Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận Mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.89 KB, 20 trang )

A.Đặt vấn đề
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới, với những
hình thức rất đa dạng. Tính đa dạng của mâu thuẫn là do tính đa dạng của các
mối liên hệ trong sự vận động và phát triển của thế giới vật chất quy định. Mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên muốn thúc đẩy sự vật phát
triển phải nhận thức và giải quyết mâu thuẫn của sự vật.
Trong hoạt động kinh tế hiện tợng đó cũng mang tính phổ biến, đa dạng
nh mâu thuẫn cung cầu; giữa tích luỹ và tiêu dùng; giữa tính kế hoạch hoá của
từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá...
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật sinh ra cho đến khi sự vật kết thúc sự tồn
tại của mình. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn tồn tại không chỉ có một mà còn có
nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn này mất đi mâu thuẫn khác lại hình thành.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nớc do đảng ta khởi xớng và lãnh đạo đã
giàng đợc nhiều thắng lợi bớc đầu có tính quyết định trong việc chuyển biến nền
kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý
của nhà nớc theo địng hớng XHCN. Trong sự chuyển biến đó bên cạnh những
thành tựu đã đạt đợc cũng nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế và công cuộc đổi mới. Những mâu thuẫn đó đòi hỏi cần đợc tìm
hiểu và có biện pháp khắc phục hợp lý, nếu giải quyết tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy
nền kinh tế tăng trởng.
Xuất phát từ mong muốn tìm hiểu thêm về những vấn đề của nền kinh tế,
những vớng mắc, cũng nh những đề xuất khắc phục những vớng mắc đó trong sự
nghiệp đổi mới nền kinh tế nớc ta nên tôi đã chọn vấn đề: Mâu thuẫn trong nền
kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở nớc ta hiện nay làm đề tài cho tiểu luận
môn triết học Mác - Lênin.


B.Nội dung
Chơng I
Cơ sở lý luận về mâu thuẫn
Mỗi sự vật mỗi hiện tợng đang tồn tại trong thế giới đều là một thể thống


nhất, đợc tạo thành từ vô số các mặt, các khuynh hớng, các thuộc tính có xu hớng
vận động ngợc chiều nhau, đối lập nhau tạo thành các mâu thuẫn tồn tại trong sự
vật, hiện tợng.
1.Quan niệm của triết học Mác Lênin về mâu thuẫn
Mâu thuẫn là hiện tợng khách quan và phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn là
sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Mặt đối lập là những
thuộc tính có khuynh hớng vận động ngợc chiều nhau, tồn tại khách quan cùng
một sự vật hiện tợng.
Ví dụ: Đồng hoá mâu thuẫn với dị hoá.
Mâu thuẫn là một hiện tợng khách quan, nghĩa là mâu thuẫn là cái vốn có
ở mọi sự vật, hiện tợng. Nó hình thành có cấu trúc tự thân bên trong của sự vật.
Mâu thuẫn phổ biến là mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực nh tự nhiên, xã
hội...Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi kết thúc, mâu thuẫn
tồn tại ở trong mọi không gian và thời gian, ở mọi giai đoạn phát triển của sự vật.
2. Các mặt đối lập trong một thể thống nhất vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau.
2.1.Sự thống nhất của các mặt đối lập.
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm về mặt đối lập là sự khái quát
các thuộc tính, khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, tồn tại trong cùng một
sự vật, hiện tợng và tạo nên sự vật, hiện tợng đó. Do đó cần phải phân biệt rằng
bất kì hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong sự vật, hiện tợng của thế giới khách quan không chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Trong cùng một
thời điểm ở mỗi sự vật, hiện tợng có thể tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ có những
mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nh một chỉnh thể, nhng có
khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn
nhau. Sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc, động lực đồng thời quy định bản
chất, khuynh hớng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập nh vậy mới gọi là hai
mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất của các mặt đối lập là nong tựa
vào nhau, là điều kiện tồn tại của nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập



chính tạo thành sự vật thì không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy, sự thống nhất
của các mặt đối lập là một điều kiện không thể thiếu đợc cho sự tồn tại của bất kỳ
một sự vật,hiện tợng nào. Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng có của
bản thân sự vật tạo nên.
Ví dụ: Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trờng(KTTT) là
điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt
Nam, hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau về bản chất và những biểu hiện của nó
nhng nó lại hết sức quan trọng. Vì nó là sự thống nhất tạo nên quá trình đổi mới
kinh tế ở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này nền KTTT ở Việt Nam không thể
tồn tại với ý nghĩa là chính nó .
Một ví dụ khác: Lực lợng sản xuất - Quan hệ sản xuất trong phơng thức sản xuất:
Khi lực lợng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển.
Hai mặt này chính là điều kiện, tiền đề cho sự phát triển của phơng thức sản xuất.
Lực lợng sản xuất là yếu tố động, luôn vận động theo hớng hoàn thiện.
Quan hệ sản xuất phải vận động theo để phù hợp với sự vận động đó của lực lợng
sản xuất, tạo động lực phát triển lực lợng sản xuất và có tác dụng thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
Tuy nhiên khái niệm thông nhất đó chỉ mang tính tơng đối, bản thân khái
niệm đã nói lên tính tơng đối của nó: thống nhất của cái đối lập trong thống nhất
đã bao hàm trong nó sự đối lập.
2.2.Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự
đấu tranh, chuyển giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập tồn tại trong cùng một sự
vật thống nhất nh một chỉnh thể trọn vẹn nhng không nằm yên bên nhau mà điều
chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự
đấu tranh, chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế khách
quan đợc thể hiện rất phong phú và đa dạng.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có mâu thuẫn đối
kháng, mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiến tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu,
kìm hãm diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã

hội bằng nhiều hình thức kể cả bằng bạo lực mới có thể giải quyết các mâu thuẫn
một cách hợp lý.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập đợc diễn ra trong nhiều giai đoạn khác
nhau. Thông thờng khi mới xuất hiện mặt đối lập cha thể hiện rõ sự xung khắc
gay gắt, ngời ta gọi đó là giai khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ giai khác


nhau nào cũng gọi là mâu thuẫn, chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một
sự vật, hiện tợng liên hữu cơ với nhau, phát triển ngợc chiều nhau tạo thành động
lực bên trong của sự phát triển, khi hai mặt ấy mới hình thành bớc đầu của mâu
thuẫn. Khi hai mặt của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt nó
biến thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá
lẫn nhau sự vật cũ mất đi, sự vật mới xuất hiện. Sau khi mâu thuẫn đợc giải quyết
sự thống nhất cuả hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển
hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật mới hơn xuất hiện với
trình độ cao hơn. Cứ nh thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến
đổi không ngừng từ thấp đến cao. Chính vì vậy Lênin khẳng định Sự phát triển
là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Khi bàn về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Lênin
đã chỉ ra rằng: Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa
nó là chính nó nhờ có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết
đợc sự vật, hiện tợng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự
thống nhất chỉ là tơng đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt
đối. Nó diễn ra thờng xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể
cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng nh khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của
các mặt đối lập là có điều kiện thoáng qua tạm thời tơng đối. Sự đấu tranh của
các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng nh sự phát triển, sự vận động là
tuyệt đối.
2.3.Sự chuyển hóa của các mặt đối lập .
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển

hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh giữa các mặt đối lập phát triển đến một mức
độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới chuyển hoá, bài trừ và phủ định
lẫn nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thờng xuyên diễn
ra một cách tự phát, còn trong xã hội sự chuyển hoá của các mặt đối lập nhất
thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con ngời. Chuyển hoá các
mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật cũ mất đi sự vật mới ra
đời đó chính là quá trình diễn biến phức tạp với nhiều hình thức phong phú. Do
đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán vị
đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thờng thì mâu thuẫn chuyển hoá
theo hai phơng thức:
Phơng thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia
nhng ở trình độ cao hơn xét về mặt phơng diện chất của sự vật.


Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh
chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới đó là quan hệ sản xuất
t bản chủ nghĩa và lực lợng sản xuất mới cao hơn về trình độ.
Phơng thức thứ hai: Có hai mặt chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai
mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nớc.
Từ mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiên thực, bất kì sự vật hiện tợng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những khuynh hớng phát
triển ngợc chiều nhau. Sự đấu tranh, chuyển hóa của các mặt đối lập trong những
điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tơng khách quan phổ
biến của thế giới, mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật cũ mất đi sự vật mới hình
thành, sự vật mới nảy sinh những mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập
này đấu tranh, chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới
hơn. Cứ nh vậy mà các sự vật, hiện tợng trong thế giới khách quan thờng xuyên
biến đổi và phát triển không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc động

lực của mọi quá trình phát triển.

Chơng II.


Mâu thuẫn biện chứng xây dựng nền kinh tế thị trờng
theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trớc khi nghiên cứu tìm hiểu về mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chúng ta cần tìm hiểu về kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, về sự vận hành cơ chế thị trờng ở Việt Nam
cũng nh thực trạng của nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
1. Về kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN và kinh tế thị trờng định hớng
XHCN ở Việt Nam.
1.1.Kinh tế thị trờng định hớng XHCN
Những thành tựu hơn 10 năm đổi mới đã giúp chúng ta hinh dung rõ hơn
thế nào là kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN. Mặt khác cuộc khủng hoảng
tiền tệ nổ ra 1997 lan sang năm 1998 ra các châu lục đã cho ta một so sánh đối
lập thế nào là kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa. Chính những ngời trong cuộc đã
tự định nghĩa kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa, nh Bộ trởng tài chính Nhật đã nói:
Khủng hoảng tiền tệ là khủng hoảng kinh tế chu kỳ của chủ nghĩa t bản tại
diễn đàn kinh tế thế giới Đavos- Thụy Sĩ.
Trên báo chí thế giới đã xuất hiện nhiều bài báo nhắc đến cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới năm1929-1932 và cảnh báo nhiêu dấu hiệu cho thấy nếu
không sửa chữa sai lầm, thế giới t bản có thể quay trở về thời kỳ vô chính phủ của
các thế kỷ trớc và ba thập niên đầu của thế kỷ XX. Điều đó có nghĩa các nhà kinh
tế đã thấy lại hai khuyết tật của chủ nghĩa t bản mà J.M.Keynes nhà cách mạng
trong kinh tế học, đã nêu lên là khủng hoảng kinh tế chu kỳ thất nghiệp. Và hạ lãi
suất liên tiếp ba lần ở Mỹ từ 5,5% xuống 4,75% chứng tỏ các nhà quản lý kinh tế
vĩ mô sau hai thập kỉ sợ hãi lạm phát và xa rời học thuyết của Keynes đã quay trở

về dùng học thuyết này để chữa chạy hai khuyết tật lớn của chủ nghĩa t bản đang
có nguy cơ tái diễn nh năm 1929-1932.
Từ khủng hoảng kinh tế Đông Nam á năm 1997 lan rộng ra các châu lục
khác cho ta thấy một khuyết tật thứ ba của chủ nghĩa t bản: đó là sự dung túng
cho đầu cơ ở thị trờng chứng khoán phát triển ngày càng nguy hiểm. Những công
cụ tài chính mới phát minh ở Mỹ vào cuối thập niên 70 các quyền chọn lựa các
hợp đồng tơng lai đã đợc các quỹ đạo đầu cơ dùng để lũng đoạn thị trờng tiền tệ
và thị trờng chứng khoán của các nớc Châu á giết chết một con hổ Châu á.
Điều may mắn cho loài ngời là quỹ đầu cơ quản lý vốn dài hạn (LTCM
Long Terme Capital Mangenient) bị đổ bể và chính phủ Mỹ phải cứu trợ thiệt hại


110 tỷ USD (lớn hơn cả thiệt hại của tất cả các thiên tai trên thế giới đợc ớc tính
là 90 tỷ USD) đã vạch rõ các tai hại của đầu cơ tài chính tiền tệ. Quỹ bảo vệ giá
đã lợi dụng sai lầm về chính sách của nớc chủ nhà phá giá đồng tiền của bao nớc
đẩy họ vào vòng khủng hoảng tiền tệ. Nhng hành động phá hoại ghê gớm của các
quỹ này lại đợc luật chứng khoán Mỹ bao che và nhiều nớc khác vô tình du nhập
luật chứng khoán Mỹ, cũng coi là hợp pháp. Vì thế có thể coi khuyết tật thứ ba
của Chủ Nghĩa T Bản đợc che dấu kỹ tới mức ngay ở nớc ta, dù nghị định
18/1998NĐ - CP ngày 17-11-1998 về chứng khoán và thị trờng chứng khoán đã
cấm bán khống để ngăn chặn ngay từ đầu kiểu đầu cơ bao cấp và cực kỳ nguy
hiểm này, mà khá đông nhà tài chính học đã không ngới lời ca ngợi đầu cơ chứng
khoán bằng cách lặp lại theo kiểu: Đầu cơ là u thế của thị trờng chứng khoán.
Một số còn đi xa hơn, định nghĩa bán khống là bán non để che dấu bản chất đầu
cơ tàn bạo của nó.
Nhìn rõ ba khuyết tật lớn đó của chủ nghĩa t bản chúng ta, chúng ta có thể
định nghĩa cụ thể hơn kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN.
Trớc hết đó là một nền kinh tế đợc loại bỏ những khuyết tật nói trên.
Khuyết tật khủng hoảng kinh tế chu kỳ đã đợc học thuyết Keynes chữa trị căn
bản để chỉ còn là những cuộc suy thoái chu kỳ nhẹ hơn nhiều. Nếu nh khủng

hoảng kinh tế năm 1929-1932 đã làm tốc độ tăng trởng kinh tế toàn cầu trở thành
30% thì suy thoái chỉ tác hại tới mức 1% cao nhất là -5,5% trớc cuộc khủng
hoảng tiền tệ năm 1997. Cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông á đã làm thành tựu kinh
tế 10-30 năm của các nớc này bị xoá sạch trong vài tháng đã là dấu hiệu của sự
quay trở lại cuộc khủng hoảng năm 1929 của kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa.
Nh vậy chúng ta có thể tin rằng hai khuyết tật: khủng hoảng chu kỳ và đầu
cơ tài chính có thể khắc phục đợc sớm. Còn khuyết tật thất nghiệp thì phải chờ
sau khi công nghiệp hoá hiện đại hoá làm của cải vật chất tuôn trào, đủ sức đảm
bảo những nhu cầu cần thiết của con ngời, chúng ta mới có thể tìm ra cách chữa
trị tận gốc. Điều thuận lợi cho chúng ta trên con đờng xoá bỏ các khuyết tật của
chủ nghĩa t bản là chính chủ nghĩa t bản cũng dần dần nhận ra những khuyết tật
này và tự điều chỉnh để tồn tại.
Thứ hai, kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa phải có kiểu
phân phối khác. Nhiều nhà kinh tế cho rằng chủ nghĩa t bản có năng xuất lao
động cao hơn, giầu có hơn chủ nghĩa xã hội theo kiểu bao cấp nên phải chấp
nhận những điểm không công bằng của nó nh phân biệt giàu nghèo. Nh vậy họ
đã cho rằng phân phối theo t bản là điều tất yếu của chủ nghĩa t bản không thể


sửa đổi đợc: ngời giàu tự nhiên sẽ có nhiều quyền tự do hơn ngời nghèo, kể cả tự
do đầu cơ, tự do tấn công quân sự và kinh tế nớc khác nh vụ tấn công Irắc cuối
năm 1990. Từ đó chúng ta có thể tấy rằng công bằng xã hội theo định hớng
XHCN vẫn phải là điều phân biệt giữa kinh tế thị trờng và kinh tế thị trờng theo
định hớng XHCN. Chúng ta có thể thiết lập nguyên tắc phân phối theo lao động
để thay thế dần phân phối t bản. Lúc đầu phân phối theo t bản có thể chấp nhận
và chiếm ảnh hởng chi phối nhng với sự giác ngộ về chủ nghĩa xã hội nguyên tắc
phân phối theo t bản sẽ dần co lại, nhờng chỗ cho phân phối theo lao động. Vì lẽ
thờng tình ngời ta chấp nhận nhng ngời làm giàu bằng trí thông minh và khó
chấp nhận những kẻ trọc phú làm giàu bằng mánh khoé lừa đảo, kể cả những nhà
đầu cơ trí thức cao cũng biện bạch cho mình rằng: đầu cơ đợc miễn trừ các khái

niệm về đạo đức. Trong kinh tế thị trờng, phân phối theo đầu cơ đang phá hoại
ghê gớm sức sản xuất qua khủng hoảng tiền tệ, kẻ đầu cơ là kiếm bẫm nhng kiếm
một phá mời. Cho nên cấm bán khống là một chủ trơng sáng tạo để hạn chế tiến
tới xoá bỏ kiểu phân phối này.
Thứ ba là kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa chỉ phục vụ cho những nhu cầu có khả
năng thanh toán, không quan tâm phục vụ nhu cầu thực sự của ngời dân, nên ai
có khả năng thanh toán cao sẽ đợc phục vụ tốt hơn. Vì vậy, luôn có sự phân biệt
đối sử, có những thị trờng chỉ giành cho ngời giàu, tầng lớp trung lu cũng khó có
đủ tiền bén mảng vào đó. ở đó lơng thực có thể d thừa, đủ thoả mãn nhu cầu về
ăn uống của mọi ngời nhng vẫn có ngời đói thậm trí chết đói vì có nhu cầu mà
không có khả năng thanh toán. Từ đó kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa phải thoả mãn trớc hêt nhu cầu thực sự của con ngời, đánh thuế thật cao
vào những thị trờng chỉ phục vụ cho nhu cầu trng diện giàu sang.
Thứ t là kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa tạo điều kiện cho t bản giả cũng
có thể mua bán đợc mà không phân biệt các thị trờng sản sinh ra lợi nhuận và
chia nhau cái bánh lợi nhuận nh thị trờng hàng hoá và dịch vụ, với những thị trờng không tạo ra lợi nhuận nh thị trờng chứng khoán thứ cấp. Đây là nơi ngời ta
chỉ có thể kiếm lời bằng cách thắng lột của ngời thua. Vì vậy kinh tế thị trờng
theo định hớng xã hội chủ nghĩa phải hạn chế sự phát triển của các thị trờng có
tính chất cờ bạc nh vậy mà không hề tăng thêm đồng vốn nào cho xã hội.
Thứ năm, đã làm cho kinh tế thị trờng thì mọi thứ đều là hàng hoá, kể cả
đất đai, văn hoá, giáo dục và y tế, đó là quy luật thị trờng. Chúng ta không thể
duy ý trí cho thứ này là hàng hoá, thứ khác không phải là hàng hoá mà chỉ có thể
coi sản phẩm văn hoá, giáo dục và y tế là hàng hoá đặc biệt phải áp dụng ngay


những biện pháp phân phối đặc biệt. Ví dụ trợ giá, cấp kinh phí làm một bộ phim
cũng là dùng quy luật giá trị để khuyến khích mặt hàng văn hoá, hạn chế quy luật
chạy theo lợi nhuận để làm lệch hớng chính sách văn hoá.
Với quan niệm về kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN nh trên, việc xây
dựng kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN có thể có những khác biệt khó dung

hoà với kinh tế thị trờng thế giới. Chúng ta không thể đóng cửa để tách biệt thị trờng trong nớc ra khỏi thị trờng thế giới, để các khuyết tật của chủ nghĩa t bản
không xâm nhập vào thị trờng trong nớc.
Chúng ta vẫn có thể xây dựng kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN
bằng cách thuyết phục và thúc đẩy cuộc tự điều chỉnh của chủ nghĩa t bản. Thế
giới đang vang lên những yêu cầu cải cách thị trờng tài chính, đó là xu hớng tất
yếu của sự phát triển. Mặt khác, các t tởng khoa học mới lúc đầu có thể bị thiểu
số nh Galile bị toà án giáo hội đa lên giàn hoả thiêu nhng trái đất vẫn quay. Sức
mạnh của những t tởng khoa học mới, đúng đắn luôn luôn thắng số đông đang
mang những t tởng cũ đã hằn sâu vào nếp suy nghĩ .
Nhng để thúc đẩy sự phát triển của khoa học, nhất là trong kinh tế học, thiết nghĩ
các quan điểm khác nhau nên thẳng thắn đối thoại. Nhiều khi xuất phát điểm của
những quan điểm khác nhau lại bắt đầu bằng sự ngộ nhận để giải toả nh nhiều
ngời không có ý định ca ngợi đầu cơ, nhng lại gỡ tội cho đầu cơ bằng lời khuyên
chí tình: Tự tiên trách kỷ, hãy nhìn kỹ những sai lầm về chính sách mà mình
mắc phải không nên đổ tội cho đầu cơ. Những ngời khuyên nh vậy chỉ quên mất
rằng không nên đổ tội cho đầu cơ để chạy tội cho những sai lầm về chính sách thì
cũng không nên đổ tội cho các sai lầm về chính sách để gỡ tội cho đâu cơ.
Kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN chỉ là hình thái cao hơn của kinh
tế thị trờng t bản chủ nghĩa, nếu nhận thức đúng sẽ có khả năng thực hiện trong
thực tế, rất mong có sự trao đổi để hình dung rõ kinh tế thị trờng theo định hớng
XHCN.
1.2.Kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN ở Việt Nam.
1.2.1. Về lý luận và phơng pháp luận Mác-xít .
Nền kinh tế theo con đờng CNXH ở nớc ta là một nền kinh tế thống nhất
gồm nhiều thành phần, trong đó mỗi thành phần đều có vị trí, vai trò của nó
không thể thiếu đợc và có quan hệ mật thiết với nhau, dù rằng trong đó có mâu
thuẫn giữa t hữu và công hữu, giữa lao đông và bóc lột, giữa kinh doanh vì lợi
nhuận (không nên hiểu nhầm mọi kinh doanh vì lợi nhuận đều là chủ nghĩa t
bản). Có thành phần là chủ đạo, có thành phần là nền tảng: không chỉ các thành



phần chủ đạo, có thành phần khác mà các thành phần khác cũng tác động trở lại
những thành phần chủ đạo và nền tảng. Lại phải nói đến sự đan xen các hình thức
sở hữu khác nhau của một thành phần kinh tế, ngay trong một doanh nghiệp, cả
doanh nghiệp nhà nớc. Chẳng lẽ trên con tàu thống nhất cùng đi lên CNXH nh
vậy, lại có những cái gọi là phi chủ nghĩa xã hội hay sao?
Đơng nhiên mọi sự vật hiện tợngđều là sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập- các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa đấu tranh và cạnh tranh cạnh tranh là lành mạnh và không lành mạnh, tự giác đi đôi với tự phát, tích cực
xen kẽ tiêu cực, những âm binh thị trờng thờng xuyên muốn vợt qua tay ấn
quyết của đạo sĩ. Nhng tất cả đều vận động theo sự phân công lao động xã hội,
chuyên môn hoá và hợp tác hoá của quá trình xã hội hoá sản xuất (trong phạm vi
quốc gia dần dần gắn liền với quốc tế) với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc và
sự quản lý của nhà nớc XHCN theo cơ chế thị trờng kế hoạch đi lên CNXH.
Không thể phủ định rằng các thành phần kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ
vốn thuộc phạm trù chủ nghĩa t bản. Kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ đơng nhiên
là hậu bị quân - của chủ nghĩa t bản, hằng ngày, hằng giờ tự phát sinh ra chủ
nghĩa t bản nh nhận xét của Lênin. Nhng trong xu thế thuộc về chủ nghĩa xã hội
và trên con đờng đi lên CNXH, đi theo CNXH, chứ không phải là hậu bị quân
của chủ nghĩa t bản; Không có lý do gì mà chúng ta đẩy chúng vào quỹ đạo của
chủ nghĩa t bản. Kinh tế hộ nông dân ngày nay cũng không hoàn toàn là kinh tế
cá thể nh khi nông dân đợc chia ruộng đất trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, bởi ruộng đất thuộc sở hữu nhà nớc - nhà nớc giao cho nông dân toàn quyền
sử dụng ruộng đất lâu dài và kinh tế hộ nông dân cũng từng bớc đi vào kinh tế
hợp tác theo nhiều hình thức khác nhau.
Còn thành phần knh tế t bản nhà nớc và thành phần kinh tế t bản t nhân
(kinh tế t bản t nhân trong điều kiện của chuyên chính vô sản ít nhiêu đều mang
tính chất t bản nhà nớc) thì thế nào? Xin nhắc lại lời của Lênin: đó là chủ nghĩa
t bản nhng là chủ nghĩa t bản phục vụ cho nhân dân lao động do đó nó không còn
là chủ nghĩa t bản nữa: chủ nghĩa t bản nhà nớc là 3/4 XHCN. Nếu xem xét
một cách siêu hình, tách rời các điều kiện cụ thể thì chắc chắn đó là chủ nghĩa t

bản phản CNXH chứ không chỉ phi CNXH. Điều đó càng đúng khi các
doanh nghiệp t nhân t bản chủ nghĩa hoạt động không chỉ dựa vào sở hữu của nhà
t bản mà còn dựa vào sở hữu nhà nớc XHCN giao cho tài sản, vốn...Nh một chủ
trang trại ở Long An có vốn 16 tỷ đồng kinh doanh trên 16 ha đất sình lầy do địa


phơng giao. Một chủ trang trại khác cũng ở Long An có vốn 11 tỷ đồng kinh
doanh trồng rừng trên 2350 ha do địa phơng giao.
Ngay những doanh nghiệp nhà nớc - vốn đợc coi thuộc thành phần kinh tế
XHCNkhi mà ở đó cổ phần thuộc sở hữu nhà nớc chiếm địa vị chi phối trong
sự đan xen với các cổ phần khác thuộc sở hữu cá nhân ngời lao động trong và
ngoài doanh nghiệp và cả cá nhân nhà t bản nữa.
1.2.2.Về chính trị của Đảng và thực tiễn Việt Nam
Đảng ta đã xác định chính sách kinh tế nhiều thành phần là một vấn đề
chiến lợc lâu dài của cách mạng Việt Nam đi lên CNXH Đảng ta công khai và
thành thực tuyên bố một cách nhất quán chính sách đó và cũng không hề che dấu
mục đích cuối cùng của mình là chủ nghĩa xã hội là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Không phải Đảng ta nói một đằng làm một nẻo vỗ béo các
nhà t sản để sau làm thịt nh luận phản tuyên truyền đâu đó. Chúng ta thực sự tin
tởng vào quy luật khách quan, vào tính chất u việt của CNXH: sự phát triển của
lực lợng sản xuất trong hành lang pháp lý của nhà nớc XHCN bình đẳng với các
thành phần kinh tế sẽ đảm đơng vai trò lịch sử của nó mà không cần dùng đến
sắc lệnh của chuyên chế vô sản để xoá bỏ hoặc cải tạo thành phần kinh tế này
hay thành phần kinh tế khác. Thật chí lý mà tởng chừng nh nghịch lý ý kiến của
một tác giả cho rằng dù đứng trên lập trờng của giai cấp t sản thì trong điều kiện
cụ thể của Việt Nam chỉ có cùng với công nông và trí thức đi lên CNXH trong
khối đại đoàn kết dân tộc thì mới co lợi nhuận t bản chủ nghĩa bền vững;đi ngợc
lại là không có tơng lai.
Đơng nhiên chúng ta hiểu rằng (và các nhà t bản còn hiểu rõ hơn chúng
ta), trong khi đi lên CNXH thì CNTB luôn luôn bộc lộ rõ mặt tiêu cực. Cả kinh tế

cá thể và tiểu chủ tự phát thì cũng có thể. Cha nói đến những tiêu cực ngay trong
thành phần kinh tế nhà nớc tiếp sức cho những nhân tố TBCN tiêu cực.
Thực tiễn của mời năm đổi mới cho ta thấy rõ tác động to lớn của nền kinh
tế thống nhất gồm nhiều thành phần với vị trí vai trò riêng của từng thành phần.
Cùng với những nguyên nhân khác, nền kinh tế thống nhất đó lại làm cho CNXH
của nớc ta tuy rơi vào khủng hoảng mà không sụp đổ, trái lại đã vợt qua khủng
hoảng và tiếp tục tiến lên.
Thái độ với các thành phần kinh tế khác thực sự là một vấn đề tâm lý quan
trọng trong xã hội, cả trong đông đảo nhân dân lao động, cần đợc giải toả. Thực
tế một mặt có những biểu hiện mơ hồ, dao động rồi trợt sang con đờng TBCN và
nhiều hành động làm ăn phi pháp, tham nhũng, thu vén cá nhân kết hợp với


những tệ nạn xã hội khác gây nhức nhối cho xã hội. Mặt khác lại có những hiện
tợng kì dị với kinh tế thị trờng, với kinh tế t bản. Cả với kinh tế cá thể và tiểu chủ
của ngời lao động trong sản xuất kinh doanh, làm ăn sinh sống chính đáng mà
vẫn trăn trở phải chăng mình đã Kết thúc CNXH? Khi mà việc làm của ngời
lao động đang là một yêu cầu bức xúc, thì những ngời cộng sản chúng ta nhân
danh lợi ích của ngời lao động nhiều khi vẫn băn khoăn không biết giải quyết thế
nào cho đúng quan niệm cổ truyền của chúng ta về CNXH. Chúng ta lấy nội lực
là chính, trong đó có chủ trơng khuyến khích đầu t trong nớc; đầu không chỉ của
Nhà nớc mà của cả nhân dân lao động và nhà t bản; đầu t vào kinh tế nhà nớc,
kinh tế hợp tác, vào các thành phần kinh tế khác nhằm mở rộng tổng sản xuất
kinh doanh. Ngời lao động vừa có thể là ngời lao động, vừa là ngời đầu t. Nhng
nếu nói đầu t và kinh doanh trong t duy lý luận về CNXH cũng nh tâm lý ngời dân, nh là một cái gì xa lạ với CNXH thì làm sao khuyến khích đợc đầu t,
làm sao động viên đợc nguồn lực vốn tiềm tàng trong dân, phát huy đợc tinh thần
tự thân vận động của mỗi ngời.
Một lần nữa khẳng định: nhất thiết phải sử dụng và phát triển lâu dài các
thành phần đó trong nền kinh tế thống nhất gồm nhiều thành phần, động viên
mọi tầng lớp dân c sản xuất kinh doanh ích nớc lợi nhà thì trong điều kiện cụ thể

của nớc ta mới có thể xây dựng đợc tốt thành phần kinh tế chủ đạo và các thành
phần kinh tế nền tảng, mới xây dựng đất nớc giàu mạnh đi lên CNXH bỏ qua chế
độ t bản. Nếu không sẽ là ảo tởng, lẫn lộn lý tởng với không tởng. Điều đó chỉ có
thể trở thành hiện thực với điều kiện;chúng ta xây dựng đợc kinh tế Nhà nớc giữ
vai trò chủ đạo ngày càng tốt; xây dựng dợc kinh tế Nhà nứơc và kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng; thiết lập đợc hình thức sở hữu Nhà nớc và sở hữu tập thể, sở hữu hợp tác xã thành chủ thể; từ đó nguyên tắc phân phối
theo lao động tất yếu dần dần ngự trị.
1.3.Một số đặc điểm của kinh tế thị tr ờng định hớng XHCN ở Việt Nam nhìn
từ góc độ triết học.
Từ thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho
thấy, mô hình phát triển kinh tế theo xu hớng thị trờng có sự điều tiết vĩ mô từ
trung tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay, là một mô hình hợp lý hơn cả.
Mô hình này, về đại thể, đáp ứng những thách thức acủa sự phát triển.
Đối với nớc ta việc thực hiên mô hình này trong thực tế chẳng những là nội
dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa còn là công cụ là phơng thức để nớc
ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.


Nền kinh tế nớc ta hiện nay, có thể nói đang trong giai đoạn quá độ chuyển
tiếp từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN. Do vậy những đặc điểm của giai
đoạn quá độ trong nền kinh tế nớc ta đơng nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa, rất
cần đợc nghiên cứu xem xét.ý thức đợc những đặc điểm đó chúng ta sẽ tránh đợc
những sai lầm chủ quan nóng vội duy ý chí hoặc những khuynh hớng cực đoan
máy móc.
Vậy từ khuynh hớng triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ
của nớc ta hiện nay là gì? Nh chúng ta đã biết trong nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp mọi chức năng kinh tế xã hội của nền kinh tế đều đợc triển khai
trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp nhà nớc đối với
hoạt động sản xuất lu thông, phân phối...khá nặng nề về mặt hình thức. Lợi ích

kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân ngời lao động một động lực trực tiếp của hoạt
động xã hội cha đợc quan tâm thích đáng. Vì thế sự vận động của nền kinh tế
nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ sau Đại hội lần thứ VI của đảng (tháng 12-1986) đến nay, theo đờng
lối đổi mới, đất nớc đã từng bớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng với định hớng
XHCN và điều đó có nghĩa là chúng ta đã đã đạt đợc những thành tựu hết sức
quan trọng, những thành tựu cho chúng ta điều chỉnh, bổ sung nhận thức, làm
cho quan niệm về CNXH ngày càng cụ thể hơn, đờng lối chính sách ngày càng
đồng bộ có căn cứ khoa học và thực tiễn. Những thành tựu đó, trong một chừng
mực nhất định cũng gián tiếp thừa nhận khả năng của kinh tế thị trờng trong việc
năng hoá nền kinh tế đất nớc. Bớc sang cơ chế thị trờng đơng nhiên không tránh
khỏi những tiêu cực của nó, nhng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng
tác động của các quan hệ thị trờng. Về thực chất của những bớc chuyển này, dù
nền kinh tế thị trờng chỉ mới đợc hình thành ở nớc ta, còn đang ở trong những bớc chập chững ban đầu và đợc điều tiết một cách có ý thức theo định hớng
XHCN. Song cũng có tác động khá rõ nét tới mọi mặt của đời sống xã hội và để
lại đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá. Tác động quan trọng nhất của nền
kinh tế thị trờng là nó tạo ra ở nớc ta những quan niệm thị trờng không thuần
khiết, những quan hệ thị trờng. Sự đan xen, chi phối mãnh liệt của các nhân tố
khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính
bao cấp đã làm cho cơ chế thị trờng bị khúc xạ theo nhiều chiều hớng khác
nhau.


Nguyên nhân của tình trạng trên trớc hêt thuộc về sự đổi mới các quan hệ sở hữu.
Nếu nhơ trớc đây, nền kinh tế nớc ta chỉ có một kiểu sở hữu tơng đối thuần khiết
nhất đối với hai thành phần sở hữu chủ đạo là: sở hữu nhà nớc và sở hữu tập thể
thì hiện nay cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu nhà nớc, còn tồn tại
nhiều thành phần sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận
hành của nền kinh tế không hẳn đã đồng bộ, đôi khi chúng còn mâu thuẫn với
nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khác nhau của nền kinh tế, có

khả năng đáp ứng đòi hỏi đa dạng và đồng bộ nền kinh tế thị trờng.
Để giải quyết những mâu thuẫn đó thì không thể phủ nhận vai trò của nhà
nớc trong nền kinh tế thị trờng. Nhà nớc ngoài việc phải trực tiếp quyết định
những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung
gian giữa các vấn đề kinh tế và các vấn đề xã hội. Nhà nớc với chính sách, luật lệ
của mình, một mặt có khả năng làm cho nền kinh tế đạt đợc tới một sự tăng trởng
có hiệu quả, nhng cũng chính là ngời phải lo giải quyết những vấn đề do chính sự
tăng trởng kinh tế tạo ra. Về đại thể, chìa khoá để đáp ứng những nhu cầu phức
tạp và trái ngợc nhau của xã hội nằm trong tay bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nớc. Tuy nhiên, ở nớc ta hiện nay nhà nớc và nền kinh tế thì nhà nớc có nhiều vấn
đề cần tháo gỡ để có thể đảm bảo đợc trọng trách to lớn của mình. Trên thực tế
bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nớc đối với nền kinh tế còn kém hiệu quả. Hầu hết
các doanh nghiệp kinh tế nhà nớc đều hoạt động thiếu năng lực ỷ lại vào nhà nớc.
Trong một số trờng hợp, thậm trí kinh tế nhà nớc còn vô tình hoặc cố ý bỏ rơi
trận địa của mình chiếm lĩnh tiếp tay cho phần tử tham nhũng tiêu cực.
Điều đó có nghĩa với việc xác định đặc điểm của nền kinh tế quá độ đến
thị trờng ở nớc ta hiện nay có lẽ vẫn là sự thừa nhận xu hớng chủ yếu trong sự
vận động của nó. Tiếp tục đổi mới và hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế nhà
nớc, để kinh tế nhà nớc thực sự giữ vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy và điều chỉnh
các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở đó, giải quyết ngay các mâu
thuẫn xã hội ở tầm vĩ mô, sao cho tăng trởng kinh tế không trở lên mâu thuẫn gay
gắt với trật tự bình thờng của đời sống xã hội. Đơng nhiên đây không phải là bài
toán có thể giải quyết ngay một sớm một chiều.
Cũng phải thừa nhận rằng nhng vấn đề là những vấn đề cơ bản của bản
thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chế quản lý đang ở giai đoạn
hình thành nên không đồng bộ, thiếu hụt, chúng ta cha thực sự tạo ra môi trờng
an toàn và ổn định cho hoạt động sản xuất và kinh doanh. Cơ chế pháp lý cho các
hoạt động kinh tế còn nhiều bất cập, các hoạt động tài chính, ngân hàng...còn


nhiều điều bất hợp lý. Do vậy trong một số vụ án kinh tế cơ chế quản lý vừa là

thủ phạm vừa là nạn nhân của nền kinh tế thị trờng. Tính chất không rõ ràng,
thiếu xác định trên cả phơng diện kinh tế xã hội dờng nh đang là một cái gì đó
rất phổ biến, rất đặc trng cho các quan hệ trong nền kinh tế ở nớc ta hiện nay.
2. Những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trờng theo định hớng
XHCN ở Việt Nam.
Nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam vì đang trong thời kỳ
quá độ chuyển tiếp từ cơ chế quản lý hành chính tập chung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý vĩ mô của nhà nớc. Nên trong quá trình
xây dựng và phát triển không thể tránh khỏi những mâu thuẫn nảy sinh. Để xây
dựng thành công nền kinh tế thị trờng XHCN chúng ta cần nhận thức đúng đắn
những mâu thuẫn đó và giải quyết một cách hợp lý các mâu thuẫn này.
2.1. Mâu thuẫn về tính tự phát t bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trờng trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến nh ở nớc ta
thì tất nhiên cha thoát khỏi tính tự phát t bản chủ nghĩa. Việc định hớng nền kinh
tế nớc ta đi lên CNXH không phải là sự phát triển tự phát mà là kết quả của sự
nhận thức và vận dụng một cách tự giác xu hớng và quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội trong thời đại ngày nay. Nh vậy, phát triển nền kinh tế thị trờng
theo định hớng XHCN đã bao hàm sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập: tính tự phát
và tự giác trong sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời gian hiện nay, tính tự phát vẫn đang là cái cần thiết và không
tránh khỏi trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, trong
việc giải quyết những khó khăn về việc làm, trong lu thông hàng hoá v.v...Tuy
vậy, nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu là tự phát thì không thể thực hiện đợc
những mục tiêu XHCN. Còn hoạt động tự giác là hoạt động dựa trên sự nhận thức
đúng đắn xu thế tất yếu và quy luật khách quan của đời sống xã hội nhng nếu có
sai lầm trong nhận thức, nhất là sai lầm trên bình diện quốc gia, thì hậu quả của
nó thật là khôn lờng. Giải quyết mâu thuẫn giữa tính tự giác và tự phát trong phát
triển kinh tế xã hội là hết sức khó khăn, phức tạp: không phải là trong một lúc có
thể xoá bỏ đợc hoàn toàn tính tự phát biến mọi hoạt động của con ngời trở thành
hoạt động tự giác mà là phát huy ngày càng cao tính tự giác trên cơ sở nâng cao

năng lực nhận thức khoa học cũng nh năng lực tổ chức, quản lý, phối hợp hoạt
động trên bình diện xã hội, hạn chế dần lĩnh vực tự phát hoạt động của con ngời
trong xã hội.
2.2. Mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.


Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nớc ta theo cơ chế thị trờng định hớng XHCN có sự quản lý của nhà nớc hiện nay thì một vấn đề rất phức tạp đặt ra
đó là mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa hai
mặt này và những biểu hiện của nó xét trên phơng diện triết học. Theo đó lực lợng sản xuất là nội dung của sự vật, còn quan hệ sản xuất là hình thức của sự vật
trong đó lực lợng sản xuất có vai trò quyết định quan hệ sản xuất. Khi lực lợng
sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định nào đó thì quan hệ sản xuất cũ
không còn phù hộ nữa, trở nên kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất, để
mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất phải vận động để phù hợp với lực lợng
sản xuất, quan hệ sản xuất vận động theo đó thành quy luật kinh tế chung cho sự
phát triển kinh tế xã hội. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiên tiến và
quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất gay gắt và quyết liệt, rất cần đợc
giải quyết. Nhng vấn đề đặt ra là giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là cuộc
cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi sang kinh tế thị trờng nớc ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, nhiệm vụ cực kỳ quan trọng thể hiện
rõ tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay là phấn đấu
xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc là
chủ trơng, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nói đến công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc chính là
nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó cũng chính là lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất, nói đến khoa học sự văn minh trí tuệ là nói đến một phơng thức sản
xuất tối u để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, một nền nông nghiệp nghèo nàn
lạc hậu nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho xây dựng XHCN. Trớc đây
chúng ta tỏ ra thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ, khoa học, đến
việc tạo lập cơ sở kinh tế, vật chất của XHCN. Bằng chứng là có một thời chúng

ta đã không coi trọng tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trờng tơng quan với
đội ngũ những ngời lao động khác.
Do vậy, lạc hậu là tất yếu xảy ra, khoa học chậm hoặc ít có điều kiện phát
triển, đất nớc không thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ. Từ đó chúng ta thấy rằng
việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là điều rất
cần thiết trong việc xây dựng nền kinh tế thị trờng XHCN ở Việt Nam.
2.3. Mâu thuẫn về mối quan hệ giữa các lợi ích: lợi ích của ng ời lao động và
của ngời thuê mớn lao động.


Phát triển kinh tế thị trờng trong thời kỳ quá độ là chấp nhận sự tồn tại
nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả thành phần kinh tế TBCN, chấp nhận
các hình thức sở hữu và kinh doanh có thuê mớn ngời lao động và có sự bóc lột
sức lao động; trong khi đó, mục tiêu lâu dài của cách mạng XHCN là xoá bỏ bóc
lột. ở đây, một số quan hệ có mâu thuẫn cần đợc nghiên cứu và giải quyết thoả
đáng, đó là mối quan hệ giữa các lợi ích: lợi ích của ngời lao động và của ngời
thuê mớn lao động, mối quan hệ giữa sự phát triển của kinh tế t nhân với vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nớc.
Không có cơ sở để khẳng định rằng, trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH,
hình thức kinh doanh có thuê mớn lao động sẽ ngày càng giảm đi. Cũng sai lầm
khi cho rằng, chỉ có thành phần kinh tế nhà nớc và thành phần kinh tế hợp tác xã
là phát triển theo định hớng XHCN và sẽ thay thế các thành phần kinh tế còn lại.
Theo tôi, tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển theo một định hớng duy
nhất: định hớng XHCN. Cùng với sự hình thành của CNXH, các thành phần kinh
tế có thuê mớn lao động sẽ giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên, điều này
chỉ có thể thực hiện đợc trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự
quản lý của nhà nớc XHCN sự chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nớc, sự lớn
mạnh của thành phần kinh tế hợp tác xã.
Trong việc giải quyết mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích ngời thuê mớn lao động và lợi ích của ngời lao động làm thuê và lợi ích của nhà nớc. Sự bất
công trong mối quan hệ giữa các lợi ích đều có tác dụng cho sự tăng trởng kinh

tế.
Nhà nớc bằng hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế, xã hội của mình
vừa khuyến khích lợi ích chính đáng và tích cực sáng tạo của những nhà kinh
doanh. Nhà nớc thông qua nguồn thuế thu đợc và các khoản đóng góp khác từ
các cơ sở kinh doanh mở rộng, phát triển các chơng trình xã hội. Tuy nhiên sự
điều tiết thu nhập thông qua các chính sách thuế, nếu Nhà nớc bằng hệ thống
pháp luật và chính sách kinh tế, xã hội của mình vừa khuyến khích lợi ích chính
đáng và tích cực sáng tạo của những nhà kinh doanh. Nhà nớc thông qua nguồn
thuế thu đợc và các khoản đóng góp khác từ các cơ sở kinh doanh mở rộng, phát
triển các chơng trình xã hội. Tuy nhiên sự điều tiết thu nhập thông qua các chính
sách thuế, nếu không đợc thực hiện một cách hợp lý sẽ có tác dụng tiêu cực đến
các hoạt động khuyến khích đầu t.
2.4. Mâu thuẫn giữa mục tiêu của XHCN và mặt trái của kinh tế thị trờng


Trong thực tế một mặt, phát triển kinh tế thị trờng trong điều kiện xuất
phát từ sản xuất nhỏ thì cha thể tránh khỏi những yếu tố của kinh tế thị trờng
TBCN, sự cạnh tranh, sự phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo
giữa các vùng và các bộ phận dân c, và nhất là không thể tránh khỏi những tệ nạn
xã hội do mặt trái của kinh tế thị trờng gây nên dẫn đến sự mất bình đẳng và bất
công xã hội. Mặt khác, định hớng XHCN không cho phép sự mất bình đẳng phát
triển và phân cực xã hội, không cho phép đẩy ngời lao động vào tình trạng thất
nghiệp, không thể chấp nhận tình trạng bất công, tiêu cực ngày càng gia tăng.
Một mâu thuẫn nữa lại xuất hiện: mâu thuẫn giữa bình đẳng, công bằng xã hội
với tính cách là mục tiêu của CNXH với tình trạng bất bình đẳng, bất công không
thể tránh khỏi do mặt trái của kinh tế thị trờng nảy sinh.
Kinh tế thị trờng chỉ là phơng tiện, là con đờng để thực hiện các mục tiêu
của CNXH, CNXH không chỉ phấn đấu đạt trình độ phát triển cao về đời sống
vật chất và tinh thần mà vấn đề quan trọng hơn là công bằng xã hội. Hơn nữa,
không chỉ là công bằng xã hội còn là bình đẳng xã hội.

Trong mô hình cũ của CNXH quan niệm và thực hiện không đúng vấn đề
bình đẳng xã hội đã dẫn đến tình trạng trì trệ xã hội. Song điều đó không có
nghĩa là lý tởng về bình đẳng xã hội đã trở thành sai lầm, lỗi thời. Sự nghiệp đổi
mới CNXH đòi hỏi chúng ta cần nhận thức lại vấn đề bình đẳng xã hội, quan hệ
giữa công bằng và bình đẳng xã hội, nhng không phải là từ bỏ mục tiêu phấn đấu
cho bình đẳng xã hội. Trong định hớng XHCN của sự phát triển xã hội ta, tất
nhiên có nhiều mục tiêu cần hớng tới, nhng chắc chắn trong đó có vấn đề bình
đẳng xã hội.
Kinh tế thị trờng tuy có mặt trái không thể tránh khỏi của nó, nhng về cơ
bản và lâu dài nó là một trong những điều kiện hiện nay, công bằng xã hội phải
đợc hiểu trên cả hai mặt:mặt bình đẳng và mặt bất bình đẳng. Bên cạnh việc phấn
đấu cho bình đẳng xã hội, chúng ta phải chấp nhận những bất bình đẳng hợp lý
do yêu cầu khắt khe của thị trờng. Chỉ có thể thực hiện sự bình đẳng từng mặt,
chứ cha thể thực hiện sự bình đẳng hoàn toàn. Trong thời kỳ quá độ, kể cả trong
CNXH chỉ có thể thực hiện bình đẳng về cơ hội, còn về mặt hởng thụ thì trớc mắt
chỉ có thể phấn đấu thực hiện ở sự thỏa mãn một số nhu cầu cơ bản nhất, rồi dần
dần phát triển lên.
Tóm lại sự phát triển của nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN đang
làm nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn. Sự thành công của CNXH phụ thuộc phần lớn
vào việc giải quyết các mâu thuẫn đó. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu kỹ những


mâu thuẫn này để đề ra những biện pháp hữu hiệu để giải quyết chúng một cách
hợp lý nhất.

C.Kết luận
Mọi sự vật hiện tợng tồn tại trong thế giới khách quan, đều chứa đựng
trong nó những mặt đối lập có khuynh hớng vận động trái ngợc nhau. Những mặt
đối lập này vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau tạo động lực cho mọi sự phát
triển. Do đó trong hoạt động thực tiễn cần phân tích từng mặt đối lập tạo thành

mâu thuẫn cụ thể để nhận thức đợc bản chất khuynh hớng vận động, phát triển
của sự vật và hiện tợng.
Chúng ta cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn: đó là đấu
tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới
hơn, tiến bộ hơn.
Trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nớc ta từ kế hoạch tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN có sự quản lý của nhà nớc.
Đảng ta đã có nhiều chủ trơng, đờng lối đúng đắn, song cũng không thể tránh
khỏi những mâu thuẫn nảy sinh. Tất cả những mâu thuẫn này cần giải quyết
chúng một cách hợp lý, tránh nóng vội chủ quan duy ý chí. Nếu các mâu thuẫn
đó đợc giải quyết tốt thì nền kinh tế sẽ phát triển đúng hớng và sẽ tránh đợc sự
chệch hớng không cần thiết.


D.Danh mục các tài liệu tham khảo.
1.Giáo trình triết học Mác Lênin tập I NXB Giáo dục
2. Tạp chí triết học số 5 1999
3.Nghiên cứu kinh tế số 19-1998
4.Nghiên cứu kinh tế số 251-1999
5.Nghiên cứu kinh tế số 252-1999
6. Nghiên cứu lý luận số 18 1999
7. Thông tin lý luận số 9-2000
8. Tạp chí triết học số 2-2001
9. Tạp chí cộng sản số 4-2000
10. Tạp chí cộng sản số 6-2002
11. Lý luận chính trị số 5-2001
12. Nghiên cứu kinh tế số 2-2000
13.Nghiên cứu lý luận số 8-2000
14.Nghiên cứu lý luận số 10-2000




×