Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

TIỂU LUẬN BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: “Bản chất con người theo quan điểm triết học MácLênin và việc vận dụng để xây dựng nguồn lực con người ở Nghệ An hiện nay” BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: “Bản chất con người theo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.26 KB, 56 trang )

[Type text]

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Bản chất con người theo quan điểm triết học Mác-Lênin và việc vận
dụng để xây dựng nguồn lực con người ở Nghệ An hiện nay”
Người thực hiện:Trần Thiên Tài
Lớp: K2-QTKD
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thương Uyên

Vinh, tháng 12 năm 2015

2


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÂN TỐ
CON NGƯỜI VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÂN TỐ CON
NGƯỜI……………………………………………………………………………
1.1. VỀ KHÁI NIỆM CON NGƯỜI VÀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1.1.1. Quan điểm mác - xít về con người và nhân tố con người
1.1.1.1. Quan điểm Mác - Lênin về con người
1.1.1.2. Quan niệm Mác - Lênin về nhân tố con người
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và nhân tố con người
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố con người
1.2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÂN TỐ CON


NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.2.1. Đặc điểm của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện
nay
1.2.1.1. Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng XHCN trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1.2. Đặc điểm về chính trị - xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
1.2.1.3. Đặc điểm của văn hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1.4. Đặc điểm của giáo dục, đào tạo trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế


1.2.2. Sự biến đổi của nhân tố con người dưới tác động của điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2.1. Sự tác động tích cực đối với nhân tố con người
1.2.2.2. Sự tác động tiêu cực đối với nhân tố con người
Chương 2:
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NGHỆ AN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGHỆ AN VÀ SỰ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NHÂN TỐ CON NGƯỜI
2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Nghệ An
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Nghệ An
2.1.1.2. Đặc điểm văn hoá, giáo dục, khoa học - kỹ thuật của Nghệ An
2.1.1.3.Đặc điểm con người Nghệ An
2.1.2. Thực trạng nhân tố con người dưới sự ảnh hưởng của điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế ở Nghệ An
2.1.2.1. Nhân tố con người dưới sự ảnh hưởng của phát triển kinh tế ở Nghẹ An

2.1.2.2. Nhân tố con người dưới sự ảnh hưởng của đời sống chính trị ở Nghệ An
2.1.2.3. Nhân tố con người dưới sự ảnh hưởng của đời sống văn hoá - xã hội ở
Nghệ An
2.1.2.4. Nhân tố con người dưới sự ảnh hưởng của giáo dục, đào tạo ở Nghệ
An


2.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TRONG VIỆC
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở NGHỆ AN TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.2.1. Phương hướng phát huy nhân tố con người trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế ở Nghệ An
2.2.1.1. Phương hướng chung phát huy nhân tố con người
2.2.1.2. Quan điểm phát triển của Nghệ An
2.2.2. Một số giải pháp cơ bản trong việc phát huy nhân tố con người ở Nghệ
An trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN tạo điều
kiện để phát huy nhân tố con người về nhiều mặt


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong triết học, con người là một đề tài lớn, nghiên cứu vấn đề con người
có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của thế giới, là vấn đề được các nhà
triết gia của mọi thời đại bao gồm phương Đông và phương Tây quan tâm
nghiên cứu. Trong các hệ thống tư tưởng đó, vấn đề của con người trong triết
học Mác-Lênin được nghiên cứu và trình bày một cách bao quát, đặc săc và
mang tính khoa học nhất. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã kết luận: con người không
chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất, mà con người là chủ thể của quá trình lịch sử,

của sự tiến bộ xã hội. Đặc biệt khi xã hội loài người ngày càng phát triển và đạt
đến trình độ văn minh cao cấp như hiện nay.
Đối với một quốc gia bất kì, trong các điều kiện và nguồn lực để phát triển
kinh tế - xã hội. Nhân tố con người (nguồn nhân lực) luôn giữ một vai trò vô
cùng quan trọng trong sự phát triển đó. Nguồn nhân lực có dồi dào có đủ mạnh
về tri thức… để thúc đây sự phát triển hay không? Trên thế giới các quốc gia có
nền kinh tế phát triển mạnh như Hoa Kì, Nhật Bản, các nước Tây Âu…Đều là
những quốc gia có nhân tố con người có trình độ tri thức rất cao để dáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế . Với các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển thì
nhân tố con người có vai trò quan trọng hơn nữa trên tiễn trình xây dựng nguồn
lực con người có trình độ tri thức cao.
Nghệ An là một tỉnh đang phát triển và đang thực hiện mạnh mẽ công việc
xây dựng nguồn lực con người nhằm mục đích kinh tế. Với đà phát triển như vậy
thì việc chú trọng nghiên cứu nhân tố con người là một yêu cầu và nhiệm vụ cấp
bách mà Đảng và Nhà nước ta phải thực hiện. Con người Nghệ An với rất nhiều


tố chất và năng lực tốt đẹp đã được chứng minh trong lịch sử dân tộc và cho đến
ngày nay. Với những lý luận về vấn đề con người được trình bày khoa học trong
triết học Mác-Lênin và được đúc kết sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn
đề đặt ra là đảng và Nhà nước ta đã vận dụng những lý luận khoa học trên như
thế nào? Để phục vụ vào việc xây dựng nguồn lực con người. Sau khi học xong
môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin dành cho sinh viên và sự
hướng dẫn của quý cô phụ trách. Căn cứ vào tình hình thực tế ở Nghệ An tôi đã
quyết định chọn đè tài triết học là: ‟Bản chất con người theo quan điểm triết
học Mác-Lênin và việc vận dụng để xây dựng nguồn lực con người ở Nghệ
An hiện nay.” Với những hiểu biết cá nhân, tôi hi vọng sẽ có sự đóng góp nhỏ
cho lý luận về vấn đề này.



CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÂN TỐ
CON NGƯỜI VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÂN TỐ CON
NGƯỜI
1.1. VỀ KHÁI NIỆM CON NGƯỜI VÀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1.1.1. Quan điểm Mác – Lênin về con người và nhân tố con người
1.1.1.1. Quan điểm Mác - Lênin về con người
1.1.1.1.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
Kế thừa các quan điểm tiễn bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành
tự của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiễn hóa và thuyết tế bào, triết học
Mác đã khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, vừa là sản phẩm của chính hoạt động của chính ban thân con người. Con
người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học với yếu tố xã hội-là thực thể sinh vật
– xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học,
tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn
tại của con người.
Vi vậy giới tự nhiên là ‟thân thể vô cơ của con người”. Con người là một bộ
phận của tự nhiên.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất
quy định bản chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt của con người
với thế giới loài vật là mặt xã hội. Tính xã hội của con người biểu hiện trong
hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người


sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình;
Hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; Xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy
lao động chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội của con người, đồng thời
hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Theo Mác, xã hội suy cho
cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người với người. Con người tạo ra

xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu
hiện và là khẳng định của xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển,
của con người luôn phải chịu sự tác động của ba hệ thống quy luật khác nhau,
nhưng thống nhất với nhau. Bao gồm: Hệ thông quy luật tự nhiên chịu sự quy
định của mặt sinh học, hệ thống quy luật tâm lý ý thức hình thànhvà vận động
trên nền tảng ý thức của con người, hệ thống quy luật xã hội quy định các quan
hệ giữa người với người trong xã hội.
1.1.1.1.2. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội
a. Con người là chủ thể của lịch sử
Không thể có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của
giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là: Con người luôn là chủ thể của
lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định ‟ Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho
rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục… cái học thuyết
ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà
giáo dục cũng cần được giáo dục”. Trong tác phẩm ‟Biện chứng của tự nhiên”,
Ph.Ăngghen cũng cho rằng: ‟ thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần của
chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do
chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc tham gia lịch sử


ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của
chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp từ này
bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý
thức bấy nhiêu”
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm

phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một giới tự nhiên thứ hai theo mục
đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự
tồn tại của con người, vừa là phương thức làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp
với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người
thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ
lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mỗi quan
hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng phải thay đổi
cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống dòng kín, mà là hệ
thống mở, tương ứng với điêu kiện tồn tại của con người. Mặc dù là ‟tổng hòa
các quan hệ xã hội ”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư
cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến


đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiễn lên của lịch sử sẽ quy
định tương ứng (mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản
chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là
toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa
định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách
tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiêu phương diện khác nhau: hoạt
động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất

trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động
vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong
bất kì giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
b. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được sống tự
do, hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở thành hiện
thực. Trong các chế độ xã hội dựa trên quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
(chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản ). Các giai cấp thống
trị luôn dùng mọi thủ đoạn để tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do và hạnh phúc
của số đông quần chúng lao động. Cho nên loài người không ngừng đấu tranh
chống lại sự áp bức bất công đó.
Xã hội ngày càng căn minh, đó là xu hướng chủ yếu của xã hội. Nhưng cho
đến nay, bước tiễn của nền văn minh vẫn chứa đựng những yếu tố, những
khuynh hướng đi ngược lại lợi ích chung của loài người, nhiều thành tựu của
khoa học kĩ thuật được sử dụng để hủy diệt con người. Công nghiệp hóa học tạo


ra năng suất, chất lượng lao động cao , nhưng lại gây ô nhiễm môi trường, máy
móc thay thế sức người nhưng lại đẩy hàng chục triệu người vào thất nghiệp, xu
thế hội nhập mở cửa tạo ra cơ hội phát triển cho mỗi người, cho mỗi quốc gia
nhưng lại nảy sinh những biểu hiện tiêu cực về lối sống làm mất bản sắc dân
tộc… Ông Nobel đã phát minh ra thuốc nổ và nhờ thuốc nổ trở thành giàu có.
nhưng bản thân ông lại không ngờ thuốc nổ lại sử dụng rộng rãi trong chiến
tranh, tàn sát hàng chục triệu người vô tội. Ân hận về điều đó, ông đã để lại di
chúc, đề nghị sử dụng tài sản mà ông có được do phát minh thuốc nổ, làm giải
thưởng cho những ai có công trình khoa học đem lại hạnh phúc cho con người.
Như vậy ,Nobel đã đề xuất một tư tưởng: Văn minh phải hướng tới nhân đạo.
Thế kỉ XXI chắc chắn sẽ có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và công nghệ sẽ
có những bước tiễn không ngờ. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc
gia là phải làm chủ được các thành tựu của văn minh. Vậy con người là chủ thể

của lịch sử nên chính con người chứ không phải đối tượng nào khác, phải loại trừ
những yếu tố ngăn cản tự do, hạnh phúc của con người, đồng thời thúc đẩy làm
biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Thế giới hiện nay còn
chứa đựng những yếu tố khác đe dọa tự do và hạnh phúc của con người như đói
nghèo, dịch bệnh, thất học, ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội, nguy cơ
khủng bố, chiến tranh... Do đó mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của
cộng đồng quốc tế, của các quốc gia và hành động của mỗi cá nhân phải nhằm
bảo vệ con người, vì tự do hạnh phúc của con người.
Vì con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng, cần
phải được đảm bảo các quyền chính đáng của mình, phải là mục tiêu của mọi
tiến bộ xã hội. Chủ Nghĩa Tư bản hiện đại vẫn đang còn sự phát triển. Nhưng
theo quy luật tiễn hóa của lịch sử, tương lai sẽ thuộc về một xã hội tốt đẹp hơn.
Một xã hội không có tình trạng áp bức, bót lột, và xã hội đó chỉ có thể là XHCN.


1.1.1.2. Quan niệm Mác-Lênin về nhân tố con người
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập
với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành
bản chất của con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người,
C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc: ‟Bản chất con
người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của một cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã
hội”.
Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Luận đề đã khẳng định bản chất xã hội
không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Trái lại, điều
đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và giới động vật trước hết là
bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học
trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác cái bản
chất với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính quy luật. Vi vậy cần phải thấy

được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả
phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không hoàn toàn
phụ thuộc và giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật, trở thành
con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Với vai trò là chủ thể của lịch sử con
người phải được tự do, hạnh phúc, phải được phát triển các khả năng của mình.
Nhưng không phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ điều kiện để phát triển
toàn diện. Vi vậy, một vấn đề đã và đang đặt ra là các quốc gia nói riêng, nhân
loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội.


1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và nhân tố con người
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào
cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa
bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về
chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người
luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính
đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho
sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được
quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong
khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người
đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia
đình mình". Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực
đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và
nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những

cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng
đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù
bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một
cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị
áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam
đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ


mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất
phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa
quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái niệm "con người"
của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng". Người đề
cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai
cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người
nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt
tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại
khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối
lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải
pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực
hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v...) về thực
chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính
sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ
đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ

nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề
cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải
thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu
khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ,
tốt tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực


lượng của toàn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan
niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất biến.
Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa
khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo Người:
"Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân
lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống
vật chất và văn hóa của nhân dân" xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân
dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật
và phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc
thù, tránh giáo điều, rập khuôn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng,
nhất quán với luận điểm của Ăngghen: "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản
không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện
thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện
thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay". Vì vậy, không chỉ trong lý luận về đấu tranh
giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra
những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, "cần có con người xã hội chủ
nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con người
là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải
phóng chính bản thân con người.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con

người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao
động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu
nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi". Người có một
niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô tận


của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình
thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước, thâm
nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân lao
động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng sau sự phục tùng
tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ
bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến"1. Tin vào quần chúng, theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng
sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của
Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ
phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của
Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân", thì các nhà Nho phong
kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực "lấy dân làm gốc", mặc dù cũng
chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ
coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách", một phương tiện để thực hiện mục
đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí
Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một
quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh
của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của
Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân
dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của
Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống
nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có

cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái
dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà
đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp,


giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất
công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con người. ở Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân
chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không
bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ
khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương
nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi
trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp
năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng
của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh
giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất
của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con
người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con
người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân
dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước,
Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ
chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người
thông qua thực tiễn cách mạng của Người
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố con người



Ngay từ những ngày đầu xây dựng XHCN, Đảng ta đã khẳng định ‟Con
người là vốn quý nhất” và ‟Muốn xây dựng thành công XHCN thì phải có con
người XHCN”.
Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội, nhằm giải quyết hài hòa mỗi quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
tập thể, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, lợi ích riêng và lợi ích chung.
Đại hội lần thứ VII của Đảng: ‟Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển
là vì con người, do con người trước hết là người lao động ’’.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng: ‟Lấy việc phát huy yếu tố con người là nhân
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững ”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng: ‟Nguồn lực con người – yếu tố cơ bản của sự
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Phát triển nền văn hóa tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm xây dựng và phát
huy nguồn lực con người. Đại hội lần thứ Ĩ của Đảng cũng đã nêu: ‟Mọi hoạt
động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có tinh thần yêu nước
và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao
động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng
đồng, tôn trọng nhân nghĩa, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình
và cộng đồng xã hội”.
1.2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÂN TỐ CON
NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.2.1. Đặc điểm của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay


1.2.1.1. Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng XHCN trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế
Nền kinh tế thị trường đang hình thành và phát triển

Thứ nhất, trong thời gian qua, kết cấu hạ tầng được đầu tư với mức độ ngày càng
tăng. Tuy nhiên, kết cấu hạ tang vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình
độ thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu, máy
móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản
xuất còn thấp.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, còn mất cân đối và
kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu
kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự phân công hiệp tác, chuyên
môn hóa sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Trong những năm qua thị
trường của nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển nên nó còn ở
trình độ thấp. Dung lượng thị trường nhỏ hẹp, cơ cấu và các yếu tố kinh tế thị
trường hình thành chưa đầy đủ. Chưa có thị trường sức lao động theo đúng
nghĩa, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công
nghệ còn sơ khai, phát triển chậm.
Thứ tư, công cuộc đổi mới ở nước ta trong 20 năm qua đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Một trong những thành tựu quan trọng
nhất là kinh tế tăng trưởng khá nhanh, GDP bình quân đầu người liên tục tăng.
Song, thực tế cho thấy thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn
thấp, do đó sức mua hàng hóa còn thấp, tỷ suất hàng hóa chưa cao.


Thứ năm, còn chịu ảnh hưởng lớn của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp.
Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo
Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hóa tuy có bản chất kinh tế khác
nhau, nhưng chúng đều là những bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống

nhất với các quan hệ cung - cầu, tiền tệ, giá cả chung... Bởi vậy, chúng vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh với nhau. Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ
và tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế
riêng nên bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế, chúng còn có sự
khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng
phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn, các thành phần kinh
tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) tuy có vai trò quan trọng trong phát
triển sản xuất, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu về vốn, hàng hóa và dịch vụ
cho xã hội, nhưng vì dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, các thành phần
kinh tế này không tránh khỏi tính tự phát, chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy
sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội.
Vì vậy, cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn
chặn và hạn chế những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực, hướng
sự phát triển của các thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng, vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất là Nhà nước phải quan tâm tạo điều
kiện củng cố, phát huy hiệu quả, ra sức xây dựng khu vực kinh tế nhà nước đủ
mạnh để làm tốt vai trò chủ đạo, tránh nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.


Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế "mở"
Cơ cấu kinh tế "mở" bắt nguồn từ sự phân bố không đều về tài nguyên thiên
nhiên và sự phát triển không đều về kinh tế, kỹ thuật giữa các nước, đáp ứng yêu
cầu quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế. Vì vậy, trong thời đại ngày
nay, mỗi quốc gia muốn phát triển toàn diện cần phải tích cực mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế.
Cơ cấu kinh tế "mở" thích ứng với chiến lược thị trường "hướng ngoại", làm cho
thị trường trong nước thông thoáng và gắn liền với thị trường thế giới. Thông
qua phát triển cơ cấu kinh tế "mở", cùng các hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ giúp

nước ta tiếp thu được kỹ thuật công nghệ, vốn và kinh nghiệm sản xuất kinh
doanh của các nước tiên tiến để khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, kỹ
thuật so với các nước phát triển.
Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự
quản lý vĩ mô của nhà nước
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền kinh
tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn trước đây, cũng
như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này
cũng chính là mô hình kinh tế khái quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Mô hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng, làm cho nó khác với
kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
1.2.1.2. Đặc điểm về chính trị - xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất: Là hình thức quá độ từ HTCT dân chủ nhân dân tiến lên HTCT xã
hội chủ nghĩa. Sự quá độ này không chỉ do những điều kiện lịch sử cụ thể và yếu
tố “địa chính trị” quy định, hơn nữa còn trực tiếp bị quy định bởi tính quá độ
chính trị của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Chính vì vậy, HTCT Việt


Nam vừa mang những đặc trưng của HTCT dân chủ nhân dân vừa mang những
đặc trưng của HTCT XHCN. Từ đặc điểm này để nhận thấy, trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện HTCT phải tính đến việc sử dụng những giải pháp, hình
thức, những bước đi quá độ phù hợp.
Thứ hai: HTCT Việt Nam là HTCT nhất nguyên, dưới sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tính nhất nguyên của HTCT Việt Nam được
quy định bởi, trước hết, nó được xây dựng và hoạt động trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu của nó không ngoài việc
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về
nhân dân; hai là, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng còn được quy định bởi bản chất
cách mạng và khoa học của Đảng, một đảng và ở Việt Nam chỉ duy có Đảng
Cộng sản mới là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên

phong của nhân dân và của cả dân tộc; bởi, thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhân
dân Việt Nam luôn thừa nhận và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ ba, HTCT mang tính nhân dân rộng rãi. Hiến pháp của nước ta ghi
rõ: “ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
nông dân và đội ngũ trí thức”. Tính nhân dân rộng rãi của HTCT thể hiện chủ
yếu ở mục tiêu, phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTCT.
- Nhân dân là gốc của quyền lực, là chủ của xã hội. Tổ chức của Nhà nước
do nhân dân lập ra, hoạt động của các cơ quan và công chức nhà nước là đầy tớ
của dân chịu sự giám sát tối cao và thường xuyên của dân.
- HTCT bằng mọi hình thức khác nhau để tập hợp, tổ chức mọi người dân
thuộc các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp, chính kiến…ở trong và ngoài
nước để tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Thứ tư, HTCT nước ta được tổ chức chặt chẽ, có sự phân định chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi tổ chức và cơ chế hoạt động của từng tổ chức
cũng như của cả hệ thống. HTCT ở Việt Nam được tổ chức hết sức rộng rãi, chặt
chẽ, các mối quan hệ ngày càng được xác định rõ ràng hơn. Trong phạm vi hoạt
động của mình, cùng một lúc mỗi một thành viên phải thực hiện các quan hệ có
tính chất khác nhau với các đối tượng khác nhau của HTCT: quan hệ lãnh đạo,
chỉ đạo, hướng dẫn; quan hệ phối hợp, cộng tác, liên kết. Tất cả tạo thành một
mạng lưới chằng chịt, gắn kết chặt chẽ
Thứ năm, HTCT nước ta có thuộc tính bản chất là sự thống nhất giữa tính
giai cấp và tính dân tộc. Ở nước ta, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc luôn gắn
bó, quyện chặt lẫn nhau. Nghiên cứu quá trình dân tộc và quá trình chính trị của
nước ta sẽ đi tới khẳng định sự nổi trội của tính dân tộc trong suốt lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và gĩư nước. Nhận rõ đặc trưng về sự nổi trội của tính dân
tộc không phải là coi nhẹ tính giai cấp, mà là khắc phục quan niệm tuyệt đối hoá

giai cấp để thấy rõ sự thống nhất giữa tính dân tộc và tính giai cấp trong hoàn
cảnh đặc thù của nước ta.
Những đặc điểm trên vừa quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối
quan hệ vừa quy định tính thống nhất của HTCT duy nhất trong cả nước. Các
khái niệm trung ương - địa phương - cơ sở chỉ là những cấp độ khác nhau của
HTCT nói chung chứ không phải là có ba HTCT: HTCT trung ương, HTCT địa
phương và HTCT cơ sở. Khẳng định điều này có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn. Với cách hiểu HTCT nói chung có tính toàn vẹn, duy nhất,
thống nhất như vậy sẽ là tiền đề, cơ sở để hiểu đúng vai trò, vị trí của HTCT ở cơ
sở - cấp cơ sở của HTCT nói chung.
1.2.1.3. Đặc điểm của văn hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế




Đặc trưng thứ nhất: Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng
trên tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có
những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa
sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan
dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ
trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn
học, nghệ thuật.



Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố
dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng
tại Việt Nam. Từ cái nôi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông
Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa Kinh Kỳ, văn hóa làng xã và
văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây

bắc và Đông bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt Nam thời dựng nước
ở Bắc Trung bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người Chăm ởNam
Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các
tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người
ở Tây Nguyên.



Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt
cùng với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của
người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong
hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung
Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương
Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay
đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng


cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam
hiện đại.
Một số yếu tố thường được coi là đặc trưng của văn hóa Việt Nam khi nhìn nhận
từ bên ngoài bao gồm tôn kính tổ tiên, tôn trọng các giá trị cộng đồng và gia
đình, thủ công mỹ nghệ, lao động cần cù và hiếu học. Phương Tây cũng cho rằng
những biểu tượng quan trọng trong văn hóa Việt Nam bao gồm rồng, rùa, hoa
sen và tre.
1.2.1.4. Đặc điểm của giáo dục, đào tạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế
Về mục tiêu giáo dục toàn diện, trước đây thường được hiểu đơn giản là:
Học sinh phải học đầy đủ tất cả các môn học thuộc các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, rồi thì cả về nghệ thuật, thể dục thể thao…; chú trọng
dạy chữ hơn dạy người, chú trọng truyền bá kiến thức hơn đào tạo, bồi dưỡng

năng lực của người học, ít yêu cầu người học vận dụng kiến thức vào thực tế.
Điều đó dẫn đến tình trạng người học bị quá tải, nhưng lại vẫn không đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn, không đạt được mục tiêu giáo dục.
Giáo dục toàn diện theo tinh thần đổi mới hiện nay là: Phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất của người học; chú trọng cả dạy chữ, dạy người và dạy nghề.
Giáo dục và Đào tạo phải làm sao để tạo ra được những con người có phẩm chất,
năng lực cần thiết để phục vụ đất nước, xây dựng xã hội; có đủ hiểu biết và kỹ
năng



bản

để

sống

tốt



làm

việc

hiệu

quả…

Quá trình thực hiện đổi mới giáo dục và đào tạo, chỉ được coi là thành công khi

khắc phục được những yếu kém, những hạn chế, những bất cập của giáo dục tồn
tại trong nhiều năm qua và đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng


×