Tải bản đầy đủ (.doc) (175 trang)

Sử dụng vốn ngân sách nhà nước để cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.48 KB, 175 trang )

49

MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm gần đây, cùng với việc thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, Đảng và Nhà nước đã luôn coi trọng vấn đề giải
quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên do sự phát triển
nhanh chóng của dân số, hàng năm có trên một triệu người đến độ
tuổi lao động cần việc làm, đồng thời một số không nhỏ lao động
dôi thừa do sắp xếp lại tổ chức sản xuất và bộ máy trong khu vực
Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, học sinh tốt nghiệp các trường chuyên
nghiệp và dạy nghề, lao động đi làm ở nước ngoài trở về đang có
nhu cầu bố trí việc làm, dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng
và bức bách hơn.
Xuất phát từ tầm quan trọng và tính bức xúc của vấn đề giải
quyết việc làm cho người lao động, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chính sách chế độ mà khởi đầu là

Nghị quyết

số120/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng “
Về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm
trong các năm tới” và gần đây Đại hội Đảng toàn quốc Lần thứ IX
đã chỉ rõ chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2010
trong đó có nhấn mạnh:
Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân
tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh


50



hoá xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu
bức xúc của nhân dân. Đến năm 2010, nước ta có 56,8 triệu
người ở độ tuổi lao động, tăng gần 11 triệu người so với
năm 2000. Để tạo việc làm cho người lao động, phải tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần
kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động
[14, tr.210-211].
Trên cơ sở các chủ trương, biện pháp, các bộ, ngành chức năng
đã thể chế hoá, triển khai chính sách việc làm bằng nhiều giải pháp
đồng bộ trong đó có cho vay vốn giải quyết việc làm, tạo ra hành
lang pháp lý để người quản lý vốn vay và người đi vay cùng thực
hiện. Cho vay GQVL trong những năm qua đã thu được một số
thành tựu quan trọng, tạo thế mạnh về khai thác tiềm năng lao động
đất đai, tài nguyên rừng và biển... Song cơ chế cho vay GQVL còn
bộc lộ nhiều hạn chế về phạm vi và đối tượng cho vay, quy trình
thẩm định, thủ tục cho vay, thu hồi và xử lý vốn vay quá hạn, xử lý
rủi ro ... Xuất phát từ những thực tế nói trên, nghiên cứu sinh đã
chọn đề tài nghiên cứu: “ Sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để
cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp” nhằm đưa ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL, góp phần đổi
mới và phát triển nông nghiệp nông thôn.


51

2- Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Nghiên cứu cơ sở lý luận cho vay GQVL, khẳng định sự cần
thiết sử dụng vốn NSNN để cho vay GQVL ở các nước đang phát

triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
- Đánh giá một cách tổng quát thực trạng cho vay GQVL tại
Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, rút ra nguyên
nhân, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay
GQVL trong thời gian tới.

3- Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu :
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Cho vay GQVL từ nguồn
vốn NSNN trong nông nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực trạng hoạt động cho vay GQVL qua kho bạc nhà nước giai
đoạn 1992 - 2000 và qua ngân hàng phục vụ người nghèo giai đoạn
1996 - 2000; qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác cho vay GQVL.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Kết hợp giữa phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp tổng
hợp phân tích, diễn giải, quy nạp...

4- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:


52

- Về mặt lý luận: Luận án khái quát hoá, hệ thống hoá và góp
phần bổ sung, hoàn thiện một số vấn đề lý luận về cho vay tài trợ
nói chung cũng như cho vay GQVL nói riêng. Phân tích một số mô
hình giải quyết việc làm và kinh nghiệm cho vay tài trợ nhằm giải
quyết việc làm ở một số nước phát triển và đang phát triển. Qua đó
rút ra bài học cho Việt Nam trong cho vay GQVL.
- Về mặt thực tiễn: Luận án phân tích, đánh giá thực trạng cho

vay GQVL trong nông nghiệp. Tổng kết những kết quả cũng như
những tồn tại, đi sâu phân tích nguyên nhân của những tồn tại cả về
cơ chế chính sách lẫn tổ chức thực hiện, cả về phía Nhà nước và
người vay. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận đánh giá thực tiễn và tổng
kết kinh nghiệm nước ngoài, luận án đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác cho vay GQVL trong nông nghiệp.
Kết cấu luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, 15 bảng biểu sơ
đồ, đồ thị và danh mục 48 tài liệu tham khảo, nội dung luận án được
thể hiện trong 160 trang đánh máy phân thành 3 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO VAY
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM.
Chương 2: THỰC TRẠNG CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TRONG NÔNG NGHIỆP TỪ NGUỒN VỐN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC.


53

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG NÔNG
NGHIỆP.


54

Chương 2
THỰC TRẠNG CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG
NÔNG NGHIỆP TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1- CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM QUA HỆ THỐNG
KHO BẠC NHÀ NƯỚC.

2.1.1- Cơ chế cho vay giải quyết việc làm.
Cơ chế cho vay giải quyết việc làm hiện hành theo quy định tại
thông tư liên tịch số 06/2002/TT-LT-BLĐTBXH-BTC-BKHĐT,
ngày 10 tháng 4 năm 2002 của liên Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một số nội dung cụ
thể của thông tư:
2.1.1.1- Đối tượng và điều kiện vay vốn giải quyết việc làm:
Đối tượng vay vốn GQVL trong nông nghiệp bao gồm các hộ
gia đình, thành viên các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, các trang trại nhằm thu hút lao động nông nhàn, lao động chưa
có hoặc thiếu việc làm trong xã hội. Quan niệm về đối tượng vay
GQVL trong nông nghiệp được hiểu trên cả hai phương diện: Người
lao động vay để họ tự tạo việc làm hoặc người kinh doanh vay để
phát triển sản xuất kinh doanh thu hút và tạo việc làm lao động.
- Điều kiện để vay vốn: Để được vay vốn tài trợ theo các
chương trình dự án qua KBNN, các đối tượng vay vốn phải đảm bảo
các điều kiện sau đây:


55

Hộ gia đình phải có hộ khẩu thường trú tại địa phương nơi thực
hiện dự án, có đơn đề nghị vay vốn gửi chủ dự án, (đối với dự án có
nhiều hộ vay), nếu là pháp nhân phải có dự án vay vốn phù hợp với
nghành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh.
Dự án tập thể phải có bảo lãnh bằng tín chấp của chủ tịch
UBND xã phường (đối với dự án cấp xã phường), của chủ tịch
UBND huyện, quận (đối với dự án cấp huyện, quận), hoặc của
người đứng đầu tổ chức đoàn thể, hội quần chúng quản lý.
Cơ sở sản xuất - kinh doanh phải có TSTC khi vay vốn.

Thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản nhằm thực hiện các
“giao dịch bảo đảm”. “Giao dịch bảo đảm” là hợp đồng cầm cố, thế
chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với
bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự.
Định giá TSTC là việc đánh giá, kiểm định về số lượng, chất
lượng và giá trị TSTC. Do TSTC bao gồm nhiều loại nên việc định
giá phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng loại TSTC để xác
định giá trị tài sản đem ra thế chấp. Trước năm 1999, việc định giá
TSTC do KBNN cùng người vay thống nhất xác định nên chưa có
tính khách quan và những căn cứ chuẩn làm cơ sở cho việc định giá.
Hiện nay việc định giá TSTC do cơ quan KBNN và cơ quan tài
chính đồng cấp phối hợp vơí người vay thực hiện.Trong quan hệ
vay vốn giữa KBNN và người vay, giá trị TSTC được định giá là


56

một trong những căn cứ để xác định mức vay đối với từng đối tượng
vay cụ thể: Đối với mọi TSTC cầm cố, mức vay tối đa bằng 70%
giá trị TSTC cầm cố đã được xác định. Riêng tài sản cầm cố là các
giấy tờ có giá như: Công trái, trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm,
chứng chỉ tiền gửi... thì số tiền cho vay tối đa bằng 80% giá trị tài
sản.
2.1.1.2-Thẩm định và xét duyệt dự án:
Trong quản lý vốn vay GQVL có thể phân định thành ba giai
đoạn: trước, trong và sau khi cho vay. Thẩm định dự án được xem
như một yêu cầu không thể thiếu được và là cơ sở để ra quyết định
duyệt vay. Đây là những công việc được tiến hành trong giai đoạn
trước khi cho vay.

Thực chất của việc thẩm định dự án là phân tích, đánh giá tính
khả thi của dự án trên tất cả các phương diện kinh tế, xã hội, kỹ
thuật trên cơ sở các nguyên tắc, các quy định của cơ quan quản lý
nhà nước về cho vay GQVL.
Thẩm định dự án nhằm làm sáng tỏ và phân tích một loạt vấn
đề có liên quan tới tính khả thi quá trình thực hiện dự án: Địa điểm
thực hiện dự án, tư cách pháp nhân của chủ dự án, vốn tự có và nhu
cầu tăng thêm, hiệu quả kinh tế, khả năng thu hút lao động của dự
án...
Thẩm định dự án cho vay GQVL là trách nhiệm của các cơ
quan quản lý vốn vay mà trực tiếp là cơ quan LĐTB & XH, KBNN


57

và các hội đoàn thể. Do tính đa dạng của các dự án nên việc thẩm
định dự án là vấn đề phức tạp và động chạm đến nhiều khía cạnh
kinh tế, kỹ thuật, xã hội, đòi hỏi người làm công tác thẩm định phải
nắm vững chuyên môn, am hiểu nhiều lĩnh vực ngành nghề, có kinh
nghiệm và bản lĩnh.
Giai đoạn thẩm định dự án đưa đến kết quả là chấp thuận hay
bác bỏ dự án. Nói chung thẩm định dự án nhằm tránh thực hiện các
dự án đầu tư không có hiệu quả, mặt khác cũng không bỏ mất các
dự án đầu tư có lợi. Trong quá trình thẩm định dự án, do có nhiều cơ
quan tham gia thực hiện nên phải có sự phân định trách nhiệm giữa
các cơ quan này.
- Các cơ quan tham gia thẩm định dự án:
Hiện nay, các dự án được duyệt vay do UBND tỉnh hoặc cơ
quan Trung ương của hội đoàn thể quyết định. Các dự án mà chủ dự
án lập và gửi về Ban chỉ đạo cho vay GQVL huyện, thành phố thẩm

định do UBND tỉnh ra quyết định duyệt vay. Các dự án lập và gửi
về hội đoàn thể cấp tỉnh thẩm định do Trung ương hội đoàn thể ra
quyết định duyệt vay. Thực ra việc phân định cơ quan ra quyết định
duyệt vay nhằm tạo điều kiện cho các hội đoàn thể nâng cao vị trí,
vai trò, thúc đẩy hoạt động của hội đoàn thể phát triển (các hội đoàn
thể Trung ương ra quyết định duyệt vay nếu được Nhà nước cho
phép lập một đầu mối riêng để vay vốn GQVL).
* Mối quan hệ giữa lập và thẩm định dự án vay:


58

Lập và thẩm định dự án là hai quá trình vừa có sự khác biệt,
vừa có sự thống nhất và có liên quan chặt chẽ với nhau trong giai
đoạn trước khi cho vay.
- Sự thống nhất giữa lập và thẩm định dự án:
+ Về nội dung; cả lập và thẩm định dự án đều phải tuân thủ các
quy định của Nhà nước. Lập dự án xây dựng chỉ tiêu, thẩm định dự
án xét cho cùng là phân tích, đánh giá các chỉ tiêu đó, đối chiếu với
thực tế sản xuất kinh doanh của hộ vay.
+ Về phương pháp; các bước lấy số liệu trong dự án của chủ dự
án phải có căn cứ và cơ quan thẩm định cũng đánh giá, xem xét trên
cơ sở các tài liệu do chủ dự án xuất trình.
Lập và thẩm định dự án là hai quá trình có liên quan chặt chẽ
với nhau. Nếu khâu lập dự án làm tốt thì thẩm định sẽ kịp thời,
nhanh chóng và nếu khâu thẩm định dự án làm tốt sẽ chấn chỉnh
việc lập dự án, đảm bảo các dự án được phê duyệt mang tính hiệu
quả và thuyết phục.
- Sự khác nhau giữa lập và thẩm định dự án vay:
+ Khác nhau về thời gian tiến hành và chủ thể:

Lập dự án tiến hành trước và chủ thể lập dự án là các đối tượng
vay hoặc người được hội đoàn thể, hội quần chúng chỉ định. Thẩm
định dự án tiến hành sau và chủ thể thẩm định là các cơ quan trong
Ban chỉ đạo cho vay GQVL các cấp.


59

+ Khác nhau về nhiệm vụ: Chủ dự án chịu trách nhiệm về lập
dự án, mục tiêu và hiệu quả của dự án, cơ quan thẩm định dự án
chịu trách nhiệm kiểm tra dự án về xác định các chỉ tiêu trong dự
án, đánh giá, phân tích rút ra kết luận chấp thuận hay loại bỏ dự án.
+ Khác nhau về quan điểm và tiêu chuẩn xem xét: Thông
thường chủ dự án quan tâm đến nhu cầu vay và quan tâm nhiều hơn
đến hiệu quả kinh tế, trong khi cơ quan thẩm định quan tâm nhiều
hơn đến việc xác định mức vay thực tế và hiệu quả xã hội.
Sở dĩ giữa lập và thẩm định dự án có sự khác nhau như vậy là
do có sự khác biệt về mối quan tâm và lợi ích do người đầu tư và
người thẩm định đại diện.
2.1.1.3- Mức vay, thời hạn và lãi suất cho vay:
- Mức vay và thời hạn vay:
+ Mức vốn vay là mức vốn tối đa mà một người vay có thể
được vay vốn để GQVL. Mức vốn vay do Nhà nước quy định đối
với từng thời kỳ. Trong quản lý, vấn đề cần được quan tâm
của cả người cho vay và đi vay là số tiền duyệt cho vay. Số tiền
duyệt cho vay của một người vay cụ thể là số tiền vay được cấp có
thẩm quyền phê duyệt sau khi đã thẩm định, kiểm tra thực tế.
+Thời hạn cho vay GQVL được quy định gồm có 3 loại: 12, 24
và 36 tháng, nhìn chung dài hơn so với thời hạn cho vay của tín
dụng ngân hàng cho cùng một đối tượng, nhằm tạo điều kiện cho

những người vay có thêm thuận lợi trong quá trình sử dụng vốn vay


60

và bố trí nguồn trả nợ. Hiện nay thời hạn vay được xác định căn cứ
vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề hoặc chu kỳ
sinh trưởng của từng loại cây con, phù hợp với từng dự án vay vốn.
- Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay GQVL được áp dụng thống nhất theo quy định
của trung ương. Trong thời kỳ 1993 -1995, lãi suất cho vay 0,5%
tháng, thấp hơn nhiều so với lãi suất cùng loại của NHTM trên địa
bàn (chênh lệch 0,8% tháng). Lãi suất cho vay thấp đã thực sự thu
hút sự chú ý, sự hấp dẫn của nhiều đối tượng có nhu cầu vay vốn,
thể hiện tính ưu đãi của loại hình tín dụng này. Trong thời kỳ 1996 1997, Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất cho vay lên 0,9% tháng, bằng
75% lãi suất NHTM, lãi suất quá hạn tương đương lãi suất quá hạn
của NHTM. Từ năm 1997 đến nay, mức lãi suất ổn định 0,5%
tháng, lãi suất phạt quá hạn 200%, mức chênh lệch với lãi suất
NHTM khoảng 0,5% tháng, đã thể hiện tính ưu đãi, đồng thời với
việc nâng lãi suất nợ quá hạn từ 150% lên 200% so với lãi suất nợ
trong hạn đã hạn chế phần nào tính chây ì trong trả nợ tiền vay.
Diễn biến thay đổi lãi suất tín dụng GQVL so với lãi suất Ngân
hàng thương mại thể hiện ở bảng 2.1:
Bảng 2.1: Lãi suất cho vay GQVL, cho vay ngân hàng thương
mại (lãi suất tính theo tháng)
Chỉ tiêu
93- 95 1996 1997 1998 1999 2000
1- Lãi suất vay 0,5% 0,9% 0,6% 0,6% 0,6% 0,5%



61

GQVL
*Lãi suất quá hạn
2 - Lãi suất vay

0,75%

1,2%

1,2%

1,2%

1,2%

1,1%

NHTM
3- Chênh lệch (1 - - 0,8% - 0,3%

-

-

2)

1,3%

1,8%


1,2%

1,05

1,1%

%
1,0%

- - 0,5%

0,6% 0,5% 0,5%
Nguồn: Ngân hàng thương mại, KBNN.
Việc tính và thu lãi tiền vay được thực hiện cùng với thu nợ

gốc, tiền lãi không nhập vào vốn gốc cho vay. Nếu số tiền bên vay
hoàn trả chưa đủ thanh toán một lần cho khoản nợ vay, thì KBNN
thực hiện thu hồi cả tiền gốc và lãi tương ứng với số tiền bên vay
mang trả. Lãi vay chỉ bù đắp chi phí rủi ro và các chi phí quản lý
cho vay, bổ sung nguồn vốn vay. Lãi suất cho vay GQVL có những
đặc điểm:
. Lãi suất các khoản cho vay trong hạn nhỏ hơn lãi suất các
khoản cho vay quá hạn.
. Lãi suất cho vay GQVL thấp hơn lãi suất ngân hàng thương
mại. Mức cụ thể từng thời kỳ do Bộ Tài chính quy định sau khi
thống nhất với Bộ LĐTB & XH, Bộ Kế hoạch và đầu tư.
. Ngoài mức lãi suất cho vay theo quy định, đối tượng vay
không phải trả bất cứ một khoản phí nào khác.
. Có quy định lãi suất thấp đối với các đối tượng đặc biệt khó

khăn (Thương binh, người tàn tật...).


62

Có thể rút ra một số nhận xét về diễn biến lãi suất cho vay
GQVL:
. Các quy định về lãi suất vay phù hợp với cách tính lợi tức và
đúng nguyên tắc đặc điểm của lãi suất vay.
. Chiều hướng biến động của lãi suất cho vay có xu hướng giảm
dần. Điều này là dễ hiểu bởi xuất phát từ nguyên tắc xác định lãi
vay từ nguồn vốn vay GQVL nhỏ hơn lãi suất vay của các ngân
hàng thương mại. Trong điều kiện của các nước đang phát triển như
hiện nay, muốn tăng trưởng và phát triển, giải phóng năng lực sản
xuất xã hội, phải tìm các biện pháp kích cầu, một trong những biện
pháp đó là hạ lãi suất cho vay nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, cá nhân trong xã hội mở rộng sản xuất, tạo ra thêm nhiều
sản phẩm cho xã hội, góp phần giải quyết công ăn việc làm.
. Lãi suất cho vay các kỳ hạn khác nhau quy về cùng một lãi
suất. Bởi vì vấn đề thời hạn trong cho vay GQVL là hết sức tương
đối. Một dự án có thể được xem xét duyệt thêm cùng kỳ hạn vay tuỳ
theo chu kỳ sống của vốn vay.
. Lãi suất vay các xí nghiệp sản xuất của thương bệnh binh,
người tàn tật (kể cả hội người mù) thấp hơn lãi suất chung về cho
vay GQVL. Cơ sở sản xuất kinh doanh của thương bệnh binh và
người tàn tật là tổ chức kinh tế được Nhà nước bảo hộ và khuyến
khích phát triển, do đó cần được quan tâm giúp đỡ của các bộ,
ngành, các cấp chính quyền, cơ quan đoàn thể, các đơn vị kinh tế,



63

các tổ chức quần chúng tạo thuận lợi để các cơ sở tồn tại và đứng
vững trong cơ chế thị trường, trong đó có việc ưu đãi lãi suất cho
vay GQVL.
2.1.1.4- Cách thức quản lý và điều hành công tác cho vay GQVL:
- Kênh quản lý vốn vay.
Vốn vay GQVL được quản lý tập trung thống nhất từ Trung
ương tới các địa phương. Thuật ngữ “kênh” quản lý vốn chỉ rõ cơ
quan đầu mối trực tiếp quản lý, điều hành vốn vay GQVL, ra quyết
định cho vay. Hiện nay kênh quản lý vốn vay gồm: Kênh UBND
tỉnh và các kênh Trung ương các hội đoàn thể, tổ chức quần chúng.
Các dự án vay vốn do UBND tỉnh ra quyết định cho vay thuộc
kênh UBND tỉnh quản lý. Các dự án vay vốn do cơ quan Trung
ương hội đoàn thể quần chúng ra quyết định cho vay thuộc các kênh
Trung ương đoàn thể quần chúng quản lý. Tuỳ theo điều kiện thực
tế mà dự án có thể gửi theo các kênh để đề nghị ra quyết định cho
vay. Việc phân kênh quản lý vốn vay có tính tích cực là tăng cường
tính chủ động, tích cực của các cơ quan đầu mối được giao nhiệm
vụ cho vay GQVL, nhưng nhược điểm là khó khăn cho việc quản lý
tập trung, thống nhất các dự án trên địa bàn tỉnh, huyện.
- Phương thức quản lý cho vay GQVL.
Quỹ Quốc gia HTVL được tập trung thống nhất ở Trung ương,
do ban chỉ đạo Quỹ Quốc gia HTVL trực tiếp điều hành. Ban này
bao gồm đại diện của các Bộ LĐTB & XH, Bộ Tài chính, Bộ Kế


64

hoạch và đầu tư do lãnh đạo Bộ LĐTB & XH làm trưởng ban. Ban

chỉ đạo chương trình cho vay từ Quỹ Quốc gia HTVL Trung ương
có trách nhiệm tham mưu cho lãnh đạo các bộ, ngành, Chính phủ
các vấn đề chính sau đây.
Thứ nhất: Nghiên cứu ban hành các văn bản trong phạm
vi quyền hạn hoặc trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn
thực hiện cơ chế cho vay GQVL theo đúng đường lối, chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai: Hàng năm xây dựng kế hoạch vốn cho vay GQVL để
Chính phủ trình quốc hội thông qua phần vốn mới tăng thêm trong
kế hoạch chi ngân sách nhà nước, đồng thời phân bổ dự toán ngân
sách cấp mới vốn vay GQVL cho các bộ ngành, các địa phương
triển khai dự án vay vốn.
Thứ ba: Tiếp tục chỉ đạo các ngành, các địa phương triển khai
thực hiện việc xây dựng thẩm định, phê duyệt dự án, cho vay đúng
chế độ. Tổ chức đánh giá, tổng kết, tập huấn chương trình cho vay
GQVL.
Thứ tư: Thiết lập hệ thống thông tin thường xuyên với KBNN,
bảo đảm kiểm soát việc thực hiện công tác cho vay vốn của hệ
thống KBNN.
Thứ năm: Xử lý các trường hợp rủi ro, các kiến nghị do các
tỉnh gửi về, kiểm tra tình hình quản lý vốn vay tại các địa phương.


65

Tại các địa phương cũng thành lập các Ban chỉ đạo cho vay
GQVL. Ban này gồm các thành viên là đại diện các cơ sở, ngành
thuộc các bộ trong Ban chỉ đạo cho vay GQVL ở Trung ương do
đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban và
có các nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất : Hướng dẫn các đối tượng tại địa phương xây dựng
dự án vay vốn theo qui định của ban chỉ đạo chương trình dự án,
tuyên truyền, phổ biến chính sách cho vay GQVL.
Thứ hai: Tổ chức thẩm định các dự án vay vốn đảm bảo đúng
đối tượng, đúng mục đích và có hiệu quả trình UBND tỉnh ra quyết
định cho vay. Tham mưu cho UBND tỉnh quản lý chương trình vay
vốn phù hợp với lợi thế, đặc thù của địa phương.
Thứ ba: Chỉ đạo KBNN thực hiện cho vay kịp thời, đúng chế
độ, giám sát việc thực hiện cho vay cũng như sử dụng vốn vay, xử
lý các trường hợp do KBNN kiến nghị.
Thứ tư: Định kỳ tổ chức, đánh giá kết quả thực hiện chương
trình, báo cáo với UBND tỉnh và Ban chỉ đạo cho vay GQVL ở
Trung ương.
Ngoài các Ban chỉ đạo cho vay GQVL ở Trung ương và địa
phương, các bộ ngành, cơ quan hội đoàn thể được giao nhiệm vụ là
đầu mối quản lý vốn vay cũng thành lập các ban, phòng theo dõi và
thực hiện chương trình vay vốn GQVL ở ngành, cơ quan hội đoàn
thể quần chúng.


66

2.1.2 - Kết quả cho vay giải quyết việc làm từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước:
2.1.2.1- Về cơ chế chính sách:
Ngay từ khi bắt đầu triển khai cho vay, Chính phủ, các cơ quan
bộ, ngành đã ban hành hệ thống văn bản tạo hành lang pháp lý để
công tác cho vay GQVL thực hiện kịp thời và có hiệu quả. Đồng
thời qua quá trình thực tiễn cho vay cũng như căn cứ vào kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước cũng đã bổ xung

nhiều chính sách, chế độ để công tác cho vay ngày càng chặt chẽ
nhưng lại dễ làm, dễ kiểm tra. Trong các văn bản quản lý vốn vay,
cũng chỉ ra các biện pháp chung cho quản lý cho vay, thu nợ, xử lý
các dự án nợ quá hạn.
Nội dung mới và quan trọng nhất của các văn bản này là xác
định rõ đối tượng vay vốn, quy định cụ thể quyền hạn và trách
nhiệm cụ thể của từng cơ quan tham gia quản lý chương trình. Điểm
nổi bật dễ đi vào cuộc sống thực tế được thể hiện qua khâu thẩm
định dự án mà trước đây có tới bốn cơ quan cùng thực hiện (cơ quan
LĐTB & XH - Tài chính - Kế hoạch và đầu tư - KBNN) đã dẫn đến
nhiều bất cập như thời gian thẩm định kéo dài, làm chậm tiến độ
thực hiện của chương trình. Đến nay công việc thẩm định dự án
được giao cho hai cơ quan LĐTB & XH, KBNN phối hợp thực
hiện, vì vậy việc triển khai dự án tại các địa phương được đẩy nhanh
và khẩn trương hơn. Một điểm thay đổi căn bản là trước kia cơ quan


67

phê duyệt và ra quyết định cho vay là Bộ LĐTB & XH thì nay được
giao cho UBND tỉnh, cơ quan đoàn thể ở Trung ương, từ đó các dự
án triển khai nhanh, sát và phù hợp với thực tế hơn. Bên cạnh đó các
thủ tục cho vay được nghiên cứu bổ xung phù hợp với quy định hiện
hành của pháp luật, thuận lợi cho người vay như:
- Quy định rõ về đối tượng vay gồm hai loại: Dự án hộ gia đình,
thành viên tổ chức đoàn thể và dự án cơ sở sản xuất có đăng ký kinh
doanh.
- Thẩm quyền bảo lãnh tín chấp: Trước dây các dự án của Hội
đoàn thể chỉ cơ quan Hội đoàn thể cấp tỉnh trở lên đứng ra bảo lãnh,
nay được phân cấp rộng hơn, cụ thể là do hội đoàn thể cấp huyện trở

lên được quyền bảo lãnh cho các hộ vay.
- Mức vay bình quân trên một hộ từ 5 triệu đồng được nâng lên
10 triệu đồng. Mức vay của 1 dự án cơ sở kinh doanh từ 200 triệu
đồng lên 300 triệu đồng.
- TSTC được quy định chặt chẽ hơn, loại tài sản đem thế chấp
phù hợp với các quy định của luật dân sự.
- Gia hạn nợ : Trước năm 1999 KBNN không được quyền gia
hạn nợ, từ 1999 đến nay KBNN được gia hạn nợ đối với những dự
án khó khăn như sản xuất chưa đến kỳ thu hoạch, sản phẩm chưa
tiêu thụ được, chưa được thanh toán tiền bán sản phẩm.
Phụ lục biểu số 01 làm rõ hơn vấn đề bổ sung hoàn thiện cơ chế
cho vay.


68

2.1.2.2 - Về thực hiện cho vay thu nợ:
Kết quả cho vay thu nợ được thể hiện trên một số mặt chủ yếu
sau:
Thứ nhất: Bộ máy quản lý điều hành và phối hợp trong việc
cho vay, thu nợ được thiết lập từ Trung ương tới địa phương.
Hoạt động của ban điều hành, Ban chỉ đạo cho vay GQVL đã
có sự phối hợp tốt từ trung ương đến địa phương. Căn cứ vào quy
định của Liên bộ LĐTB & XH - Tài chính - Uỷ ban kế hoạch Nhà
nước, Trung ương đã thành lập ban chỉ đạo cho vay GQVL, các địa
phương (tỉnh, huyện) tuỳ theo điều kiện thực tế có thể có thêm các
thành phần thuộc các sở, ban, ngành tham gia vào Ban chỉ đạo cho
vay GQVL; đã có sự phối hợp thường xuyên giữa các thành viên
trong Ban chỉ đạo cho vay GQVL đặc biệt là trong thẩm định và chế
độ thông tin báo cáo.

Thứ hai, sự tăng trưởng của nguồn vốn vay. Khi nói đến nguồn
vốn vay, người ta thường quan tâm đến nguồn vốn kế hoạch và
nguồn vốn thu hồi
Nguồn vốn kế hoạch gồm vốn kênh UBND tỉnh, kênh Trung
ương hội đoàn thể quản lý. Hàng năm Bộ Kế hoạch đầu tư trình
Chính phủ phê duyệt dự toán ngân sách cấp mới vốn cho vay
GQVL cho từng địa phương và cơ quan trung ương hội đoàn thể.
Nguồn vốn kế hoạch được bổ sung hàng năm cho các tỉnh là tương
đối ổn định.


69

Nguồn vốn thu hồi là nguồn vốn lớn, quan trọng vì được luỹ kế
qua các năm thực hiện. Nguồn vốn thu hồi trong một thời kỳ căn cứ
vào số thu nợ thực tế từ các dự án vay đã đến hạn. Theo quy định
hiện nay, vốn thu hồi tại địa phương nào được giữ lại cho địa
phương đó để tiếp tục cho vay các dự án khác. Việc chuyển nguồn
vốn thu hồi đi địa phương khác chỉ tiến hành các trường hợp cụ thể
như: Vốn vay tại địa phương không hiệu quả và đặc biệt nguồn vốn
tồn đọng lớn, thời hạn dài không giải quyết cho vay. Việc kế hoạch
hoá nguồn vốn thu hồi là hết sức quan trọng nhằm luân chuyển vốn,
tránh tồn đọng vốn vay. Do thu hồi vốn vay là quá trình diễn ra
thường xuyên nên đòi hỏi công tác dự báo tình hình vốn thu hồi
phải nhanh chóng, kịp thời theo từng tháng, quý.
Tính đến hết tháng 12 năm 2000 tổng nguồn vốn bố trí cho
chương trình cho vay GQVL là 1.410 tỷ đồng, bình quân các năm
nguồn vốn tăng thêm là 156 tỷ đồng. Nguồn vốn lớn tập trung ở các
tỉnh thành phố có số dân cư đông và nhu cầu GQVL là Hà Nội 53,9
tỷ đồng, Thành phố Hồ Chí Minh 89 tỷ đồng, Thanh Hoá 43 tỷ

đồng. Nguồn vốn cho vay bình quân tại các tỉnh là 23 tỷ đồng. Hiện
tại các KBNN đảm bảo đủ nguồn vốn để giải ngân bất cứ lúc nào
nếu người vay có dự án khả thi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ ba: Tình hình cho vay thu nợ và các dự án vay vốn điển
hình.


70

Qua 9 năm từ 1992 đến 2000, KBNN đã phối hợp với các
ngành, các cấp thẩm tra xét duyệt trên 84.000 dự án với doanh số
cho vay là: 4.393.379 triệu đồng tạo việc làm cho 3.738.646 người
lao động. KBNN đã tích cực thu nợ vay khi đến hạn, doanh số thu
nợ gốc là: 3.102.660 triệu đồng, lãi là 316.059 triệu đồng. Tình hình
cho vay thu nợ qua các năm xem bảng 2.2:
Bảng 2.2: Doanh số cho vay, thu nợ và số lao động thu hút
qua các năm.
Năm

Số vốn

Số vốn thu nợ

Số lao động

cho vay

(triệu đồng)
Gốc
Lãi

0
0

thu hút
(người)
20.000

1992

36167

1993

355176

27724

2249

400.545

1994

363.334

195.868

16.970

487.826


1995
1996
1997

497.581
602.937
578.487

300.933
446.965
502.546

26.543
43.854
48.800

834.760
592.733
334.033

1998

585.569

540.456

57.235

404.901


1999
2000

619.497
754.631
4.393.37

535.729
552.439
3.102.66

61908
58.500

314.179
349.669

316.059

3.738.646

Tổng số

9
0
Nguồn: Báo cáo KBNN Trung ương 1992 - 2000.

Bảng 2.2 cho thấy số vốn cho vay, thu nợ năm sau đều tăng cao
hơn năm trước. Đặc biệt năm 2000 doanh số cho vay đạt 754 tỷ

đồng (tăng 29% so với năm 1998 và 22% so với năm 1999). Đây là


71

năm doanh số cho vay đạt cao nhất từ năm 1992. Mức vay bình
quân trên một lao động (chưa có hoặc thiếu việc làm) trong 8 năm là
1,2 triệu đồng, năm 1999 là 2 triệu đồng, năm 2000 là 2,2 triệu
đồng, điều đó cho thấy rằng mức vay bình quân đã tăng lên và phù
hợp với việc điều chỉnh hạn mức vay tối đa trên một lao động từ 5
triệu đồng lên 10 triệu đồng kể từ năm 1999.
Các dự án vay vốn của các tổ chức hội đoàn thể quần chúng
như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến
binh... có ý nghĩa rất quan trọng, làm phong phú thêm các hoạt động
mang tính chất kinh tế xã hội, góp phần nâng cao vai trò và uy tín
của các tổ chức xã hội. Tình hình cho vay các dự án theo kênh vay
vốn thể hiện qua phụ lục biểu số 02.
Kết quả cho vay GQVL được thể hiện cụ thể qua hoạt động
cho vay từ quỹ GQVL địa phương. Thực hiện chương trình mục
tiêu quốc gia về việc làm và các văn bản hướng dẫn của liên Bộ
LĐTB & XH - Tài chính - Kế hoạch và đầu tư, trong năm 2000 có 9
tỉnh, thành phố đã chi 17,897 tỷ đồng từ ngân sách địa phương để
tạo quỹ cho vay GQVL của địa phương. Điển hình là các tỉnh như:
Hà Nội 5,85 tỷ đồng, Nghệ An 2,625 tỷ đồng, Hà Tây 2 tỷ đồng,
Bình Phước 2 tỷ đồng, Bình Định 2 tỷ đồng...
Căn cứ nguồn vốn do các sở Tài chính vật giá chuyển tới và
hồ sơ dự án được UBND tỉnh, thành phố phê duyệt, các KBNN đã
thực hiện giải ngân được 10,94 tỷ đồng, GQVL cho 3479 lao động.



72

Nhìn chung việc triển khai vốn vay các dự án từ quỹ việc làm địa
phương được thực hiện theo đúng các quy định về cho vay GQVL.
Số liệu cụ thể (Xem phụ lục biểu số 03).
* Các dự án vay vốn điển hình:
Tuy chưa thể thống kê đầy đủ hiệu quả sử dụng vốn vay của
các dự án, song qua đánh giá của các nhà nghiên cứu, và các tài liệu
báo cáo của nhiều ngành cho thấy ý nghĩa quan trọng của vốn vay
GQVL: “Đây là nguồn vốn khá quan trọng và hiệu quả, khuyến
khích nhân dân phát triển sản xuất mở rộng ngành nghề, tác động
tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông
thôn...” [10, tr.2].
- Đối với các doanh nghiệp nhờ có vốn vay hỗ trợ của Nhà
nước đã mở rộng thêm một số ngành nghề mới như may mặc, xuất
khẩu, cơ khí nhỏ, sản xuất thêm một số mặt hàng mới tiêu dùng,
sản xuất vật liệu xây dựng... có khả năng thu hút nhiều lao động.
Mặt khác chính sách cho vay ưu đãi đã mở ra triển vọng cho nhiều
doanh nghiệp tư nhân mở rộng sản xuất, tạo việc làm, thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nước.Tại tỉnh Tiền Giang:
Với số vốn đầu tư lãi suất thấp đã giúp cho người vay
mạnh dạn đầu tư sản xuất kinh doanh và tìm cách khai thác
những tiềm năng, ngành nghề truyền thống của mỗi địa
phương, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
đem lại hiệu quả tạo thêm nhiều sản phẩm đáp ứng yêu cầu


73

của nhân dân. Dự án của công ty trách nhiệm hữu hạn may

Tiền Tiến được vay 200 triệu đồng, qua hai vòng quay đã
GQVL cho 300 người lao động nữ, tăng thêm 750 nghìn
sản phẩm. Dự án phát triển và mở rộng sản xuất hợp tác xã
Bình Tây với số vốn vay 189 triệu đồng, đã xây dựng được
hệ thống nước lọc, thiết bị trộn thức ăn, hệ thống ấp trứng
12 nghìn gà giống, 65 heo giống để cung cấp trứng gà
giống, heo giống cho xã viên hợp tác xã tổ chức chăn nuôi
[27].
Nhờ được vay vốn KBNN Nam Định với số tiền 70 triệu đồng,
cơ sở chăn nuôi Trung Tín đã trở thành một trong những cơ sở chăn
nuôi làm ăn có hiệu quả nhất tỉnh. Cơ sở này chuyên chăn nuôi lợn
nái siêu nạc và gà đẻ trứng, hàng tháng xuất chuồng khoảng 5 - 6
tấn lợn hơi ra các thị trường trong nước và sang Hồng Kông. Có
khoảng 400 - 500 con gà, mỗi tháng thu được hàng nghìn quả trứng
bán ra trong tỉnh và chủ yếu là Hà Nội. Ngoài ra cơ sở còn gây dựng
lợn giống để xuất cho các cơ sở chăn nuôi khác với giá từ 4- 5 triệu
đồng một con.
- Đối với khu vực nông thôn:
Nhờ có vốn vay nhiều hộ gia đình đã tính toán làm ăn, chuyển
dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, tăng khả năng sử dụng đất, từ chỗ
canh tác một vụ tiến tới canh tác hai vụ và trồng thêm nhiều màu,
đời sống nhân dân từng bước được cải thiện:


×