Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

KIỂM TOÁN NGÂN HÀNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.09 KB, 10 trang )

ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
----------

BÀI TIỂU LUẬN
Đề Bài:
Đánh giá và phân tích
Tính tương đồng và khác nhau giữa Kế toán quản trị và
Kiểm soát nội bộ trong ngân hàng

Giảng viên phụ trách: TS. Trần Quốc Thịnh
Người thực hiện:
Nguyễn Huy Thu Hiền
Lớp:
CH16B2

TP. HỒ CHÍNH MINH - 2015


NHNN
KSNB
KTQT
BIDV

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Kiểm soát nội bộ
Kế toán quản trị
Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam



I. Đánh giá và phân tích tính giống nhau giữa Kế toán quản trị và Kiểm soát nội
bộ trong ngân hàng:
1. Hệ thống KSNB và KTQT đều được áp dụng trong nội bộ của ngân hàng
Hệ thống KSNB ngân hàng là tổng thể các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định
nội bộ của đơn vị.
KTQT là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính
trong nội bộ đơn vị kế toán.
2. Hệ thống KSNB và KTQT đều phục vụ cho nhu cầu quản lý
Hệ thống KSNB trong ngân hàng là hoạt động cung cấp thông tin trung thực,
phục vụ kịp thời cho việc ra quyết định quản lý.
KTQT được thực hiện theo yêu cầu của nhà quản trị, cung cấp thông tin hướng về
tương lai nhằm đề ra chiến lược kinh doanh mang lại hiệu quả cao.
3. Việc áp dụng hệ thống KSNB và KTQT vào từng đơn vị phụ thuộc vào
đặc điểm riêng từng đơn vị như mô hình tổ chức, công nghệ, nguồn nhân lực, phong
cách nhà lãnh đạo…
II. Đánh giá và phân tích tính khác nhau giữa Kế toán quản trị và Kiểm soát nội
bộ trong ngân hàng:
1. KTQT áp dụng một vài một số bộ phận nhưng KSNB là quy trình mà tất
cả mọi phòng ban đều liên quan.
KTQT không được thông suốt từ trên xuống dưới ở tất cả các bộ phận vì các
thông tin KTQT cung cấp là các thông tin mang tính định hướng chiến lược. Nếu các
thông tin này thông suốt thì sẽ lan truyền nhanh chóng ra bên ngoài đơn vị, ảnh hưởng
đến bí mật kinh doanh của ngân hàng.
KSNB ngân hàng là công việc mà các cá nhân hoặc cá nhân của tổ chức KSNB
chuyên trách tại đơn vị kiểm tra việc thực hiện công việc của từng cá nhân, đơn vị
trong quá trình thực thi các quy chế, quy trình nghiệp vụ, quy định nội bộ có liên quan.
Hoạt động KSNB phải được phổ biến thường xuyên, kịp thời, đầy đủ các văn bản
chế độ liên quan đến hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước đến tất cả cán bộ,
nhân viên trong đơn vị.
Theo Báo cáo COSO (1992) thì một hệ thống KSNB (HTKSNB) bao gồm 5 bộ

phận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đó là: Môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro,
hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát. Trong đó việc thông tin và


truyền thông yêu cầu các thông tin cần thiết phải được nhận dạng, thu thập và trao
đổi trong đơn vị dưới hình thức và thời gian thích hợp sao cho nó giúp mọi người
trong đơn vị thực hiện được nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, cũng cần có sự trao đổi hữu
hiệu giữa đơn vị với các đối tượng bên ngoài như khách hàng, nhà cung cấp, cổ đông
và các cơ quan quản lý.
2. KSNB liên quan đến từng nghiệp vụ trong ngân hàng, mọi hoạt động của
ngân hàng còn KTQT chỉ là một lĩnh vực kế toán trong ngân hàng.
KSNB là tổng thể các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định, cơ cấu tổ chức của
ngân hàng. Hoạt động KSNB được thiết lập, duy trì đối với mọi hoạt động của đơn vị,
từng mặt nghiệp vụ, của từng cá nhân trong ngân hàng.
KTQT thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông kinh tế, tài chính theo yêu cầu
quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán. Như vậy, KTQT chỉ
là một lĩnh vực kế toán được thiết kế để thoả mãn nhu cầu thông tin của các nhà quản
trị trong ngân hang.
3. Mục tiêu của tổ chức KTQT và hệ thống KSNB khác nhau:
Mục tiêu của KTQT là tính toán chi phí của từng loại sản phẩm, dịch vụ, từng
lĩnh vực hoạt động, phân tích được kết quả kinh doanh của từng loại sản phẩm, dịch
vụ, từ đó dự kiến kế hoạch kinh doanh, kế hoạch phát triển trong tương lai. Ngoài ra,
KTQT còn phải nghiên cứu các chính sách giá cả, tính toán được các bước phát triển,
mở rộng hoạt động trong từng thời kỳ, từng giai đoạn theo chiều hướng có lợi.
Mục tiêu của hoạt động KSNB:
- Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu này chính là biểu hiện của việc sử dụng tài sản và những nguồn lực khác
nhau một cách có hiệu quả để đảm bảo hoạt động của từng đơn vị được triển khai
đúng định hướng. Mục tiêu này đòi hỏi rằng các nhân viên trong ngân hàng phải làm
việc thực sự hiệu quả, hạn chế sai sót để đem lại lợi ích cao nhất cho cả khách hàng và

ngân hàng. Phát hiện, ngăn chặn các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tại đơn vị
-Mục tiêu thông tin (Mục tiêu báo cáo tài chính)


Các thông tin cung cấp cho các nhà quản lý, hội đồng quản trị, cổ đông và những
nhà giám sát phải đầy đủ, chính xác, kịp thời, nhanh chóng để đáp ứng được yêu cầu
của những người cần sử dụng chúng.
-Mục tiêu tuân thủ
Tất cả các nghiệp vụ, quy trình của ngân hàng đều phải tuân thủ theo đúng pháp
luật và các quy chế, quy trình nghiệp vụ, quy định nội bộ, yêu cầu của NHNN, không
trái với các quy định của Nhà nước. Mục tiêu này nhằm bảo vệ uy tín, quyền lợi của
ngân hàng.
Từ thực tiễn hoạt động KSNB đơn vị có thể kiến nghị với Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước trong việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các cơ chế, quy chế nhằm tăng
cường biện pháp đảm bảo an toàn tài sản, tăng hiệu quả hoạt động.
4. Tính bắt buộc thực hiện của hoạt động KTQT và KSNB:
Tại Việt Nam, KTQT còn khá mới mẽ, việc quản trị kế toán cỏn sơ khai và chưa
mang tính hệ thống và thậm chí khái niệm về KTQT còn khá mơ hồ đối với các nhà
quản lý. Năm 2003, khi luật Kế toán Việt Nam được ban hành, khái niệm KTQT mới
được chính thức hoá. Đến năm 2006, thông tư 53/2006/TT/BTC của Bộ Tài Chính về
hướng dẫn áp dụng KTQT trong doanh nghiệp chính thức được ra đời nhằm hướng
dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện KTQT. Điều này đã góp phần hoàn thiện hơn công
tác quản trị về kế toán cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau thời gian triển khai áp
dụng đến nay, theo đánh giá chung việc áp dụng Thông tư 53/2006 trong thực tiễn
vẫn còn những trở ngại nhất định.
Hoạt động KSNB trong ngân hàng được quy định rõ ràng trong các quy định của
pháp luật và bắt buộc phải thực hiện tại các đơn vị trực thuộc NHNN (Thông tư
44/2011/TT-NHNN).
Ví dụ: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV ý thức được sự cần
thiết quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro đối với các hoạt động kinh doanh chủ yếu của

ngân hàng BIDV ban hành quyết định về quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Kiểm
soát số 18/QĐ-BKS ngày 06/05/2013. Dựa trên quy chế chung về KSNB, BIDV ban
hành hệ thống các quy trình quy định rõ ràng trách nhiệm và nhiệm vụ của từng cán
bộ trong quy trình kiểm soát nội bộ.


5. Đối tượng của KTQT và KSNB:
Hoạt động KTQT là một bộ phận trong hệ thống kế toán doanh nghiệp. Do vậy,
đối tượng của KTQT là tài sản và sự vận động của tài sản trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Trên cơ sở số liệu kế toán và các thông tin khác có liên quan, KTQT sẽ phân
tích và đánh giá để cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà quản lý nội bộ bên trong
doanh nghiệp.
Hoạt động KSNB được thiết lập nhằm kiểm soát mọi hoạt động, từng mảng
nghiệp vụ, của từng cá nhân trong đơn vị, trong đó tăng cường kiểm soát đối với hoạt
động, nghiệp vụ có rủi ro cao.
6. Người tiếp cận hoạt động của KTQT và KSNB:
Đối với hoạt động KTQT cung cấp thông tin theo yêu cầu quản trị cấp cao của
đơn vị bằng báo cáo KTQT. Ngoài ra, KTQT là nguồn chủ yếu để cung cấp thông tin cần
thiết cho các nhà quản trị ra các quyết định kinh doanh ở tất cả các khâu: lập kế
hoạch, dự toán, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá…
Đối với hoạt động KSNB đòi hỏi lãnh đạo các cấp của đơn vị đều phải tham gia
vào quá trình nhận dạng, đánh giá rủi ro trong hoạt động để có biện pháp kiểm soát
rủi ro, quản lý rủi ro thích hợp.
Hoạt động kiểm soát rủi ro nội bộ phải đảm bảo mọi cán bộ của đơn vị đều phải
quán triệt được tầm quan trọng của hoạt động KSNB và vai trò của từng cá nhân
trong quá trình KSNB.
7. Hoạt động KTQT không bắt buộc tuân thủ theo nguyên tắc kế toán còn
KSNB đối với kế toán phải đảm bảo chấp hành chế độ hạch toán.
Đối với KTQT: đơn vị được toàn quyền quyết định việc vận dụng các chứng từ kế
toán, tổ chức hệ thống sổ kế toán, vận dụng và chi tiết hóa các tài khoản kế toán, thiết

kế các mẫu báo cáo KTQT cần thiết phục vụ cho KTQT của bản thân đơn vị. Đơn vị
được sử dụng mọi thông tin, số liệu của phần kế toán tài chính, để phối hợp và phục vụ
cho KTQT.
Việc tổ chức hệ thống thông tin KTQT không bắt buộc phải tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc kế toán và có thể thực hiện theo những quy định nội bộ của doanh nghiệp


nhằm tạo lập hệ thống thông tin quản trị thích hợp theo yêu cầu quản trị cụ thể của
từng doanh nghiệp.
Đối với hoạt động KSNB: căn cứ quy định tại thông tư 44/2011 quy định:
nguyên tác hoạt động của hệ thống KSNB là “ bảo đảm chấp hành chế độ hạch toán, kế
toán theo quy định và phải có hệ thống thông tin nội bộ về tài chính, về hoạt động, về
tình hình tuân thủ trong tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tình
hình kinh tế, thị trường bên ngoài hợp lý, tin cậy, kịp thời nhằm phục vụ cho công tác
quản trị điều hành hiệu quả”.
Theo điều 4, thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, hoạt động hệ thống KSNB phải tuân thủ các một số yêu
cầu và nguyên tắc như sau:
Theo đó, hoạt động KSNB trong ngân hàng của chịu chi phối bởi quy định trên,
phải đảm bảo chấp hành chế độ hạch toán kế toán và đảm bảo hệ thống thông tin nội
bộ về tài chính, tình hình tuân thủ trong đơn vị một cách kịp thời.
8. Hoạt động KSNB thường xuyên ban hành các văn bản để chỉnh sửa, bổ sung
kịp thời các quy chế, quy trình nghiệp vụ, còn hoạt động KTQT thì hầu như rất ít ban
hành văn bản chỉnh sửa, bổ sung.
9. KTQT chỉ cần thiết khi có yêu cầu của nhà quản trị từng thời điểm còn
hoạt động KSNB gắn với hoạt động hàng ngày tại ngân hàng
Đối với KTQT: Phần lớn thông tin do KTQT cung cấp nhằm phục vụ chức năng
ra quyết định của nhà quản trị. Để có thông tin thích hợp, đáp ứng cho nhu cầu của
quản trị, KTQT sẽ thực hiện nghiệp vụ phân tích chuyên môn và những thông tin này

thường không có sẵn. KTQT sẽ chọn lọc những thông tin thích hợp, tổng hợp, trình bày
chúng theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải thích quá trình phân tích đó cho các nhà
quản trị. Vì vậy báo cáo KTQT thường được lập khi có yêu cầu của nhà quản trị.
Đối với hoạt động KSNB: là hoat động gắn liền với các hoạt động hàng ngày
của đơn vị, nhằm ngăn ngừa rủi ro, phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi gian lận, sai
sót. Người điều hành bộ phận, đơn vị nghiệp vụ và cá nhân có liên quan phải thường


xuyên xem xét, đánh giá về tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống KSNB báo cáo kịp
thời với cấp quản lý trực tiếp.
10. Mối quan hệ giữa KTQT và KSNB với chức năng hoạt động của nhà
quản trị
Đối với hoạt động KTQT:
- KTQT với chức năng lập kế hoạch và dự toán sẽ cung cấp những thông tin có
tính chất định hướng để giúp cho khâu lập kế hoạch được đầy đủ, có tính hiệu lực và
khả thi cao.
- KTQT với chức năng tổ chức thực hiện sẽ giúp nhà quản trị biết cách liên kết
tốt nhất giữa con người với các nguồn lực hiện tại với nhau sao cho kế hoạch được
thực hiện hiệu quả nhất. Nhà quản trị cần kế toán cung cấp thông tin để đề ra quyết
định kinh doanh đúng đắn trong quá trình lãnh đạo hoạt động hàng ngày, phù hợp với
mục tiêu chung.
- KTQT với chức năng kiểm tra, đánh giá: cung cấp các báo cao so sánh giữa kế
hoạch và thực hiện, điều này có tác dụng như một bước phản hồi giúp nhà quản trị
nhận diện ra những vấn đề còn hạn chế và cần có sự tác động của quản trị.
- Phần lớn thông tin do KTQT cung cấp nhằm phục vụ chức năng ra quyết định
của nhà quản trị.
Đối với hoạt động KSNB:
Theo Báo cáo COSO (1992) thì một hệ thống KSNB (HTKSNB) bao gồm 5 bộ
phận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đó là: Môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro,
hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát. Mỗi bộ phận đều có chức

năng riêng, phục vụ cho nhu cầu quản trị, cụ thể như sau:
Môi trường kiểm soát
Là tất cả các nhân tố mang tính môi trường, có ảnh hưởng đến quá trình thiết
kế sự vận hành và tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ. Vai trò của môi trường là nền
tảng, là điều kiện cho các thủ tục kiểm soát phát huy tác dụng, một môi trường kiểm
soát mạnh có thể phát huy hiệu quả, hạn chế thiếu sót của hoạt động kinh doanh. Còn
môi trường yếu sẽ kìm hãm hoặc vô hiệu hoá các hoạt động kiểm soát khiến nó chỉ còn
hình thức mà thôi.
Đánh giá rủi ro:


Mỗi đơn vị phải ý thức được và đối phó với rủi ro mà mình gặp phải. Tiền đề cho
việc đánh giá rủi ro là việc đặt ra mục tiêu (bao gồm mục tiêu chung và mục tiêu cụ
thể cho từng hoạt động của doanh nghiệp). Đánh giá rủi ro là việc nhận dạng và phân
tích các rủi ro đe dọa các mục tiêu của mình. Trên cơ sở nhận dạng và phân tích các rủi
ro, nhà quản lý sẽ xác định rủi ro nên được xử lý như thế nào.
Hoạt động kiểm soát:
Là những chính sách và thủ tục để đảm bảo cho các chỉ thị của nhà quản lý
được thực hiện. Hoạt động kiểm soát diễn ra trong toàn đơn vị ở mọi cấp độ và mọi
hoạt động.
Thông tin và truyền thông:
Các thông tin cần thiết phải được nhận dạng, thu thập và trao đổi trong đơn vị
dưới hình thức và thời gian thích hợp sao cho nó giúp mọi người trong đơn vị thực
hiện được nhiệm vụ của mình. Thông tin và truyền thông tạo ra báo cáo, chứa đựng
các thông tin cần thiết cho việc quản lý và kiểm soát đơn vị.
Giám sát:
Là quá trình đánh giá chất lượng của hệ thống KSNB qua thời gian. Những
khiếm khuyết của hệ thống KSNB cần được báo cáo lên cấp trên và điều chỉnh lại khi
cần thiết. Nhà quản lý đánh giá rủi ro đe dọa đến việc đạt được các mục tiêu cụ thể.
Hoạt động kiểm soát được tiến hành nhằm đảm bảo rằng các chỉ thị của nhà quản lý

nhằm đối phó với rủi ro được thực hiện trong thực tế.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thị Loan và cộng sự (2013), “Kế toán quản trị”, Nhà xuất bản kinh tế TP Hồ
Chí Minh.
Thông tư 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/201, Quy định về hệ thống kiểm soát nội
bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
Báo cáo COSO (1992), truy cập tại website ngày 03/12/2015
/>


×