng cách tuyên truyền hình tượng. Bởi lẽ, cách tuyên truyền này làm cho vấn đề
trừu tượng trở nên cụ thể, hoặc một vấn đề đã cụ thể lại càng cụ thể hơn, vấn đề khó hiểu
sẽ trở thành dễ hiểu. Đây cũng là cách diễn đạt quen thuộc của nhân dân Việt Nam. Theo
Hồ Chí Minh không có cách nào làm cho nhân dân hiểu nhanh nội dung tuyên truyền bằng
cách so sánh giữa các hình tượng này với hình tượng khác. Như vậy, mối quan hệ biện
chứng giữa việc hiểu nhân dân và làm cho nhân dân hiểu, nhớ và hành động theo mục đích
tuyên truyền được thể hiện sinh động trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh.
Người căn dặn cán bộ tuyên truyền: “Đặc điểm rõ nhất trong tư tưởng của dân chúng là
họ hay so sánh… Phải đem cách của nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề ,
mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân” 4. Vì vậy, khi nói, khi viết Hồ Chí Minh thường
cách so sánh ví von để làm cho các khái niệm mới nổi bật. Cụ thể, dễ hình dung hơn bằng
những hình ảnh sinh động. Phương pháp tuyên truyền này phù hợp với đặc điểm quá trình
nhận thức của quần chúng, đa số quần chúng nhân dân lao động ở Việt Nam, trước cách
mạng tháng Tám là mù chữ. Nếu tuyên truyền mà diễn đạt bằng những ngôn từ lý luận cao
siêu , họ sẽ không hiểu được. Căn cứ vào trình độ dân trí cũng như ưu thế của lối tư duy

bằng hình ảnh của người Việt, Hồ Chí Minh thường dùng phương pháp so sánh bằng hình
ảnh để diễn đạt lý luận. Chẳng hạn khi đề cập đến bản chất ăn bám, bóc lột của chủ nghĩa
đế quốc với người lao động ở cả chính quốc và thuộc địa. Hồ Chí Minh đã dung hình ảnh
con đỉa có hai vòi. Người nói: “Chủ nghĩa tư bản là một con đĩa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta đồng
thời phải cắt cả hai cái vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục
4

Hồ Chí Minh toàn tập,NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t5,tr295-298.


hút máu của giai cấp vô sản; con vật kia vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị đứt kia tiếp tục
được mọc ra”5. Với cách diễn giải như thế, Hồ Chí Minh đã diễn đạt một cách dễ hiểu mối
quan hệ giữa cuộc cách mạng của chính quốc với cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa,
qua đó yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chung nhất đó là đoàn kết quốc tế.
Người cho rằng, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tọc có thể làm đổi thay
tất cả, dời non lấp biển. Người dùng những hình ảnh rất cụ thể như “bài ca sợi chỉ”; ca
“hòn đá”… để tuyên truyền giác ngộ cho nhân dân hiểu về sự cần thiết và sức mạnh của
đại đoàn kết dân tộc. Liên kết những sợi chỉ mỏng manh tạo nên sự bền chắc khó có thể
tách rời. Việc vận chuyển hòn đá to, hòn đá nặng, nếu nhiều người biết đồng lòng, đồng
sức, tất yếu sẽ làm được.
b.Hình thức tuyên truyền ở cách diễn đạt ngắn gọn, sâu sắc
Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương mẫu mực trong việc sử dụng hiệu quả các hình
thức tuyên truyền , giáo dục, vận động quần chúng. Người nói viết bao giờ cũng ngắn gọn,
dễ hiểu theo một phong cách độc đáo, vừa trí thức vừa bình dân, vừa sâu sắc, vừa giản dị.
Phong cách ấy thật hiếm thấy ở những lãnh tụ cách mạng khác. Những vấn đề lớn của cách
mạng, của chủ nghĩa Mác- Lênin, của dân tộc và thời đại đã được Người trình bày với một
phong cách riêng, bằng ngôn ngữ thông thường và rất gần gũi với những người lao động
bình thường, với mọi người Việt Nam. Từ rất sớm, trong tác phẩm “Đường cách mạng”
Hồ Chí Minh đã nêu các phương châm tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng như

một tuyên ngôn về việc đưa chủ nghĩa Mác- Lênin, đưa tư tưởng cách mạng tiên tiến của
thời đại vào phong trào yêu nước Việt Nam: nói, viết để ai cũng hiểu được, hiểu được thì
nhớ được, nhớ được thì làm được. Tất cả chỉ tập trung vào hai chữ cách mạng, cách mạng
và cách mạng.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo, bài thơ,
nhiều chuyên luận. Có thể nói tính ngắn gọn nhưng sâu sắc là đặc trưng độc đáo trong
phương pháp tuyên truyền của người. Bởi lẽ, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ điều kiện hoàn cảnh
của đối tượng tuyên truyền, Người nói “hiện nay trình độ của đại đa số đồng bào ta bây
giờ không cho phép đọc dài, điều kiện giấy mực của ta không cho phép viết dài và in dài,
thì giờ của ta, người lính đánh giặc, người dân đi làm, không cho phép xem lâu. Vì vậy
mình viết ngắn chừng nào tốt chừng ấy”6.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về ngắn gọn trong tuyên truyền tức là: “Phải biết gọn
gàng, rõ ràng, vắn tắt”. Nhưng vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đuôi, mà phải có đầu, có
đuôi. Cách viết thế, cách nói cũng thế. Nói phải cho gọn gàng, có đầu có đuôi, có nội
5
6

Hồ Chí Minh toàn tập,NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t1,tr298.
Hồ Chí Minh toàn tập: NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002. Tập 7, tr. 117, 120-121.


dung… Nói ít, nhưng làm cho thấm thía, nói cho chắc chắn thì quần chúng thích hơn. Đặc
biệt do yêu cầu phải viết ngắn gọn, đơn giản để cho nhân dân dễ thuộc, dễ nhớ, Hồ Chí
Minh đã chọn hình thức diễn ca để tóm tắt một cách cô đúc nhất toàn bộ lịch sử nước nhà,
từ ngày dựng nước đến trước ngày 19 tháng 8 năm 1945 chỉ bằng hơn hai trăm câu thơ lục
bát. Khi trình bày lịch sử nước ta, Hồ Chí Minh cũng lựa chọn một kết cấu ngắn gọn, vừa
cho đủ nội dung cần trình bày. Người viết lịch sử những lại khéo trình bày bằng hình thức
thơ lục bát, một thể loại văn học dân gian quen thuộc của quần chúng. Sự kết hợp tài tình
giữa yêu cầu khoa học với yêu cầu nghệ thuật trong phương pháp tuyên truyền nhằm vào
loại đối tượng là 90% dân số sống trong đói nghèo và mù chữ thì nhất thiết ngắn gọn phải

trở thành yêu cầu đầu tiên. Người đã nhiều lần nhắc nhở cán bộ tuyên truyền, nói hay viết
cốt là để giáo dục, giải thích, cổ động để phục vụ quần chúng, tiến hành đại đoàn kết cho
dân tộc. Do vậy, trước khi nói hay viết bao giờ cũng chú ý đến mối quan hệ biện chứng
giữa người nói với người nghe, giữa người viết với người đọc. Có như vậy mới đạt được
hiệu quả cao trong hoạt động tuyên truyền đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Để đạt được yêu cầu ngắn gọn, nhưng chứa đựng nội dung sâu sắc, Hồ Chí Minh đã
đề ra một số quy tắc trong phương pháp tuyên truyền như sau:
Một là, nắm chắc mục đích tuyên truyền, chuẩn bị nội dung chu đáo . Trong hoạt
động tuyên truyền, bao giờ Hồ Chí Minh cũng tự đặt ra và trẳ lời các câu hỏi sau: Tuyên
truyền cho ai? Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền bằng cách nào?
Và Người khẳng định: “Nếu không vậy, thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe,
không muốn cho người ta xem”, Do đó, khi nói cũng như khi viết phải nhằm điểm chính
mà nói, mà viết. Nói, viết ngắn gọn những phải có đầu, có đuôi, không lan man lạc đề, sao
cho ai cũng hiểu được. Để tránh những khuyết điểm đó, Hồ Chí Minh dạy: “phải viết một
dàn bài rõ ràng rồi cứ xem đó mà nói”.
Hai là, chú ý sửa chữa bài viết để loại bỏ từ thừa, ý thừa. Để loại bỏ ý thừa, từ thừa
khi viết, Hồ Chí Minh cho rằng: “Sau khi viết rồi, phải xem đi xem lại ba, bốn lần. Nếu là
một tài liệu quan trọng, phải xem đi xem lại chín, mười lần” bài viết của mình. Khi đọc,
“thấy cái gì thừa, câu nào, chữ nào thừa thì bỏ bớt đi”. Những câu văn gạch đi từ thừa,
chi tiết thừa trở thành những câu ngắn gọn hơn, chính xác hơn nhưng không mất đi giá trị
và ý nghĩa ban đầu. Trình bày vấn đề ngắn gọn là một nét đặc sắc trong phương pháp tuyên
truyền Hồ Chí Minh.
Ba là, diễn đạt nội dung theo văn phong hội thoại. Để bảo đảm tính ngắn gọn trong
phương pháp tuyên truyền, Hồ Chí Minh thường nói, viết theo kiểu văn phong hội thoại.
Đồng thời, Người vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn, sinh động các loại câu: câu hỏi, câu


kể, câu cảm thán, câu mệnh lệnh… Thậm chí, một loại câu cũng được Người sử dụng
trong nhiều trường hợp với những mục đích khác nhau. Chẳng hạn, khi tuyên truyền vận
động quần chúng đứng lên giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã nêu ra hàng loạt câu hỏi

cho các loại đối tượng khác nhau.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rõ tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh về nói ngắn và viết
ngắn. Theo Người không phải cái gì ngắn cũng tốt. Ngắn hay dài phục thuộc vào hoàn
cảnh và đối tượng, tuỳ thuộc vào nội dung và vai trò chủ động của cán bộ tuyên truyền.
Trong phương pháp tuyên truyền của mình, không phải câu nào, vấn đề nào Hồ Chí Minh
cũng tìm cách rút cho ngắn lại. Có trường hợp, khi trình bày, nhiều vấn đề đã được Người
viết cho dài thêm. Chẳng hạn trong bản thảo của Lời kêu gọi toàn quốc khác chiến, Hồ Chí
Minh viết: “Bất kỳ đàn ông đàn bà, bất kỳ người già người trẻ. Hễ là người Việt Nam thề
phải đứng lên đánh thực dân cứu Tổ quốc”. Đây là tư tưởng toàn dân kháng chiến, của
Người. Nhưng nếu chỉ nói toàn dân thì quá chung chung và trừu tượng. Bởi vậy, Người đã
cụ thể hoá tư tưởng này bằng cách viết cho đoạn văn dài thêm. Người viết thêm cụm từ
“không phân chia đảng phái, tôn giáo, dân tộc” sau cụm từ “người già, người trẻ”. Cách
diễn đạt này mới có thể chỉ rõ vấn đề nóng hổi và tầm quan trọng của cuộc kháng chiến
trong khái niệm toàn dân khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra cao hơn hết thảy.
c.Tính đại chúng trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh thể hiện ở cách
diễn đạt giản dị, dễ hiểu.
Niềm khao khát lớn nhất của Hồ Chí Minh khi tìm được lý luận cách mạng mới là
tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đi theo con đường cách mạng vô sản, thực
hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, để cứu nước, giải phóng dân tộc. Nhưng tuyên
truyền như thế nào? Tuyên truyền bằng cách nào? Đây là vấn đề Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm và thường xuyên tìm lời giải đáp. Để trả lợi thoả đáng cho câu hỏi đó, Hồ Chí
Minh cho rằng, tuyên truyền bằng phương pháp nào cũng phải đảm bảo tính giản dị, dễ
hiểu. Các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh: từ Bản án chế độ thực dân pháp đến những lời
kêu gọi, những bức thư động viên thăm hỏi gửi cho các giai tầng, các tôn giáo, đảng phái
khác nhau ở Việt Nam, từ tác phẩm Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Mác- Lênin viết
bằng tiếng Nga đến thơ ca tuyên truyền cách mạng bằng tiếng Việt. Ở đâu, lúc nào Người
cũng sử dụng phương pháp diễn đạt hết sức khoa học, giản dị và dễ hiểu. Những bài nói,
bài viết của Người đi vào khối óc, con tim của quần chúng nhân dân, không chỉ vì tầm cao
tư tưởng và chiều sâu trong trong tình cảm của lời văn mà còn vì đặc trưng giản dị, dễ hiểu
trong phương pháp tuyên truyền. Người cho rằng, tuyên truyền bằng ngôn ngữ nói hay

ngôn ngữ viết thì “mỗi câu, mỗi chữ có một ý nghĩa, một mục đích”. Người tuyên truyền


khi nói ra, khi viết ra “người xem mà không nhớ được, không hiểu được, là viết không
đúng, nhằm không đúng mục đích”7. Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về dễ hiểu là
phải “làm thế nào cho ai cũng hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều
quyết tâm theo lời kêu gọi của mình”8. Muốn cho nhân dân đều tin, đều quyết tâm làm theo
thì đương nhiên cán bộ tuyên truyền phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những ví dụ đơn
giản, thiết thực, dễ hiểu. Tức là, phải nói theo cách nói của quần chúng để cho ai cũng
hiểu, ai cũng nhớ, ai cũng dễ làm theo. Tư tưởng này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mọi
hoạt động tuyên truyền, mọi hoàn cảnh nói và viết của Người. Đồng thời nó cũng trở thành
một đặc trưng chủ đạo trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh. Trong hoạt động
tuyên truyền. Người khuyên cán bộ tuyên truyền phải chú ý cả nội dung và hình thức của
lời văn. Nói đến nội dung của lời văn trong phương pháp tuyên truyền là “tuyên truyền cái
gì”. Là nói đến mối quan hệ giữa lời nói và thực tế, là nói đến mối quan hệ giữa cái phản
ánh. Còn nói đến hình thức thể hiện nội dung của lời văn là nói đến vấn đề “Tuyên truyền
như thế nào”. Trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh, đây không chỉ là vấn đề câu
chữ mà còn là sức truyền cảm, tính thuyết phục của lời văn.
Để đảm bảo yêu cầu tính dễ hiểu và tính đại chúng trong hoạt động tuyên truyền,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ tuyên
truyền phải thực hiện một số quy tắc sau:
Một là, học tập và sử dụng ngôn từ trong cách nói của quần chúng nhân dân. Về
vấn đề này Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chúng ta muốn tuyên truyền quần chúng, phải nói cách
học của quần chúng, mới lọt tai quần chúng… vì cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất
hoạt bát, rất thiết thực, mà rất giản đơn”9.Theo người, muốn học tập cách nói của quần
chúng, phải hiểu quần chúng. Phải liên hệ, đi sâu vào đời sống quần chúng. Có như thế
mới hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, mới nắm được thói quen sử dụng từ ngữ
của quần chúng và mới sử dụng được phương tiện ngôn từ của nhân dân để giúp họ dễ
hiểu, dễ nắm bắt nội dung tuyên truyền.
Hai là, kế thừa có chọn lộc cách nói có vần điệu như ca dao, dân ca, hò vè… của

quần chúng nhân dân. Khi lựa chọn phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết, Hồ Chí Minh
nhận thức rằng quần chúng nhân dân không chỉ là người sáng tạo ra của cải vật chất mà
còn sáng tạo ra tục ngữ, ca dao, dân ca, hò, vè. Tục ngữ, thành ngữ, dân ca, hò, vè… không
chỉ là sản phẩm mà là công cụ nhận thức của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Tục ngữ, ca dao, hò, vè là hình thức đặc biệt trong tư duy của nhân dân, trong
7

Hồ Chí Minh: toàn tập,NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002,t7,tr119.
Hồ Chí Minh: toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t5, tr306.
9
Hồ Chí Minh: toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t5,tr301.
8


đó luôn diễn ra những quá trình, những mối liên hệ giữa tri thức và thực tiễn. Vì vậy, muốn
người dân dễ hiểu, dễ nhớ, dễ truyền miệng nội dung tuyên truyền, phải học tập cách nói
có vần có điệu của họ:
“ Lọ là thân thích ruột rà,
Công nông thế giới đều là anh em”.
Hồ Chí Minh cũng là người Việt Nam đầu tiên sử dụng thành công cách nói đó
trong phương pháp tuyên truyền vận động, giáo dục và tổ chức quần chúng nhân dân thực
hiện chiến lược đại đoàn kết trong đấu tranh cách mạng. Trong các bài nói, bài viết của
mình, Người không chỉ sử dụng cách nói của nhân dân mà còn khéo vận dụng các hình
thức thơ ca truyền thống nhưng mang phong cách hiện đại, để phản ánh nội dung chính trị
trong hoạt động tuyên truyền:
Nước Việt Nam ta là một
Dân tộc Việt Nam ta là một
Dù cho sông cạn đá mòn
Nhân dân Nam, Bắc là con một nhà.
Có thể khẳng định rằng, văn thơ tuyên truyền của Hồ Chí Minh vừa mang nhịp điệu

của dòng văn học dân gian, vừa là vũ khí tuyên truyền sắc bén. Những từ ngữ mà Hồ Chí
Minh thường dùng, những hình ảnh mà Hồ Chí Minh thường khắc hoạ, những vấn đề mà
Hồ Chí Minh thường diễn đạt bao giờ cũng mộc mạc, giản dị, dễ hiểu như lời ăn tiếng nói
của người dân quê Việt Nam. Những vốn cũ của dân tộc, ngôn từ của nhân dân mà Hồ Chí
Minh thường sử dụng bao giờ cũng gạn đục, khơi trong để tạo ra những lời thơ mới, với
phương diện tuyên truyền ngày càng phong phú, thuận tiện hơn và phù hợp với trình độ
chính trị, văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Việc vận dụng thơ ca của Hồ Chí Minh đã
thể hiện tính phong phú, tính đa dạng trong phương pháp tuyên truyền của Người.
Ba là, sử dụng linh hoạt, sáng tạo tục ngữ, thành ngữ trong hoạt động tuyên truyền.
Tục ngữ, thành ngữ đã hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc .
Chúng ta biết tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một khái
niệm, một công lý, một luân lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu
sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng nhưng tự riêng nó không
diễn đạt được một ý trọn vẹn.
Tục ngữ và thành ngữ không chỉ là sản phẩm là công cụ của nhận thức của nhân
dân mà là đặc trưng tư duy kiểu Việt Nam, là đặc điểm ngôn từ và gắn liền với khẩu ngữ
của người Việt. Đồng thời, nó còn vận động trong các loại hình văn học dân gian và phát
huy mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Do đó, khi “học cách nói của quần chúng” để nói


cho “lọt tai quần chúng”, Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy truyền thống quý báu này của
dân tộc.
Người nói: “Hồi bây giờ tư bản và bọn đế quốc chủ nghĩa bác tước(bóc lột) dân
chẳng sót cách gì, chúng lấy tiền dân quay trở lại áp bức dân, chúng nó đã rán sành ra mỡ
lại còn “Lấy gậy thầy đánh lưng thầy””10.Hồ Chí Minh hiểu rõ tục ngữ, thành ngữ mang
tính đại chúng, nội dung súc tích và giàu tính gợi cảm nên việc sử dụng chúng không chỉ
phù hợp với tâm hồn, tình cảm của nhân dân mà còn gợi ra những hình ảnh sinh động và
làm cho lời văn ngắn gọn, dễ hiểu mà giản dị.
Bốn là, hạn chế tới mức thấp nhất dùng từ nước ngoài. Thủa thiếu thời, Hồ Chí
Minh đã học chữ nho, đến năm 21 tuổi Người ra đi tìm đường cứu nước. Ba mươi năm bôn

ba khắp thế giới, Hồ Chí Minh đã sử dụng thành thạo nhiều ngoại ngữ và thổ ngữ khác. Dù
có tiếp thu nhiều nền văn hoá, nhiều ngôn ngữ, Hồ Chí Minh vẫn không quên, không đánh
mất vốn tiếng Việt. Trong phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết, dù bằng tư duy ngôn
ngữ nói hay ngôn ngữ viết, bao giờ Hồ Chí Minh cũng trở về với ngôn ngữ của dân tộc,
dùng tiếng nói của nhân dân để giáo dục thuyết phục nhân dân. Người thường xuyên nhắc
nhở cán bộ tuyên truyền, những người viết sách, viết báo, những người nghệ sỹ và tất cả
các cán bộ đảng viên “ai cũng phải học nói nhất là học nói cho quần chúng hiểu”. Hồ Chí
Minh luôn chú ý giữ gìn trong sáng, làm phong phú thêm vốn tiếng Việt và chỉ dùng từ
nước ngoài khi thật cần thiết. Bởi lẽ Hồ Chí Minh yêu mến, quý trọng và tin tưởng ở khả
năng to lớn của tiếng Việt. Nền văn hoá Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn
hoá, cho nên vốn từ tiếng Việt rất đa dạng, từ thuần Việt; từ Hán - Việt, từ Việt - Pháp. Từ
đó nảy sinh ra quan điểm cho rằng bộ phận từ thuần Việt chỉ được coi là “ nôm na” và chỉ
được sử dụng trong giao tiếp hằng ngày của nhân dân, ít được dùng trong trong văn
chương bác học và trong những sự vụ hành chính quốc gia. Do đó, những người có kiến
thức nho học mắc bệnh “hay nói chữ”. Còn một số ngưòi chịu ảnh hưởng của văn hoá
phương Tây, những người “Tây học” thường có lối hành văn “Tây hoá”. Tức là khi nói,
khi viết thường hay kèm mấy từ “tiếng Tây” để được coi là thức thời, hiện đại. Nhiều
người, trong số hai lớp người trên quan niệm rằng: tiếng Việt nghèo nàn, lạc hậu khó mà
diễn đạt những tư tưởng mới và học thuật khoa học. Nhưng quan điểm của Hồ Chí Minh
về vấn đề này hoàn toàn khác biệt, Người sử dụng tiếng Việt một cách nhuần nhuyễn để
thực hiện chiến lược đại đoàn kết của mình, Người nói: “Đại đoàn kết: Đại đoàn kết tức là
trước hết phải đoàn kết đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết .Nó cũng như cái
10

Hồ Chí Minh: toàn tập,NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t2,tr314.


nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp
nhân dân khác.”11

d. Hình thức kết hợp giữa lời nói và hành động
Khi nghiên cứu phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh. việc tìm kiếm ở các tác
phẩm nói và viết của Người lời kiến giải dù là trực tiếp hay gián tiếp về phương pháp
tuyên truyền mà người đề cập là cần thiết, nhưng không đủ. Bởi lẽ triết lý hành động của
Hồ Chí Minh là triết lý hành động, cuộc đời Hồ Chí Minh là cuộc đời gắn liền với hành
động và hành động một cách chủ động. Ở đây, cần hiểu rằng, lời nói là toàn bộ những bài
nói, bài viết và cũng như những chỉ thị, quyết định của chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạt
động lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng. Thực chất lời nói của người bao gồm nội dung, lý
luận còn hành động của Người là cách thức để quán triệt hoàn thiện nội dung ấy.
Cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn là một tấm gương tiêu biểu, sáng ngời sự kết
hợp giữa lời nói và hành động. Từ việc nhỏ đến việc lớn, bao giờ Hồ Chí Minh cũng xử thế
theo phương châm: óc nghĩ, mắt trông, chân đi, miệng nói, tay làm, tai lắng nghe. Kết hợp
giữa lời nói và hành động trong hoạt động tuyên truyền được Hồ Chí Minh nêu thành quan
điểm rõ ràng. Người chỉ rõ: “miệng nói tay phải làm mới được”12. “không chỉ phải nói
suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc” và “tốt nhất là miệng
nói tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”13. Hồ Chí Minh là người hiểu rằng, sự
kết hợp giữa lời nói với hành động đã trở thành nét đẹp truyền thống , một chuẩn mực hành
vi đạo đức của dân tộc Việt Nam. Nó hoàn toàn mâu thuẫn với nói một đường làm một nẻo
hay nói nhiều mà làm ít, nó lại càng mâu thuẫn với lối nói mà không làm. Vì lẽ đó, khi
tuyên truyền, giáo giục, vận động quần chúng, không những phải học hỏi quần chúng, phải
tôn trọng quần chúng mà tự mình trở thành tấm gương sáng cho người khác noi theo. Để
thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc thì công tác tuyên truyền là vấn đề cực kì
quan trọng, đòi hỏi người cán bộ tuyên truyền phải mẫu mực, nhạy bén, phải luôn nêu cao
tinh thần gương mẫu. Cần tránh những thói ba hoa, lên mặt làm “quan cách mạng”… đó là
những điều tối kị trong sự đoàn kết của dân tộc.
Trong hoạt động tuyên truyền, Hồ Chí Minh thường thực hiện theo phương châm
kết hợp giữa lời nói và hành động, lý luận gắn liền với thực tiễn. Trong nhiều hoàn cảnh,
Người chủ trương nói ít làm nhiều và chỉ nói khi cần thiết. Theo Hồ Chí Minh, nói đúng đã
khó, hành động lại càng khó hơn. Điều quan trọng hơn cả, không chỉ có hành động mà
hành động phải trở thành tấm gương cho quần chúng học tạp. Hiểu sâu sắc hơn tức là, khi

11

Hồ Chí Minh:toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t7, tr438.
Hồ Chí Minh: toàn tập,NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t4,tr102.
13
Hồ Chí Minh: toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t5, tr108
12


đã nói điều gì thì cán bộ cần phải làm ngay, làm trước, thậm chí còn phải làm nhiều hơn,
kiểu mẫu hơn để lôi kéo quần chúng hành động theo.
Hành động của Hồ Chí Minh được biểu hiện cụ thể trong thực tiễn tuyên truyền.
Chẳng hạn, Người tham gia sáng lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari và xuất bản tờ báo
“Người cùng khổ”(Le Paria) làm phương tiện tuyên truyền. Sau một thời gian hoạt động,
Người nhận thức ra phạm vi, quy mô tác động của tờ Le Paria không lớn, không mạnh nên
Người vận động những người yêu nước Việt Nam sáng lập và sản xuất tờ báo L’Annamite.
Sự kết hợp giữa nhận thức và hành động, giữa lý luận với thực tiễn, giữa lời nói với việc
làm trở thành đặc trưng cơ bản của phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh. Khi phát động
phong trào “Mùa đông binh sĩ” Hồ Chí Minh đã viết thư và tự đem tiền lương của mình để
gửi tới Ban quyên góp. Người viết: Uỷ ban Trung ương mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ
chỉ quyên vải vóc hoặc chăn áo. Nhưng tôi không biết may, không có vải, mà áo cũng chỉ
có hai bộ đã cũ. Vậy tôi xin quyên một tháng lương là 1000 đồng gọi là tỏ chút lòng thành.
Mặc dù số tiền của Hồ Chí Minh không nhiều, nhưng đó là những gì của Hồ Chí Minh chứ
không phải lấy từ công quỹ. Đó là tấm lòng yêu thương nhân hậu đối với chiến sĩ của
Người. Những hành động như vậy của Hồ Chí Minh đã in dấu ấn đậm nét trong nhận thức
của nhân dân. Nó trở thành chân lý sống, định hướng, dẫn đường, lôi cuốn cả dân tộc thực
hành lý tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Kết hợp giữa lời nói và hành động của Hồ Chí Minh còn thể hiện trong nhiều lĩnh
vực khác của đời sống xã hội. Chẳng hạn, khi phát động phong trào “Mùa xuân là Tết
trồng cây” thì Hồ Chí Minh đã nhiều năm tham gia trồng cây với nhân dân trong dịp tết.

Khi phát động phong trào “chống hạn cứu lúa” trong hàng loạt bài viết của Hồ Chí Minh
đã toát lên tinh thần khẩn trương, tính chất quyết liệt của việc chống hạn như chống giặc
ngoại xâm. Tuy ít có điều kiện tiếp xúc hoạt động trong sản xuất nông nghiệp, nhưng khi
xuống đồng ruộng, Hồ Chí Minh cũng biết cách sử dụng gầu dây, đạp guồng dẫn nước cứu
lúa, không khác gì bậc “lão nông tri điền” quen việc đồng áng. Hơn nữa, Người còn tháo
dép, xắn quần lội ruộng hướng dẫn bà con nông dân cấy lúa theo kỹ thuật mới. Đi thăm bộ
đội Hải quân, Hồ Chí Minh trực tiếp cầm tay lái không khác gì một thuỷ thủ lão luyện.
Đến với dạ hội thanh niên, Người đứng vào vị trí của người chỉ huy dàn nhạc bắt nhịp hát
bài “kết đoàn”. Những hành động đơn giản đó của Hồ Chí Minh được các tầng lớp nhân
dân hết sức kính yêu và tin tưởng.
Kết hợp giữa lời nói và hành động trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh
còn thể hiện ở chỗ Người luôn quan tâm đến mọi công việc trong đời sống xã hội. Nhất là
những công việc của các ngành, các giới, các địa phương, các cơ sở thông qua các bản báo


cáo và qua hệ thống báo chí hàng ngày. Hồ Chí Minh thường xuyên chú ý theo dõi những
gương người tốt việc tốt trong các ngành, các giới, các lứa tuổi, các tầng lớp nhân dân để
động viên khen thưởng kịp thời. Theo người, phương pháp tuyên truyền giáo dục sẽ mang
lại hiệu quả cao hơn chính là phương pháp dùng những tấm gương trong quần chúng để
tuyên truyền giáo dục quần chúng. Đồng thời lấy gương người tốt việc tốt để hàng ngày
giáo dục lẫn nhau đây cũng là một cách đoàn kết toàn dân tộc.
III. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN,GIÁO DỤC HỒ CHÍ
MINH TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
1. Thực trạng hiện nay của khối đại đoàn kết dân tộc
Gần một thế kỉ qua, cùng với sự phát triển của cách mạng, sức mạnh của toàn thể
dân tộc Việt Nam được thể hiện qua sự đoàn kết của toàn Đảng toàn dân trong công cuộc
đổi mới. Đưa đất nước ta hội nhập vào nền kinh tế của thế giới, phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, từng bước ổn định nề kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa
học, kĩ thuật… Cùng với việc hội nhập thì các thế lực phản động trong và ngoài nước cấu

kết với nhau nhằm chống phá Nhà nước Việt Nam, hòng phá hoại chiến lược đại đoàn kết
của dân tộc ta, chúng thực hiện “diễn biến hoà bình” nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc. Chúng xúi giục các đồng bào dân tộc ít người theo đạo Tin lành tổ chức lên cái gọi là
“Nhà nước Đề ga” nhằm chống lại Nhà nước Việt Nam. Thêm vào đó, trong nền cơ chế thị
trường hiện nay, xu hướng chạy theo đồng tiền đã làm cho không ít cán bộ lãnh đạo chỉ vì
những lợi ích của bản thân, dòng họ… mà bán rẽ lương tâm, gây thiệt hại không nhỏ cho
Đảng, cho Nhà nước, mà thực chất đó là gây thiệt hại trực tiếp cho nhân dân. Những vụ án
mang tính chất ngiêm trọng của những cán bộ cấp cao như: vụ án Chạy quotar do nguyên
thứ trưởng bộ thương mại Mai Văn Dâu, hay vụ án P.Mu 18 rút ruột công trình xây dựng
giao thông cơ bản Bùi Tiến Dũng và Nguyễn Việt Tiến cầm đầu đã gây nên gây thất thoát
cho Nhà nước hàng ngàn tỉ đồng, quan trọng hơn là mất lòng tin ở quần chúng nhân dân,
ảnh hưởng không nhỏ đến khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực tế hiện nay cho thấy, đội ngũ tuyên truyền của ta vẫn còn thể hiện nhiều sự
thiếu sót, thậm chí là yếu kém. Cán bộ làm công tác tuyên truyền mà không hiểu tiếng của
dân tộc ít người cho nên không thể tuyên truyền có hiệu quả, chưa đi sâu vào nghiên cứu
thực tiễn, tình hình của địa phương mà chỉ nhìn nhận qua báo cáo tổng kết từ cấp dưới qua
những bản báo cáo, cho nên những tâm tư nguyện vọng của người dân chưa được biết đến
kịp thời, chưa phát huy được sức mạnh tối đa của toàn thể nhân dân trong việc xây dựng
và phát triển đất nước trong công cuộc đổi mới hiện nay. Vì vậy, để thực hiện được chiến


lược tuyên truyền đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì điều cần thiết đó là phải học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh mà đặc biệt là phương pháp tuyên
truyền đại đoàn kết của Người.
2.Vận dụng phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết trong công cuộc đổi mới
hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền nói chung, về phương pháp tuyên truyền
nói riêng không chỉ có giá trị trong đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn có giá trị bền
vững, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước. Những năm qua, trước những diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, nhờ nắm vững phương pháp cách mạng nhất

là phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Đảng ta đã tuyên truyền, giáo dục,
tổ chức nhân dân phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới đưa đất nước tiếp tục vững bước tiến lên. Chính vì thế mà tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết nói riêng đã và đang làm cho kể thù lo sợ.
Hàng ngày, hàng giờ chúng tìm mọi phương pháp, hình thức tuyên truyền nhằm giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh hòng đẩy chúng ta đi lệch hướng trong quá trình đổi mới. Do vậy
nhiệm vụ của chúng ta là phải tăng cường việc nghiên cứu, phổ biến và tổ chức học tập vận
dụng phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết Hồ Chí Minh để đổi mới phương pháp tuyên
truyền cho cán bộ tư tưởng của Đảng trong nhiệm vụ thực hiện chiến lược đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Thực tế những năm qua, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm và coi đây là chiến lược hàng đầu trong con đường phát triển của Việt
Nam, nó mang ý nghĩa quyết định cho sự hưng thịnh của dân tộc. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng đã lấy chủ đề:
“ Đại hội của trí tuệ- đổi mới, dân chủ - kỉ cương- đoàn kết”
Đại hội đã nêu lên phương châm chỉ đạo là tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết
toàn dân. Tạo môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng và tăng cường quan hệ quốc tế về
chính trị, kinh tế, văn hoá. Thể hiện quyết tâm của Đảng ta trong việc phát huy sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trên cơ sở phát huy
tinh thần đoàn kết của Đại hội VII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp
tục “Phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Hội nghị lần thứ bảy(phần 2) Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IX đã đánh giá
tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ sau Đại hội VI của Đảng, Hội nghị khẳng định
những thành tựu quan trọng đã đạt được trong thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân. Hội


nghị cũng chỉ rõ: trước yêu cầu của thời kì đổi mới, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới. Từ thực tế đó, Hội
nghị đã ra Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết về công tác dân tộc; Nghị quyết
về công tác tôn giáo. Tất cả những Nghị quyết đó đều nhằm một mục đích là khắc phục
yếu kém, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình cách mạng mới, Nghị
quyết nhấn mạnh cần tập trung thực hiện những chủ trương và giải pháp chủ yếu: xây dựng
những chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đổi mới nội dung và
công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc với phương châm: Chân thần, tích cực, thận
trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc và thực hiện tốt công tác dân vận: “Trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”; phân tích rõ tình hình của công tác tôn giáo
cũng như nguyên nhân của những yếu kém trong quá trình thực hiện đường lối, chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết chỉ rõ “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn
giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy sưa mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá …” và một bước phát triển mang đậm tính nhân văn đó là sự nhìn nhận của
Đảng ta đối với người Việt Nam thể hiện sự đoàn kết của toàn thể dân tộc Việt Nam trong
nước cũng như nước ngoài, phát huy toàn diện sức mạnh của cả dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X trên cơ sở phát huy tinh thần đại đoàn kết của
toàn dân tộc, Chỉ thị 06, tháng 3-2006, đã phát động toàn Đảng, toàn dân học tập và làm
theo tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ,
nhân dân cả nước về tác phong đạo đức Hồ Chí Minh, qua đó học tập và làm theo thực
hiện ý nguyện của Người đó là đoàn kết toàn dân tộc vì mục đích “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Điều cần thiết trong điều kiện hiện nay để thực hiện đựơc chiến lược đại đoàn kết
toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải:
- Tăng cường cán bộ đi thực tiễn về cơ sở, nắm chắc phương pháp tuyên truyền Hồ
Chí Minh đó là “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” thể hiện lý luận phải đi đôi với thực tiễn, mới
nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân để có những chính sách phù
hợp, làm tăng thêm niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng với Nhà nước.
- Thực hiện những chính sách kinh tế -xã hội thiết thực nhằm đáp ứng nhu cầu tối
thiểu của quần chúng nhân dân, đồng thời tăng cường kiểm tra giám sát trong các công
trình xây dựng cơ bản, các chính sách kinh tế, thực hiện: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân



kiểm tra”, có đựoc như vậy thì mới thấy rõ những tâm huyết của Đảng đối với sự nghiệp
của quần chúng nhân dân.
- Hoàn thiện từng bước hệ thống pháp luật, làm cho luật pháp thật nghiêm là thước
đo của công lý, xử lý thật đích đáng những kẻ làm phương hại đến lợi ích của nhân dân của
đất nước, chia rẽ đến khối đại đoàn kết của dân tộc.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện đầy đủ phương
pháp tuyên truyền đại đoàn kết của Người (nội dung, hình thức) để phát huy tối đa sức
mạnh của toàn thể dân tộc.
- Tăng cường hợp tác đoàn kết quốc tế, nâng cao vị trí của quốc gia dân tộc trên thế
giới, đồng thời không ngừng ngăn ngừa, đập tan mọi mưu mô chia rẽ sự đoàn kết toàn dân
tộc ta của các thế lực thù địch.

KẾT LUẬN:


Quá trình thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau. Phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết Hồ Chí Minh được hình
thành dựa trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc nhữnh phương pháp tuyên truyền khác
nhau trong lịch sử dân tộc; những phương pháp tuyên truyền trong học thuyết Mác- Lênin;
những phương pháp tuyên truyền của các dân tộc trên thế giới. Các phương pháp đó tác
động, hổ trợ cho nhau cùng kết hợp với kinh nghiệm tuyên truyền trong hoạt động thực
tiễn. Bằng tư chất thông minh, sắc sảo Hồ Chí Minh đã tìm ra cho mình những phương
pháp tuyên truyền mới. Tất nhiên phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh không phải là
phép cộng đơn giản, những phương pháp mà Người tiếp thu được từ nhiều nguồn khác
nhau, mà tất cả được áp dụng vào thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam một cách năng
động, linh hoạt. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra những nét độc đáo, đặc sắc, mang tính
đặc thù làm cho phương pháp tuyên truyền đại đoàn kết của Người không chỉ là khoa học

mà còn là nghệ thuật. Người trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết Việt Nam.
Phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn,
sáng tạo giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong hoạt động tuyên truyền, được Người nhận
thức và vận dụng hợp lý vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó vừa mang tính khoa học,
tính cách mạng. Nó là chìa khoá giúp cho Hồ Chí Minh tìm được con đường chinh phục
mọi đối tượng trong những điều kiện khác nhau, hoàn cảnh khác nhau để xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân lấy công nông làm gốc của cách mạng, phát huy được vai trò sức
mạnh của đội ngũ trí thức và các giai tầng khác trong sự nghiệp kháng chiến chống phong
kiến, đế quốc thực dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích và chỉ ra những đặc trưng cơ bản của phương
pháp tuyên truyền đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một đòi hỏi mang tính khách quan, nhất là
trong điều kiện hiện nay của nước ta. Đây chính là cơ sở lý luận, đồng thời cũng là nội
dung cơ bản để vận dụng trong chiến lược đại đoàn kết của dân tộc ta trong giai đoạn hiện
nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh, TS Hoàng Quốc
Bảo, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2006.


×