Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Tiểu luận phát triển và rủi ro thẻ trong hoạt động kinh doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.28 KB, 40 trang )

----------

TIỂU LUẬN
PHÁT TRIỂN VÀ RỦI RO THẺ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH THẺ TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM

GVHD: PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương
Nhóm 13:
1/ Nguyễn Công Nghĩa
2/ Nguyễn Lê Thúy Di
3/ Nguyễn Thị Anh Gái

Tp.HCM, ngày 07 tháng 05 năm 2016


Mục lục:

PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN
1.LỊCH SỬ RA ĐỜI: …………………………………………………………..….….1
2.KHÁI NIỆM …………………………………………………………………………3
3.CẤU TẠO THẺ:…………………………………………………………….….…....3
4. ĐẶC ĐIỂM CỦA THẺ THANH TOÁN:………………………….…….…4
5.PHÂN LOẠI………………………………………………………………..……….5
5.1Phân loại theo công nghệ sản xuất:…………………………………….……….....5
5.2 Theo chủ thể phát hành:……………………………………………….……….…5
5.3 Theo tính chất thanh toán của thẻ:…………………………………..……….….6
5.4 Theo phạm vi lãnh thổ…………………………………………………………....8
5.5. Theo mục đích và đối tượng sử dụng……………………………………………
5.6. Theo hạn mức của thẻ………………………………………………………….…9
6.VAI TRÒ CỦA THẺ THANH TOÁN………………………………………….…..9
6.1 Đối với người sử dụng thẻ:…………………………………………………….…..9


6.2 Đối với cơ sở chấp nhận thẻ:(CSCNT)…………………………………………...11
6.3 Đối với ngân hàng…………………………………………………………………13
6.4 Đối với nền kinh tế - xã hội:……………………………………………………..15

PHẦN II, SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THẺ THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM
1.Triển khai thẻ tại các Ngân hàng tại Việt Nam……………………………17
2. Tổng quan và thực trạng…………………………………………………..19
PHẦN III: RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA
NGÂN HÀNG:
1.Khái niệm:…………………………………………………………………….23
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng thương
mại ………………………………………………………………………………23
2.1 Đứng trên quan điểm của các nhà phân tích ngân hàng, điển hình là Hội đồng
Basel (Hội đồng giám sát ngân hàng các nước G10):………………………………...23
2.2 Đứng từ góc độ của các Tổ chức thẻ quốc tế……………………………………..23
2.3 Đứng trên góc độ của Ngân hàng thương mại:…………………………………...24

3. Rủi ro trong thanh toán thẻ tại Việt Nam :………………………………...29
4. Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Ngân hàng Việt
Nam:……………………………………………………………………………..32
4.1 Hoàn thiện tổ chức hoạt động quản lý rủi ro trong hệ thống thanh toán thẻ:....32
4.2. Hạn chế tình trạng giả mạo trong hoạt động thanh toán và phát hành thẻ …...32
4.3 Tại ĐVCNT………………………………………………………………………....33
4.4 Chủ thẻ:…………………………………………………………………………….34
Kết luận


Lời mở đầu:
Ngân hàng thương mại đã và đang không ngừng nâng cao năng lực quản lý điều
hành, chủ động mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, nhằm nâng

cao hiệu quả kinh doanh. Một trong những lĩnh vực kinh doanh vừa đem lại nguồn thu
nhập đáng kể cho ngân hàng vừa mang lại hiệu quả chung cho toàn xã hội, đó chính là
dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ. Xét về phương diện tổng thể, hoạt động thanh toán
thẻ có vai trò vô cùng to lớn đối với việc giúp cho người dân tiếp cận các phương tiện
thanh toán văn minh hiện đại của thế giới, góp phần nâng cao đời sống cộng đồng dân
cư, nâng cao đời sống xã hội. Xét về phương diện cụ thể, hoạt động thanh toán thẻ
không chỉ góp phần quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả hoạt động kinh doanh tại
mỗi ngân hàng thương mại mà còn là một mắc xích quan trọng thúc đẩy các hoạt động
kinh doanh khác của ngân hàng phát triển. Thẻ là một phương tiện thanh toán văn minh
hiện đại, gắn liền với công nghệ. Nó ra đời trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật và
công nghệ. Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế kỷ của công nghệ hiện đại, khi
nền công nghệ hiện đại càng phát triển thì rủi ro do sử dụng, lợi dụng công nghệ để đánh
cắp tiền từ thẻ đang là một thách thức lớn cho cả đơn vị phát hành thẻ và chủ thẻ. Các
rủi ro trong hoạt động kinh doanh dịch vụ thẻ ngày càng đa dạng và phức tạp. Nó làm
suy giảm hiệu quả kinh doanh, ảnh hưởng uy tín và thương hiệu của đơn vị phát hành
thẻ. Xuất phát từ thực tiễn phát hành và rủi ro khi sử dụng thẻ, nhóm chọn đề tài “Phát
triển và rủi ro thẻ trong hoạt động kinh doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam ”


PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN
1. LỊCH SỬ RA ĐỜI
Về mặt lịch sử, thẻ ngân hàng xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Nó ra
đời năm 1914, khi đó Tổng công ty xăng dầu Califonia cấp thẻ cho nhân viên và một
số khách hàng của mình với mục đích chủ yếu là khuyến khích bán sản phẩm của
công ty. Loại hình đầu tiên của thẻ thanh toán ra đời vào năm 1945. Đó là Charge- It
của ngân hàng John Biggins (Mỹ), cho phép khách hàng dùng thẻ mua hàng tại
những nơi bán lẻ. Còn các nhà kinh doanh phải ký quỹ tại ngân hàng Biggins và ngân
hàng sẽ thu tiền thanh toán từ phía khách hàng để hoàn trả cho nhà kinh doanh. Loại
hình này cũng chính là tiền đề cho việc phát hành thẻ tín dụng đầu tiên của ngân hàng

Franklin National vào năm 1951. Đến năm 1955, hàng loạt thẻ mới xuất hiện ở Mỹ
như: Trip Charge, Golden Key, Gourmet Club, Esquire Club. Năm 1958, thẻ Card
Balanche, American Express ra đời và thống lĩnh thị trường. Năm 1960, ngân hàng
lớn của Mỹ là Bank of America đã phát hành thẻ Bank Americard. Sau đó, ngân hàng
này đã bắt đầu cấp giấy phép cho các định chế tài chính trong khu vực để phát hành
thẻ mang thương hiệu Bank Americard và xây dựng một số quy định và tiêu chuẩn
riêng đối với các định chế tài chính khi phát hành thẻ. Năm 1966, để cạnh tranh với
sự thành công của ngân hàng Bank of America, mười bốn ngân hàng lớn của Mỹ
thành lập Hiệp hội thẻ liên ngân hàng quốc tế (Interbank Card Association- ICA) và
cho ra đời thẻ Master Charge. Năm 1977, Bank America đổi tên Visa USA và sau đó
trở thành tổ chức thẻ quốc tế Visa. Ngày nay, thẻ Visa đã trở thành thẻ có quy mô lớn
và được nhiều người sử dụng nhất trên thế giới. Năm 1979, Master Charge đổi tên
thành MasterCard và trở thành tổ chức thẻ quốc tế lớn thứ 2 trên thế giới, là đối thủ
cạnh tranh chủ yếu của thẻ Visa ngày nay, góp phần đưa thị trường thẻ thanh toán
ngày càng phát triển trên toàn cầu. Trên thế giới hiện nay có 4 tổ chức thẻ quốc tế lớn
nhất là Visa, MasterCard, AMEX, JCB cùng với nhiều công ty và ngân hàng liên kết
nhau cung ứng nhiều sảnphẩm thẻ đa dạng, phong phú trên thị trường.
Thẻ Diners Club, thẻ du lịch và giải trí T&E (Travel & Entertainment) đầu tiên
do tổ chức thẻ tự phát hành vào năm 1949 ở Mỹ, xuất hiện đầu tiên ở Nhật Bản vào
1


năm 1960, chi nhánh được quản lý bởi Citi Cop, người đứng đầu trong số ngân hàng
phát hành thẻ. Năm 1990 có 6,9 triệu người sử dụng thẻ Diners Club trên toàn thế
giới với doanh số khoảng 16 tỷ dollars. Hiện nay số người sử dụng thẻ Diners Club
đang giảm dần đến năm 1993 tổng doanh số chỉ còn khoảng 7,9 tỷ với khoảng 1,5
triệu thẻ lưu hành.
Thẻ American Express (Amex) ra đời vào năm 1958, tổ chức American Express
phát hành thẻ Green Amex, không có hạn mức tín dụng, chủ thẻ được chi dùng và có
trách nhiệm thanh toán một lần vào cuối tháng. Năm 1987, Amex cho ra đời thêm ba

loại thẻ: Amex Gold, Amex Platium, và Optima có hạn mức tín dụng tuần hoàn để
cạnh tranh với thẻ VISA và MasterCard. American Express hiện là tổ chức thẻ du
lịch và giải trí lớn nhất thế giới, trực tiếp phát hành và quản lý chủ thẻ, không cấp
giấy phép thành viên cho các công ty tài chính- ngân hàng. Tổng số thẻ phát hành có
gấp 5 lần Diners Club và gấp 2 lần JCB. Năm 1990 tổng doanh thu chỉ khoảng
111,5 triệu dollars với khoảng 36,5 triệu thẻ lưu hành. Nhưng đến năm 1993 thì
tổng doanh thu lên khoảng 124 tỷ dollars với 35,4 triệu thẻ lưu hành và 3,6 triệu
cơ sở chấp nhận thanhtoán.
Thẻ JCB (the Japan-based) là thẻ phát hành tại Nhật Bản năm 1961 bởi ngân
hàng Sanwa và bắt đầu phát triển thành một tổ chức thẻ quốc tế vào năm 1981. Thẻ
JCB đã phát triển rất nhanh và là đối thủ cạnh tranh của American Express trong thị
trường giải trí và du lịch. Năm 1990 JCB đã phát hành được 17 triệu thẻ với doanh số
thanh toán khoảng 16,5 tỷ USD. Năm 1992, JCB có 27,5 triệu thẻ, khoảng 2,9 triệu
cơ sở chấp nhận thanh toán và 160000 máy rút tiền tự động ATM. Cũng giống như
Amex, JCB phát hành loại thẻ độc quyền của riêng mình và quản lý trực tiếp đến
khách hàng (chủ thẻ và điểm tiếp nhậnthẻ)
Thẻ Visa là loại thẻ có quy mô phát triển lớn nhất trên toàn cầu. Cuối năm 1990
có 257 triệu thẻ Visa đang lưu hành với doanh thu khoảng 354 tỷ dollars. Cuối năm
1993 doanh thu của thẻ Visa đã tăng lên đến 542 tỷ dollars. Hệ thống máy rút tiền tự
động của Visa khoảng 164.000 máy ATM ở 65 nước trên thế giới. Visa không trực
tiếp phát hành thẻ mà giao lại cho các thành viên, đây là điều kiện thuận lợi giúp cho
2


Visa dễ dàng mở rộng thị trường hơn các loại thẻ khác. Hiện nay Visa có 22.000
thành viên tạihơn 200 nước, đã phát hành hơn 500 triệu thẻ, 13 triệu CSCNT,
320.000 máy rút tiềnmặt, doanh số giao dịch hàng năm đạt 800 tỷ dollars.
Thẻ Master là loại thẻ có quy mô lớn trên thế giới. Cũng giống như Visa,
MasterCard là một hiệp hội tài chính quốc tế riêng biệt, không quan hệ trực tiếp với
chủ thẻ mà chỉ quản lý tất cả các thành viên phát hành thẻ. Đến năm 1990,

MasterCard đã phát hành hơn 178 triệu thẻ với trên 5.000 thành viên phát hành thẻ
và khoảng 9 triệu CSCNT thanh toán trên toàn thế giới. Đến năm 1993, tổng doanh
thu của MasterCard lên tới 320,6 tỷ dollars và phát hành được 215,8 triệu thẻ đang
lưu hành tại 220 nước. Cho đến nay số lượng thành viên tham gia vào hiệp hội
MasterCard đã lên đến hơn 29.000 thành viên, mạng lưới rút tiền mặt đã đuợc triển
khai rộng rãi với hơn 162.000 ATM đặt tại hơn 192.000 chi nhánh ngân hàng trên
thế giới.
2. KHÁI NIỆM
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được phát hành
bởi các ngân hàng, các định chế tài chính hoặc các công ty. Người chủ thẻ có thể sử
dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán
thẻ, rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý, cơ sở chấp nhận thẻ hoặc tại các máy rút
tiền tự động (ATM). Trong Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch
vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐNHNN ngày 15/05/2007 của NHNN Việt Nam khái niệm thẻ thanh toán được quy
định như sau: “Thẻ ngân hàng là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để
thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các bên thỏa thuận”.
Ngày nay thẻ thanh toán vẫn được hiểu một cách nôm na là tiền điện tử là phương
tiện thanh toán hiện đại và tiên tiến trên thế giới. Thẻ thanh toán ra đời và phát triển
gắn liền với sự phát triển và ứng dụng công nghệ tin học trong ngân hàng. Như vậy sẽ
có 3 thành viên tham gia chính là: chủ thẻ, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân hàng phát hành.
3. CẤU TẠO THẺ:

3


Các loại thẻ thường có đặc điểm chung là: được làm bằng Plastic, có kích thước
theo tiêu chuẩn quốc tế là rộng 5,5 cm, dài 8,5 cm. Thẻ thường dày từ 2-2,5 mm. Trên
thẻ có in các thông số nhận dạng như: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo của
nhà phát hành thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu lực (ngày cuối cùng có hiệu lực)…
và một số đặc tính khác tuỳ theo quy định của các Tổ chức thẻ quốc tế hoặc Hiệp hội

phát hành thẻ…
Mặt trước của thẻ:


Biểu tượng: Mỗi loại thẻ có một biểu tượng riêng, mang tính đặc trưng của tổ
chức phát hành thẻ. Đây được xem như một đặc tính mang tính an ninh nhằm
chống giả mạo.

 Số thẻ: Số này dành riêng cho mỗi chủ thẻ, được dập nổi trên thẻ và được in lại
trên hoá đơn khi chủ thẻ thanh toán bằng thẻ. Tuỳ theo từng loại thẻ mà chữ số
khác nhau và cách cấu trúc theo nhóm cũng khác nhau.
 Thời gian có hiệu lực của thẻ: Là thời hạn mà thẻ được phép lưu hành.
Tùy theo từng loại thẻ mà có thể ghi ngày hiệu lực cuối cùng của thẻ hoặc ngày đầu
tiên đến ngày cuối cùng được sử dụng thẻ.
 Họ và tên chủ thẻ: In chữ nổi, là tên của cá nhân nếu là thẻ cá nhân, tên của người
được uỷ quyền sử dụng nếu là thẻ công ty. Ngoài ra, có thẻ còn có cả ảnh của chủ
thẻ.
 Ký tự an ninh trên thẻ, số mật mã của đợt phát hành: Mỗi loại thẻ luôn có ký hiệu
an ninh kèm theo in phía sau của ngày hiệu lực. Ví dụ: Thẻ Visa có chữ V ( hoặc
CV, PV, RV, GV ), thẻ MasterCard có chữ M và chữ C lồng vào nhau.
Mặt sau của thẻ:
 Dải băng từ có khả năng lưu trữ các thông tin như: số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ
thẻ, ngân hàng phát hành...
 Dải băng chữ ký: trên dải băng này phải có chữ ký của chủ thẻ để cơ sở chấp
nhận thẻ có thể đối chiếu chữ ký khi thực hiện thanh toán thẻ.
4. ĐẶC ĐIỂM CỦA THẺ THANH TOÁN:
 Tính linh hoạt : Thẻ thanh toán có nhiều loại, đa dạng, phong phú về hạn mức tín
4



dụng của thẻ nên thích hợp với hầu hết mọi đối tượng khách hàng, từ những
khách hàng có thu nhập thấp (thẻ thường) cho tới những khách hàng có thu nhập
cao (thẻ vàng), khách hàng có nhu cầu rút tiền mặt (thẻ rút tiền mặt), cho tới nhu
cầu du lịch giải trí…, thẻ cung cấp cho khách hàng độ thoả dụng tối đa, thoả mãn
nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng.
 Tính tiện lợi: thanh toán bất cứ nơi nào không cần mang theo tiền mặt
 Tính an toàn và nhanh chóng:Không tính đến những vấn nạn ăn cắp và làm giả
thẻ thanh toán trên toàn cầu hiện nay, có thể nói người sử dụng thẻ thanh toán
rất yên tâm về số tiền của mình trước nguy cơ bị mất cắp do móc túi hay trộm
cắp. Ngay cả trong trường hợp thẻ bị lấy cắp, ngân hàng cũng bảo vệ tiền cho
chủ thẻ bằng số PIN, ảnh và chữ ký trên thẻ… nhằm tránh khả năng rút tiền của
kẻ ăn trộm.
5.PHÂN LOẠI
Có thể phân loại như sau:
5.1Phân loại theo công nghệ sản xuất:Có3loại
 Thẻ khắc chữ nổi: Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin cần
thiết. Ngày nay, người ta không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật của nó
quá thô sơ, dễ bị lợi dụng, làm giả, mà kết hợp với những kỹ thuật mới như băng
từ hoặc chip thông minh.
 Thẻ băng từ: được sản xuất dựa trên kỹ thuật những thông tin của thẻ và chủ thẻ
được mã hóa trên băng từ mặt sau của thẻ.
 Thẻthôngminh: Đây là loại thẻ thế hệ mới nhất dựa trên kỹ thuật xử lý tin học ,
một chíp điện tử hoạt động như một máy tính nhỏ gắn liền với thẻ có tình an toàn
và bảo mật cao. Loại thẻ này chỉ mới sử dụng phổ biến ở các nước phát triển.
5.2 Theo chủ thể phát hành:
 Thẻ do ngân hàng phát hành: Là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khách
hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân hàng hoặc sử dụng số tiền do
ngân hàng cấp tín dụng. Đây là loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay,
không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ như:
5



VISA, MASTERCARD, JCB …
 Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: là các loại thẻ du lịch giải trí của
các tập đoàn kinh doanh lớn, hoặc cũng có thể do các công ty xăng dầu, các cửa
hiệu lớn phát hành…Ví dụ thẻ Dinners club, Amex..
5.3 Theo tính chất thanh toán của thẻ:
 Thẻ tín dụng (Creadit Card)
Thẻ tín dụng là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, cho phép người sử
dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Khoảng thời gian từ khi thẻ được dùng để
thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ tới lúc chủ thẻ trả tiền cho ngân hàng phụ
thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau.
Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn, thời gian này sẽ trở
thành thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được miễn lãi đối với số dư nợ cuối kỳ.
Tuy vậy, nếu hết thời gian này mà toàn bộ số dư nợ cuối kỳ chưa được thanh toán cho
ngân hàng thì chủ thẻ sẽ chịu những khoản phí và lãi trả chậm.
Khi toàn bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho ngân hàng, hạn mức tín dụng của
chủ thẻ được khôi phục như ban đầu. Đây là tính chất “tuần hoàn” (revolving) của thẻ
tín dụng.
Các tổ chức tài chính như ngân hàng hay các công ty tài chính phát hành thẻ tín
dụng cho khách hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách
hàng.
Khả năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên tổng hợp nhiều thông tin khác
nhau như: thu nhập, tình hình chi tiêu, mối quan hệ sẵn só đối với các tổ chức tài
chính, địa vị xã hội…của khách hàng. Do đó, mỗi khách hàng có những hạn mức tín
dụng khác nhau.
Cũng từ việc thẩm định và phân loại khách hàng mà các ngân hàng cũng như các
tổ chức tài chính đưa ra nhiều sản phẩm thẻ tín dụng đa dạng: ví dụ thẻ tín dụng Visa,
MasterCard có thẻ Vàng (Gold) và thẻ Chuẩn (Classic/Standard)…
Khi sử dụng thẻ, thay bằng tiền mặt, chủ thẻ xuất trình thẻ tín dụng của mình tại

các điểm cung ứng hàng hóa, dịch vụ có chấp nhận thẻ (gọi là đơn vị chấp nhận thẻ)
6


để thanh toán.
 Thẻ thanh toán (Charge Card)
Đề đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, các tổ chức thẻ đưa ra một loại sản
phẩm thẻ tín dụng đặc biệt, phục vụ những khách hàng có thu nhập cao, có khả năng
tài chính vững vàng và có mức chi tiêu lớn. Đó là thẻ thanh toán (charge card).
Nếu như thẻ tín dụng thông thường cho phép khách hàng có thể trả một phần số dư
nợ cuố kỳ vào ngày đến hạn với điều kiện đảm bảo mức thanh toán tối thiểu thì đối
với thẻ thanh toán, chủ thẻ sẽ phải thanh toán toàn số tiền phát sinh cho ngân hàng
khi vào ngày đến hạn. Tuy nhiên, để đổi lại, khi sử dụng thẻ thanh toán, khách hàng
được hưởng một hạn mức tín dụng đặc biệt cao và không bị chi phối bởi hạn mức tín
dụng.
 Thẻ ATM
Thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép chủ thẻ tiếp cận
trực tiếp tới tài khoản tại ngân hàng từ máy rút tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện
nhiều giao dịch khác nhau tại máy rút tiền tự động ATM.
Bao gồm: xem số dư tài khoản, chuyển khoản, rút tiền, in sao kê, xem các thông
tin quảng cáo... Hệ thống máy ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài
khoản của mình ngay tại các máy ATM và tự mình thực hiện các dịch vụ ngân hàng
khác.
Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ ATM. Bằng cách nhập mã số cá
nhân (PIN), chủ thẻ có thể tiếp cận tài khoản cá nhân của mình tại ngân hàng mọi nơi,
mọi lúc, 24/24h mỗi ngày và 7 ngày trong tuần. Điều này có nghĩa là cùng với thẻ
ATM, hệ thống ATM đã cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch
ngoài giờ làm việc, ngoài trụ sở của ngân hàng và khả năng tự phục vụ.
Theo thời gian, các tổ chức đã tự động kết nối hệ thống ATM với nhau tạo nên một
mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực hiện giao dịch tại nhiều máy

ATM hơn. Hiện nay hai hẹ thống ATM lớn nhất trên thế giới là CIRRUS của
MasterCard và PLUS của Visa, sẵn sàng cho phép thẻ của các ngân hàng và những tổ
chức tín dụng khác kế nối, tạo nên một mạng lưới rộng khắp toàn cầu.
7


 Thẻ ghi nợ (Debit card)
Với đặc tính thuận tiện, thẻ ATM đã nhanh chóng trở thành sản phẩm rất phổ biến,
đặc biệt có tốc độ tăng trưởng cao tại các thị trường đang phát triển. Tuy nhiên, sử
dụng thẻ ATM, chủ thẻ chỉ có thể tiếp cận với tài khoản của mình từ những máy rút
tiền tự động. Đây là một hạn chế bởi tài khoản cá nhân chưa được tận dụng triệt để
trong thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ. Chính vì lý do này,
thẻ ghi nợ ra đời.
Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ cũng là một phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt. Tuy nhiên, nói về mức độ có thể thay thế tiền mặt, thẻ ghi nợ chiếm ưu thế
vượt trội hơn thẻ tín dụng. Điều này có được bởi tính chất của thẻ ghi nợ.
Bất cứ khách hàng nào có tài khoản mở tại ngân hàng đều có thẻ phát hành thẻ ghi
nợ hoặc trong trường hợp chưa có tài khoản, khách hàng muốn phát hành thẻ ghi nợ
thì bản thân thẻ ghi nợ này sẽ gắn liền với một tài khoản của khách hàng.
Thẻ ghi nợ cho phép khách hàng tiếp cận với số dư trong tài khoản của mình qua
hệ thống kết nối trực tuyến để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tài các đơn vị chấp nhận
thẻ hoặc thực hiện các giao dịch liên quan tới tài khoản tại máy rút tiền tự động
ATM. Như vậy, mức chi tiêu của chủ thẻ chỉ phụ thuộc vào số dư trong tài khoản.
Ngân hàng giữ vai trò cung cấp dịch vụ cho chủ thẻ và thu phí dịch vụ. đối với thẻ
ghi nợ, giữa ngân hàng và khách hàng không diễn ra quá trình cho vay, không có việc
phân loại khách hàng để được hưởng hạn mức tín dụng nên khách hàng chỉ cần có tài
khoản tại ngân hàng đề có thể tiếp cận tới sản phẩm thẻ ghi nợ của ngân hàng.
5.4 Theo phạm vi lãnh thổ
 Thẻ nội địa: Là thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một quốc gia do vậy
đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó. Hoạt động của loại thẻ này

rất đơn giản, chỉ do một ngân hàng hoặc một tổ chức điều hành từ việc phát hành,
xử lý trung gian cho đến thanh toán. Thẻ có nhược điểm là việc sử dụng chỉ giới
hạn trong phạm vi một quốc gia vì vậy việc kinh doanh sẽ không có hiệu quả nếu
số cơ sở chấp nhận thẻ ít.
 Thẻ quốc tế: Thẻ sử dụng các loại ngoại tệ mạnh để thanh toán, được chấp nhận
8


trên phạm vi toàn cầu. Thẻ được hỗ trợ quản lý trên toàn thế giới bởi các tổ chức
tài chính lớn như MASTERCARD, VISA… hoạt động thống nhất, đồng bộ. Thẻ
quốc tế rất được ưa chuộng vì tính an toàn tiện lợi của nó.
5.5. Theo mục đích và đối tượng sử dụng
 Thẻ kinh doanh: Là loại thẻ phát hành cho nhân viên của một công ty sử dụng,
nhằm giúp công ty quản lý chặt chẽ việc chi tiêu của các nhân viên vì mục đích
chung của công ty trong kinh doanh.
 Thẻ du lịch và giải trí: Là loại thẻ được phát hành để phục vụ cho ngành du lịch,
giải trí.
5.6. Theo hạn mức của thẻ
 Thẻ thường: Là một loại thẻ tín dụng nhưng mang tính phổ thông, phổ biến, được
sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
 Thẻ vàng: Là loại thẻ ưu hạng phù hợp với mức sống và nhu cầu tài chính của
khách hàng có thu nhập cao. Thẻ được phát hành cho các đối tượng có uy tín, có
khả năng tài chính lành mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn. Điểm khác biệt của thẻ vàng
so với thẻ thường là hạn mức tín dụng lớn.
6. VAI TRÒ CỦA THẺ THANH TOÁN
Mặc dù ra đời sau các phương tiện thanh toán khác, nhưng thẻ thanh toán ngày
càng khẳng định vai trò của nó trong thanh toán nhờ vào những vai trò và tính năng
ưu việt của nó so với các phương tiện thanh toán khác.
6.1 Đối với người sử dụng thẻ:
 Sự linh hoạt và tiện lợi trong thanh toán ở trong và ngoài nước:

Tiện ích nổi bật cho người sử dụng thẻ là sự tiện lợi và tính linh hoạt hơn hẳn các
phương tiện thanh toán khác. Chủ thẻ có thể thực sự cảm nhận được điều này khi đi
du lịch hay công tác ở nước ngoài. Thẻ thanh toán như Visa, MasterCard và trong
phạm vi nhỏ hơn là Amex và Diners được chấp nhận trên toàn thế giới. Điều này có
nghĩa là, khi dự định ra nước ngoài, thay vì phải chuẩn bị trước một lượng ngoại tệ
hay séc du lịch,chủ thẻ có thể mang theo thẻ thanh toán để thanh toán cho mọi nhu
cầu chi tiêu của mình.
9


 Tiết kiệm thời gian mua, giá trị thanh toán cao hơn:
Thẻ thanh toán có nhiều tiện ích hơn tiền mặt hay séc du lịch cả trước, trong và sau
chuyến đi.
Với séc du lịch, chủ thẻ phải dự định trước xem sẽ tiêu bao nhiêu và phải đến ngân
hàng làm thủ tục để mua séc trước chuyến đi, đồng thời thanh toán tiền trước cho
ngân hàng cùng với một khoản phí dù trên thực tế họ chưa hề sử dụng séc này. Khi
trở về, nếu chưa sử dụng hết số tiền trên séc, hoặc người có séc lại phải mất thời gian
và chi phí để đến ngân hàng làm thủ tục đổi lại từ séc thành tiền hoặc sẽ chấp nhận
rủi ro về tỷ giá khi giữ séc đó lại cho lần sử dụng sau.
Sử dụng thẻ thanh toán đơn giản hơn rất nhiều. Chủ thẻ không cần lên kế hoạch
chi tiêu trước, cũng không cần phải trả tiền truớc cho ngân hàng. Sử dụng thẻ, chủ thẻ
được phép chi tiêu trước, trả tiền sau. Tài khoản của thẻ chỉ bị ghi nợ khi nào chủ thẻ
thực sự chi tiêu và thanh toán bằng thẻ. Thêm nữa, tỷ giá khi bạn thanh toán bằng thẻ
cũng thường có lợi hơn so với sửdụng tiền mặt hay séc du lịch. Như vậy, không
những giúp người sử dụng thẻ tiết kiệm tiền, thẻ còn giúp họ tiết tiệm thời gian mua
hàng cũng như thời gian chờ làm các thủ tục với séc du lịch hay tiền mặt, hạn chế
được rủi ro.
 Khoản tín dụng tự động, tức thời:
Khả năng mua hàng không bị gò bó là một tiện ích của thẻ thanh toán. Dù việc
mua bán có được dự tính trước hay không thì thẻ thanh toán cũng là một nguồn tín

dụng tự động giúp cho các chủ thẻ khỏi phải đến ngân hàng xin vay. Thường thì
người ta có tâm lý ngại đến ngân hàng làm thủ tục xin vay, và họ sẽ đánh giá cao thẻ
như là một khoản tín dụng ngắn hạn, thủ tục phát hành đơn giản (thậm chí có thẻ phát
hành qua đường bưu điện). Hơn thế nữa, chủ thẻ chỉ phải thanh toán một phần nhỏ
(hiện quy định là 20%) khi đến hạn thanh toán (thường là một tháng), số còn lại chủ
thẻ có thể trả sau.
 Bảo vệ người tiêu dùng:
Ở các nước phát triển có luật tín dụng tiêu dùng (chẳng hạn như Luật tín dụng tiêu
dùng ở Anh ban hành năm 1974), quy định khách hàng được bảo vệ đối với những
10


món hàng có giá trị từ 100-15.000 bảng Anh thanh toán bằng thẻ tín dụng. Nếu món
hàng đó không đủ tiêu chuẩn chất lượng thì chủ thẻ có thẻ yêu cầu được ngân hàng
phát hành thẻ bảo vệ, thậm chí có thể được bồi thường. Một số ngân hàng phát hành
còn có chế độ bảo hiểm kèm theo: có hàng hoá thay thế hàng bị mất cắp, hư hỏng hay
thất lạc, trả tiền bảo hiểm tai nạn hoặc tử vong đối với hàng hoá hay dịch vụ thanh
toán bằng thẻ thanh toán. Hơn thế nữa, ngân hàng cũng có chế độ ưu đãi cho chủ thẻ
khi sử dụng một số dịch vụ về sức khoẻ (ví dụ như PPP, BUPA ở Anh), câu lạc bộ
hoặc có chế độ thưởng điểm sau mỗi lần sử dụng thẻ và số điểm này có thể cộng dồn
lại để đổi lấy một số hàng hoá khác.
 Rút tiền mặt:
Chủ thẻ có thể rút tiền mặt một cách nhanh chóng ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ lúc
nào tại ngân hàng hoặc qua các máy rút tiền tự động (ATM) và sử dụng một số dịch
vụ khác do máy ATM cung cấp như: trả nợ vay, chuyển khoản, xem số dư tài
khoản…
 Kiểm soát được chi tiêu:
Với sao kê hàng tháng do ngân hàng gửi đến chủ thẻ hoàn toàn có thể kiểm soát
được chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời tính toán được phí và lãi nếu trả cho
mỗi khoản giao dịch.

Giá cho tất cả những lợi ích mà thẻ mang lại là khoản phí thường niên mà chủ thẻ
phải chịu và tỷ lệ lãi nếu khoản chi tiêu không được trả ngân hàng đúng hạn, lãi suất
này có thể cao ngang với lãi suất của một khoản vay thấu chi. Tuy nhiên, với tất cả
những lợi ích mà thẻ mang lại cho chủ thẻ thì khoản phí này không đáng kể, có thể
chấp nhận được.
6.2 Đối với cơ sở chấp nhận thẻ:(CSCNT)
 Đảm bảo chi trả:
Đối với người bán lẻ, thẻ thanh toán thuận lợi hơn so với séc. Trường hợp khách
hàng muốn thanh toán bằng séc cho một món hàng có giá trị lớn hơn mức đảm bảo
của tờ séc thì cửa hàng đứng trước sự lựa chọn khó khăn: hoặc là chấp nhận thanh
toán séc với số tiền lớn hơn hạn mức được đảm bảo và chịu rủi ro nếu ngân hàng phát
11


hành từ chối thanh toán hoặc sẽ không bán được hàng, doanh số bán sẽ giảm. Với thẻ
thanh toán, CSCNT có thể yên tâm là đã được ghi có vào tài khoản ngay khi thông tin
được truyền qua hệ thống máy móc điện tử đến ngân hàng thanh toán. Trường hợp
phải xin cấp phép thì việc xin cấp phép từ ngân hàng phát hành cũng rất nhanh chóng
và đảm bảo qua các máy cấp phép tự động.
 Tăng doanh số bán hàng hoá, dịch vụ và thu hút thêm khách hàng
Chấp nhận thanh toán thẻ là cung cấp cho khách hàng một phương tiện thanh toán
nhanh chóng, tiện lợi do vậy khả năng thu hút khách hàng sẽ tăng lên, doanh số cung
ứng hàng hoá dịch vụ của CSCNT cũng tăng lên. Thẻ thanh toán tạo cho CSCNT một
khả năng cạnh tranh lớn hơn so với các đối thủ khác. Môi trường văn minh, hiện đại
trong giao dịch, mua bán khi thanh toá thẻ là yếu tố quan trong để thu hút khách
hàng., đặc biệt là khách du lịch nước ngoài, các nhà đầu tư.
 Nhanh chóng thu hồi vốn:
Khi dữ liệu về giao dịch thẻ được truyền đến ngân hàng hoặc CSCNT nộp hoá
đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng thì tài khoản của CSCNT được ghi có ngay. Số tiền
này họ có thể sử dụng ngay vào mục đích quay vòng vốn hoặc các mục đích khác.

Nhanh chóng luân chuyển vốn là điểm thuận lợi hơn so với séc, séc thường phải mất
một thời gian nhất định mới được thanh toán.
 An toàn, bảo đảm
Giao dịch thẻ được trả tiền ngay vào tài khoản của CSCNT , nhưng dù chưa được
thanh toán ngay thì thanh toán thẻ cũng ít có nguy cơ bị mất cắp hơn là séc hay tiền
mặt. Một ngăn kéo đầy séc hay tiền mặt có giá trị lớn sẽ là mục tiêu của những nhân
viên thiếu trung thực và kẻ trộm, nhưng cũng với một số tiền như vậy được thể hiện
trên hoá đơn thẻ thì sẽ chảng có ai quan tâm đến vì nó chẳng có ý nghĩa với ai khác
ngoài CSCNT.
 Nhanh chóng giao dịch với khách hàng:
Khi giao dịch tiền mặt, việc đếm tiền, ghi chép sổ sách là rất phức tạp. Còn giao
dịch thẻ, với các thiết bị chuyển ngân điện tử tại điểm bán hàng EFTPOS (Electronic
funds transfer at point of sale) được sử dụng ngày càng nhiều thì đơn giản, người ta
12


chỉ việc đưa băng từ của thẻ qua thiết bị này, mọi thông tin trên thẻ được nhận dạng,
giao dịch được thực hiện. Hệ thốngEFTPOS giúp đẩy nhanh quá trình xử lý khi bán
hàng, giúp CSCNT cung cấp cho nhà phát hành thẻ những thông tin về việc bán hàng
mà không phải xử lý thủ công trên giấy tờ.
 Giảm chi phí bán hàng
Thanh toán thẻ giúp CSCNT giảm đáng kể các chi phí cho việc đếm, bảo quản
tiền, quản lý tài chính nhờ vậy cũng giảm được chi phí bán hàng.
Điểm bất đồng giữa CSCNT và ngân hàng là về khoản phí mà CSCNT phải trả cho
ngân hàng. Dù các máy móc thiết bị thanh toán thẻ được các ngân hàng cung cấp và
bảo quản miễn phí, nhưng tuỳ theo quy định của ngân hàng phát hành, CSCNT vẫn
phải chịu một khoản phí tính trên giá trị giao dịch: Khoảng 1,6% giá trị giao dịch đối
với thẻ phát hành ở Anh, 3-4% đối với thẻ Amex (ở bất cứ nước nào)1. Điều này có
hợp lý không khi mà các CSCNT cũng mang lại không ít lợi nhuận cho ngân hàng?
(Ở Việt Nam thì tỷ lệ phí này dao động từ 2,5- 3,6%2)

6.3 Đối với ngân hàng
Hơn ai hết, ngân hàng chính là người được hưởng lợi từ hoạt động phát hành và
thanh toán thẻ. Điều này thể hiện trên các mặt sau:
 Lợi nhuận ngân hàng:
Lợi ích lớn nhất mà thẻ đem lại cho ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ là lợi
nhuận. Thu nhập từ thẻ mà ngân hàng có được là: phí CSCNT, phí sử dụng thẻ (phí
thường niên) và lãi suất cho khoản tín dụng mà chủ thẻ chậm thanh toán. Đó là chưa
kể các khoản thu từ các dịch vụ ngân hàng và đầu tư kèm theo.
Một yếu tố nữa có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng từ thẻ đó là lòng trung
thành của khách hàng. Một khi khách hàng đã có tài khoản hoặc thẻ tại ngân hàng thì
hiếm khi họ lại muốn chuyển sang một tổ chức đối thủ khác. Lợi dụng tâm lý này của
khách hàng, ngân hàng có thể tăng lãi suất tương đối cho khoản tín dụng thanh toán
thẻ để tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng mà không sợ mất khách hàng đồng loạt.
Ngoài ra, kinh doanh thẻ còn tạo ra sự “hỗ trợ chéo” rất có hiệu quả cho ngân
hàng. Tỷ lệ lợi nhuận tương đối cao từ kinh doanh thẻ có thể bù đắp cho những hoạt
13


động kém sinh lời hơn của ngân hàng như kinh doanh trên tài khoản vãng lai (thường
lãi suất thấp).
 Dịch vụ toàn cầu:
Là thành viên của một tổ chức thẻ quốc tế như Visa hay MasterCard, một ngân
hàng dù là nhỏ nhất trên thế giới cũng có thể cho khách hàng một phương tiện thanh
toán quốc tế có chất lượng như bất cứ đối thủ cạnh tranh lớn nào. Ví dụ, mỗi ngày
Fleming/Save&Prosper (một ngân hàng ở Anh) phải thanh toán các giao dịch bằng
thẻ tín dụng với rất nhiều ngân hàng trên toàn thế giới. Nhờ mối quan hệ với các tổ
chức thẻ quốc tế, ngân hàng này chỉ phải thực hiện duy nhất một giao dịch thông qua
tổ chức thẻ quốc tế Visa để trả tiền cho tất cả các khoản này, việc phân bổ tới các
ngân hàng khác có liên quan sẽ do Visa thực hiện. Sau lợi nhuận, khả năng cung cấp
dịch vụ toàn cầu là lợi ích lớn nhất cho ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tham

gia vào quá trình toàn cầu hoá, hội nhập với cộng đồng quốc tế.
 Hiệu quả cao trong thanh toán:
Bằng việc khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ, ngân hàng sẽ thực hiện số giao
dịch séc, tiền mặt ít hơn. Điều này mang lại cho ngân hàng nhiều lợi ích: thực hiện số
giao dịch ít hơn, những thông tin thường nhật được cung cấp bởi các tổ chức thẻ quốc
tế Visa, MasterCard dưới hình thức điện tử làm cho việc ghi nợ tương ứng vào các tài
khoản của khách hàng được nhanh hơn, đơn giản hơn… hoạt động của ngân hàng
nhờ vậy cũng hiệu quả hơn.
 Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng:
Thẻ thanh toán ra đời, làm phong phú thêm các dịch vụ ngân hàng, mang đến cho
ngân hàng một phương tiện thanh toán đa tiện ích, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của
khách hàng. Không chỉ có vậy, ở các nước phát triển, phát triển dịch vụ phát hành và
thanh toán thẻ ngân hàng có thêm cơ hội để phát triển các dịch vụ khác song song
như: đầu tư hoặc bảo hiểm cho các sản phẩm. Thông tin về các loại hình dịch vụ này
sẽ được gửi đến cho khách hàng sử dụng thẻ cùng với sao kê hàng tháng của ngân
hàng.

Theo thống kê, tại Fleming/Save & Prosper có tới 30% chủ thẻ đã mua các

dịch vụ này3.
14


 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng:
Đưa thêm một loại hình thanh toán mới phục vụ khách hàng buộc ngân hàng phải
không ngừng hoàn thiện: nâng cao trình độ, trang bị thêm trang thiết bị kỹ thuật công
nghệ để cung cấp cho khách hàng những điều kiện tốt nhất trong thanh toán, đảm bảo
uy tín, sự an toàn, hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng.
 Tăng nguồn vốn cho ngân hàng:
Nhờ thẻ thanh toán số lượng tiền gửi của khách hàng để thanh toán thẻ và số lượng

tài khoản của các CSCNT cũng tăng lên. Với lượng giao dịch thẻ tương đối lớn, các
tài khoản này sẽ tạo cho ngân hàng một lượng vốn bằng tiền đáng kể, cũng có thể coi
là một nguồn sinh lợi cho ngân hàng.
Là một phương tiện thanh toán hiện đại, thuận tiện, lợi ích về mọi mặt đối với
nhiều lĩnh vực và nhiều đối tượng trong nền kinh tế, đặc biệt trong công cuộc toàn
cầu hoá. Ngày nay, trên thế giới thanh toán bằng thẻ đã trở thành xu thế tất yếu. Ở
các nước phát triển, trên 80% lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ bán lẻ được thực hiện
bằng thẻ4. Với phạm vi thanh toán rộng như vậy, vai trò của thẻ chắc chắn sẽ ngày
càng được khẳng định và mở rộng.
6.4 Đối với nền kinh tế - xã hội:
Nhờ những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực công nghệ thông tin những năm gần
đây, công dụng của thẻ thanh toán ngày càng được phát triển và mở rộng. Thẻ ngày
càng thểhiện vai trò lớn của mình trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Điều này được
thể hiện trên các mặt sau:
 Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông
Là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, vai trò đầu tiên của thẻ là làm
giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Ở những nước phát triển, thanh toán tiêu
dùng bằng thẻ chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng số các phương tiện thanh toán. Nhờ
vậy mà khối lượng cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông giảm đáng kể.
 Tăng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế
Hầu hết mọi giao dich thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện
và thanh toán trực tuyến (ONLINE) vì vậy tốc độ chu chuyển, thanh toán nhanh hơn
15


nhiều so với những giao dịch qua các phương tiện thanh toán khác như: séc, uỷ nhiệm
thu, uỷ nhiệm chi… Thay vì thực hiện các giao dịch trên giấy tờ, với giao dịch thẻ,
mọi thông tin đều được xử lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận tiện, nhanh chóng.
 Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước
Trong thanh toán thẻ, các giao dịch đều nằm dưới sự kiểm soát của ngân hàng.

Nhờ đó các ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát được mọi giao dịch, tạo nền tảng cho
công tác quản lý thuế của nhà nước, thực hiện chính sách ngoại hối quốc gia. Thực tế
hiện nay, mọi chế độ, chính sách liên quan đến thẻ đều dựa trên chính sách quản lý
ngoại hối của nhà nước.
 Thực hiện biện pháp " kích cầu" của nhà nước
Sự tiện lợi mà thẻ mang lại cho người sự dụng, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân hàng…
khiến cho ngày càng có nhiều người ưa chuộng sử dụng thẻ, tăng cường chi tiêu bằng
thẻ. Điều này làm cho thẻ trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần thực hiện biện
pháp “kích cầu” của nhà nước. Khuyến khích phát hành, thanh toán thẻ cũng là
khuyến khích tăng cầu tiêu dùng. Điều này cũng tạo nên một kênh cung ứng vốn hiệu
quả của các ngân hàng thương mại.
 Cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch và đầu tư nước
ngoài
Thanh toán bằng thẻ là giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp cận với một phương
tiện văn minh của thế giới do đó sẽ tạo ra một môi trường thương mại văn minh, hiện
đại hơn. Đây cũng là một yếu tố thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh việc đem lại lợi ích to lớn cho xã hội, thẻ được sử dụng ngày càng rộng
rãi cũng là nhờ những tiện ích thiết thực mà nó đem lại cho những đối tượng liên
quan trực tiếp: chủ thẻ, CSCNT, ngân hàng.

16


PHẦN II, SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THẺ THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM
1. Triển khai thẻ tại các Ngân hàng tại Việt Nam
Xu hướng liên kết giữa ngân hàng với các đơn vị sản xuất kinh doanh để phát hành thẻ
thanh toán thay thế tiền mặt ngày càng phát triển. Tuy nhiên, chức năng chi trả của
những chiếc thẻ này vẫn còn manh mún và nhiều hạn chế.
Gần đây, tại TP HCM, một số ngân hàng đã đua nhau tung ra thị trường nhiều loại thẻ
thanh toán thay thế tiền mặt bằng cách liên kết với doanh nghiệp. Ngân hàng thương

mại cổ phần Á Châu (ACB) kết hợp với hệ thống siêu thị Citimart phát hành thẻ ACB Citimart visa electron, cùng Công ty Én Việt cho ra đời thẻ Cát Đằng ACB e.Card.
Ngân hàng Đông Á (EAB) cùng hãng taxi Mai Linh và Công ty bảo hiểm nhân thọ
Manulife VN phát hành 2 loại thẻ thanh toán cùng tên. Dự kiến, trong thời gian tới,
EAB còn liên kết với Công ty dệt may Việt Tiến và dịch vụ viễn thông Viettel.
Hàng chục loại thẻ được các ngân hàng liên kết với doanh nghiệp phát hành ra thị
trường để thanh toán, tên gọi không thống nhất và chức năng cũng bị hạn chế. Chủ thẻ
ACB - Citimart visa electron chỉ sử dụng được trong hệ thống siêu thị, các điểm bán lẻ,
nhà hàng... trong hệ thống các điểm chấp nhận thanh toán thẻ Visa electron, không thể
dùng ở những nơi không có máy chấp nhận loại thẻ này hay dùng đi taxi Mai Linh.
Ngược lại, những chiếc thẻ Đông Á - Mai Linh không thể dùng để mua sắm trong siêu
thị, nơi không có điểm chấp nhận thẻ EAB.
Thực trạng trên là do doanh nghiệp muốn quảng bá thương hiệu của mình nên mỗi loại
thẻ mang một tên gọi khác, chứ thực chất chức năng là sử dụng để thanh toán ở các
điểm chấp nhận thẻ của Đông Á. Ta phải thừa nhận, hạn chế đối với thị trường thẻ VN
hiện nay là về thiết bị và công nghệ. Nhiều ngân hàng không thể đáp ứng hết nhu cầu
của người dân. Một số điểm thanh toán chỉ chấp nhập các loại thẻ của ngân hàng này mà
không thể chấp nhận thẻ của ngân hàng khác. Phương thức thanh toán bằng thẻ hạn chế
nên người dân vẫn thích sử dụng tiền mặt.Theo ông Lê Vũ Kỳ, Phó giám đốc ACB,
người dân ngày càng thích sử dụng thẻ để thanh toán trong mua bán, vì an toàn
hơn giữ tiền mặt. Do số lượng tài khoản cá nhân tại ngân hàng còn rất khiêm tốn, nên
việc liên kết với doanh nghiệp phát hành thẻ là biện pháp khuyến khích người dân giao
dịch, thanh toán qua thẻ nhiều hơn. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn chưa nhận được sự
hợp tác chặt chẽ của doanh nghiệp trong việc trả thu nhập qua thẻ Giám đốc tập đoàn
Visa khu vực Đông Dương Gordon Cooper cho biết, theo kết quả nghiên cứu về thị
trường thẻ VN, có 1,5 triệu người tham gia các giao dịch thanh toán có sử dụng thẻ. Với
dân số trên 80 triệu người, trung bình cứ 54 người VN chỉ có một thẻ thanh toán. Con số
chi tiêu của người VN qua thẻ Visa chỉ đạt 0,13% tổng chi tiêu, trong khi tỷ lệ này ở
Malaysia là 7% và Philipines là 5%. "Điều này cho thấy, thị trường thanh toán bằng thẻ
của VN vẫn bị bỏ ngỏ. Các ngân hàng VN vì nhiều lý do đang khai thác thị trường thẻ
một cách lẻ tẻ, manh mún và thiếu hợp tác"

Lược sử về thẻ thanh toán tại Việt Nam

17


Năm 1990 hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa giữa ngân hàng Pháp BFCE và Ngân
hàng Ngoại thương VN đã mở đầu cho sự du nhập của thẻ thanh toán vào VN.
•Năm 1995 cùng với Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM, Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Á Châu, Ngân hàng Liên doanh First-Vina-Bank và Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Exim bank được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN cho phép chính thức gia
nhập tổ chức thẻ quốc tế Mastercard.
•Năm 1996 Ngân hàng Ngoại thương chính thức là thành viên của tổ chức Visa
International. Tiếp sau đó là Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Công thương VN cũng lần
lượt là thành viên chính thức của tổ chức Visa Card, trong đó Ngân hàng Ngoại
thương và Á Châu thực hiện thanh toán trực tiếp với tổ chức này. Cũng trong năm
này Ngân hàng Ngoại thương VN (Vietcombank) phát hành thí điểm thẻ ngân hàng
đầu tiên, đồng thời Hội các ngân hàng thanh toán thẻ VN cũng được thành lập với bốn
thành viên sáng lập gồm Vietcombank, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu,
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu (Exim bank) và First Vinabank.
•Hành lang pháp lý cho hoạt động thẻ lúc ấy chỉ là quyết định số 74 do Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ký ban hành ngày10/4/1993, qui định “thể lệ tạm thời về phát
hành và sử dụng thẻ thanh toán”. Việc ứng dụng thẻ ở VN vào thời điểm đó còn bị
giới hạn rất nhiều về cơ sở pháp lý, điều kiện kinh tế, hạ tầng kỹ thuật…
•Thị trường thẻ năm 2006, 2007 trở lên sôi động vì VN đã bước vào sân chơi rộng là
WTO, thị trường tài chính VN càng cạnh tranh quyết liệt hơn khi có thêm nhiều ngân
hàng nước ngoài đầu tư vào đây và dịch vụ thẻ tín dụng, thẻ ATM là một loại “vũ khí”
đắc lực để ngân hàng thâm nhập thị trường.
Tình hình phát triển sản phẩm thẻ tại Việt Nam
Đề án thanh toán không sử dụng tiền mặt, được đặt trong mối quan hệ với kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 của Chính phủ và phù hợp

với Đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ở
Việt Nam, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh về chất và lượng trong thanh toán không
dùng tiền mặt với các mục tiêu: đáp ứng nhu cầu thanh toán của nền kinh tế với các
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt an toàn, hiệu quả, sử dụng thuận tiện, có
khả năng từng bước thay thế tiền mặt trong lưu thông; tăng cường năng lực cạnh tranh
của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trên thị trường; góp phần thực thi có hiệu
quả chính sách tiền tệ quốc gia; nâng cao hiệu quả giám sát của các cơ quan quản lý
nhà nước, minh bạch hóa nền kinh tế, góp phần tích cực vào công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí; thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam; đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Phấn đấu đạt được môi trường thanh toán hiện đại,
an toàn, hiệu quả và vững chắc về cơ sở pháp lý ở Việt Nam vào năm 2020.
- Một số chỉ tiêu về hoạt động thanh toán đến năm 2020
- Đến cuối năm 2010 đạt mức phát hành 15 triệu thẻ, 70% các trung tâm thương mại,
siêu thị, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tự chọn v.v... lắp đặt các thiết bị chấp nhận
18


thanh toán thẻ. Phấn đấu đến năm 2020 con số này đạt lần lượt là 30 triệu thẻ và 95%.
- Đến năm 2010 tỷ lệ tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán không quá 18%. Đến năm
2020 tỷ lệ này phấn đấu khoảng 15%.
- Đạt mức 20 triệu tài khoản cá nhân vào cuối năm 2010; 70% cán bộ hưởng lương
ngân sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp, tư nhân thực
hiện trả lương qua tài khoản. Đến năm 2020 đưa những con số này lên lần lượt là 45
triệu tài khoản cá nhân (bình quân mỗi người có 0.5 tài khoản - ở một số nước phát
triển mỗi người hiện có hơn 1 tài khoản); 95% cán bộ hưởng lương ngân sách và
80% lao động được trả lương qua tài khoản.
- Đạt mức 80% các khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau thực hiện qua
tài khoản tại Ngân hàng đến cuối năm 2010 và đạt 95% đến năm 2020.
* Định hướng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam đến năm
2020

- Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt phải phù hợp với trình độ phát triển của
nền
kinh tế, hạ tầng kỹ thuật công nghệ và hệ thống thanh toán. Các giải pháp xây dựng
trong
Đề án không mang tính hành chính, áp đặt, gây tác động tiêu cực kìm hãm sự phát
triển
các hoạt động kinh tế - xã hội;
- Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đặt trong mối quan hệ cân bằng giữa lợi
ích chung của cộng đồng và lợi ích của người sử dụng dịch vụ thanh toán, của các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán; những biện pháp hỗ trợ của Nhà nước chỉ mang
tính chất ngắn hạn, nhằm tạo ra bước đột phá ban đầu cho sự phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt;
- Các giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt hướng tới việc sử dụng các
biện pháp kinh tế là chủ yếu nhằm huy động các nguồn lực của khu vực tư nhân để
đầu tư phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Nguồn lực của Nhà nước chỉ được
sử dụng trong trường hợp nguồn lực của tư nhân không đủ lớn hoặc cho những dự án
mang tính chiến lược lâu dài, hình thành cơ sở nền tảng để thúc đẩy sự phát triển
chung của toàn bộ các hoạt động thanh toán của nền kinh tế.

2. Tổng quan và thực trạng
Trong giai đoạn 2001 – 2005, hoạt động thanh toán ngân hàng có sự chuyển
biến mạnh mẽ. Nhiều phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại,
tiện ích ra đời, đáp ứng được nhiều loại nhu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh
toán, với phạm vi tiếp cận mở rộng tới các đối tượng cá nhân và dân cư. Những bước
19


phát triển gần đây trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng thể hiện, như sau:
- Tỷ trọng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán có xu hướng giảm
dần: Năm 1997 là 32,2%; năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là 20,3%, năm 2005 là

19% và đến tháng 3 năm 2006 là 18,5% ;
- Từ nền tảng thanh toán hoàn toàn thủ công (mọi giao dịch thanh toán đều dựa
trên cơ sở chứng từ giấy) chuyển dần sang phương thức xử lý bán tự động sử dụng
chứng từ điện tử, đến nay các giao dịch thanh toán được xử lý điện tử chiếm tỷ trọng
khá lớn. Thời gian xử lý hoàn tất một giao dịch được rút ngắn từ hàng tuần trước đây,
nay chỉ còn vài phút (đối với các khoản thanh toán khác hệ thống, khác địa bàn), chỉ
trong vòng vài giây hoặc tức thời (đối với các khoản thanh toán trong cùng hệ thống,
hoặc cùng địa bàn);
- Dịch vụ tài khoản cá nhân của hệ thống ngân hàng thương mại phát triển
khá nhanh. Số lượng tài khoản cá nhân trong toàn hệ thống ngân hàng cuối năm
2004 tăng gần 10 lần so với năm 2000 (từ 135 nghìn tài khoản lên tới 1 triệu 297
nghìn tài khoản).
Số lượng tài khoản cá nhân đến cuối năm 2004 là 2 triệu; năm 2005 đã tăng lên 5
triệu tài
khoản với số dư khoảng 20.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng trung bình mỗi năm khoảng
150% về số tài khoản và 120% về số dư. Có được kết quả như trên là do nhiều yếu tố
tác động như: môi trường pháp lý trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng có những thay
đổi theo hướng phù hợp hơn, mạng lưới điểm giao dịch phục vụ khách hàng của các
ngân hàng được mở rộng, thanh toán điện tử liên ngân hàng được triển khai có hiệu
quả,... Nhưng có một số lý do chính trực tiếp thúc đẩy sự gia tăng tài khoản cá nhân
trong thời gian qua, đó là: các ngân hàng thương mại đã có nhiều nỗ lực trong quá
trình phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh
toán của khách hàng; chú trọng phát
triển đa dạng và phong phú các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, đặc biệt là các
dịch vụ ngân hàng bán lẻ với những ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến; bắt đầu quan
tâm đến công tác tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo, khuyến mãi cho các sản phẩm dịch
vụ của mình khi đưa ra thị trường. Một số ngân hàng còn chủ động tiếp cận với các
doanh nghiệp có đông nhân viên với mức thu nhập ổn định để thực hiện dịch vụ trả
lương qua tài khoản ngân hàng;
- Đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán không còn giới hạn ở các

ngân hàng, Kho bạc Nhà nước mà còn có cả các tổ chức khác không phải ngân hàng
như Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện. Thị trường dịch vụ thanh toán trở nên cạnh
tranh hơn, không chỉ giữa các ngân hàng mà còn giữa ngân hàng và các tổ chức
không phải ngân hàng làm dịch vụ thanh toán. Mỗi một mô hình tổ chức có những
đặc trưng riêng, lợi thế riêng và chiến lược khách hàng riêng, theo đó mà các nhu cầu
khác nhau của từng loại
20


đối tượng khách hàng được đáp ứng;
- Ứng dụng công nghệ và đầu tư trang thiết bị hạ tầng cơ sở phục vụ cho các
dịch vụ thanh toán ngân hàng đặc biệt phát triển mạnh kể từ 2002. Số lượng máy
giao dịch tự động ATM, các thiết bị POS và mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ ngân
hàng phát triển nhanh. Đến tháng 6 năm 2006, lượng ATM tại hệ thống ngân hàng là
2.154 máy (so với
101 máy năm 2002), số lượng đơn vị chấp nhận thẻ khoảng 12.000 (so với 8.789 đơn
vị
chấp nhận thẻ năm 2003);
- Xu hướng liên doanh liên kết giữa các ngân hàng đã hình thành, giúp cho
nhiều ngân hàng thương mại nhỏ vượt qua những hạn chế về vốn đầu tư vào công
nghệ và trang thiết bị phục vụ cho hệ thống thanh toán. Việc liên doanh liên kết trong
phát hành và
thanh toán thẻ trở thành một yếu tố không nhỏ góp phần vào sự tăng trưởng lượng thẻ
phát hành ra lưu thông gần đây.
Một số kết quả đạt được
* Về phát hành thẻ: Thẻ ngân hàng tiếp tục là phương tiện thanh toán đa dụng, tiện ích,
được các ngân hàng thương mại (NHTM) chú trọng phát triển, có tốc độ phát triển
nhanh chóng. Tính đến cuối tháng 03/2013, đã có 52 tổ chức đăng ký phát hành thẻ, số
lượng thẻ được phát hành của 48 tổ chức đạt trên 57,1 triệu thẻ (tăng 38,5% so với cuối
năm 2011) với khoảng 378 thương hiệu thẻ, trong đó hầu hết là thẻ ghi nợ (chiếm

93,6%), thẻ tín dụng (chiếm 3,1%); tỷ lệ sử dụng thẻ ngân hàng so với các phương tiện
TTKDTM khác đang có xu hướng tăng lên. Dịch vụ thẻ ngân hàng phát triển đã giúp
NHTM có thêm kênh huy động vốn và phát triển thêm các dịch vụ giá trị gia tăng với
nhiều tiện ích khác nhau cung cấp cho khách hàng.
Bên cạnh việc phát triển số lượng thẻ, các NHTM ngày càng quan tâm đến việc cải thiện
chất lượng dịch vụ bằng việc tăng khả năng thanh toán cho chủ thẻ thông qua phát hành
thẻ thanh toán đồng thương hiệu và đa ứng dụng có liên kết với các tổ chức khác, như
trường học, hãng taxi, hãng hàng không…; chú trọng tăng độ an toàn, bảo mật của thẻ
thanh toán như ứng dụng công nghệ Chip trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ,
như phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ chip chuẩn EMV.
* Cơ sở hạ tầng phục vụ cho thanh toán thẻ tiếp tục được đầu tư và cải thiện: Đến
cuối tháng 3/2013, có 46 NHTM đã trang bị máy ATM/POS với số lượng trên 14.300
ATM và hơn 101.400 POS. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chỉ đạo các công ty
chuyển mạch, các ngân hàng phát hành thẻ hoàn thành kết nối liên thông hệ thống ATM
trên phạm vi toàn quốc, qua đó thẻ của một ngân hàng đã có thể sử dụng để rút tiền tại
hầu hết ATM của các ngân hàng khác. Để thực sự phát huy tác dụng làm giảm tiền mặt
trong việc sử dụng thẻ, NHNN đã chỉ đạo triển khai kết nối liên thông mạng lưới POS
và phát triển thanh toán thẻ qua POS. Đến cuối năm 2012, về cơ bản hoàn thành kết nối
21


về kỹ thuật trên toàn quốc, với trên 76.000 POS của trên 720 chi nhánh tổ chức tín dụng
và 20.600 đơn vị chấp nhận thẻ đã được kết nối liên thông; số lượng và giá trị thanh
toán qua POS tiếp tục tăng nhanh, đạt mức gần 21 triệu giao dịch và 95.000 tỷ đồng;
nhận thức về thanh toán thẻ qua POS đã có sự chuyển biến tích cực ở các địa phương,
việc sử dụng thẻ thanh toán qua POS đang dần trở nên phổ biến ở các thành phố lớn;
nhận thức chung của xã hội về TTKDTM đang thay đổi, xu hướng thanh toán bằng thẻ
của dân cư cũng bắt đầu gia tăng. Một số đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) đã có những
nhận thức tích cực về lắp đặt và chấp nhận thanh toán thẻ qua POS.
Trong vài năm gần đây, hoạt động thanh toán thẻ tại thị trường Việt Nam phát triển

ngày càng mạnh, nhờ sự phát triển nhanh chóng của Công nghệ thông tin, ứng dụng
công nghệ mới trong các hoạt động Ngân hàng và sự chuyển hướng tập trung của các
Ngân hàng vào lĩnh vực bán lẻ.
Các số liệu thống kê cho thấy thanh toán qua thẻ đang ngày càng gia tăng thể hiện qua
số lượng thẻ phát hành, giá trị giao dịch qua thẻ và cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động
thanh toán thẻ đều tăng mạnh.
Nếu quí 3-2012 chỉ có 4,95 triệu giao dịch được thực hiện thông qua các loại thẻ với
tổng giá trị 17.730 tỉ đồng, thì hai con số này đã có mức tăng trưởng là 33% và 57%
trong quí 3-2013, đạt 6,57 triệu giao dịch với tổng giá trị là 27.890 tỉ đồng.
Số lượng thẻ phát hành của các ngân hàng trong nước kể cả thẻ thanh toán nội địa và
quốc tế đều tăng. Đến cuối quý 3/2013, tổng số thẻ thanh toán nội địa (thẻ ATM) đã
được phát hành trên cả nước là 57,23 triệu thẻ và số thẻ thanh toán quốc tế (thẻ tín dụng
và ghi nợ quốc tế) được phát hành tại Việt Nam là 5,7 triệu thẻ;
Về cơ sở hạ tầng phục vụ thanh toán thẻ: đến quý III/2013, cả nước có 14.584 máy
ATM và 119.158 thiết bị chấp nhận thẻ; tăng 664 ATM và 29.201 POS so với cùng kỳ
năm trước.
Giá trị trung bình cho một giao dịch thông qua thiết bị chấp nhận thẻ cũng tăng dần
trong ba quí đầu năm. Cụ thể, giá trị giao dịch trung bình/một giao dịch là 4,79 triệu
đồng trong quí 1, quí 2 là 5,24 triệu đồng, và 5,85 triệu đồng trong quí 3.
Tuy nhiên, xét trên tổng thể, tổng giá trị giao dịch qua thiết bị chấp nhận thẻ của người
dân trên cả nước là 36.134 tỉ đồng trong quí 3, thấp hơn nhiều so với tổng giao dịch
246.000 tỉ đồng qua máy ATM trong cùng thời điểm.

22


×