Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Báo cáo thực địa tài nguyên nước Đồ Sơn Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 10 trang )

Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên
Khoa Môi Trường

Hà Nội, Tháng 05 Năm 2008

Báo Cáo Thực Tập
Hiện Trạng Tài Nguyên Nước Đồ Sơn
Sinh Viên: Dương Công Hưng
Lớp: K9CLC Môi Trường


Mục Lục

Mở đầu
Tài nguyên nước là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của một
một khu vực. Thực trạng sử dụng tài nguyên nước và giải pháp nào cho việc bảo vệ và
sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên quý giá này là yêu cầu cấp thiết đối với mỗi khu vực,
mỗi quốc gia.
Báo cáo thực tập môn Tài nguyên thiên nhiên - Hiện trạng Tài nguyên nước
Đồ Sơn cung cấp cái nhìn tổng quan về hiện trạng và một số giải pháp cho các nguồn
nước hiện nay ở Đồ Sơn.
Để hoàn thành báo cáo này, đầu tiên em xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của ThS.
Nguyễn Thị Phương Loan cùng các thầy cô trong khoa Môi trường đã hướng dẫn
trong đợt thực tập vừa qua: CN. Lê Văn Lanh ; CN. Kim Văn Chinh; ThS.
Nguyễn Thu Hà.
2 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường

2



Phần 1: Tổng quan về Đồ Sơn
1.1.

Điều kiện tự nhiên

1.1.1.
Vị trí địa lý, địa hình
Đồ Sơn là một bán đảo nằm cách trung tâm thành phố Hải Phòng 22km về phía Đông Nam. Quận
Đồ Sơn Hiện nay có diện bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của thị xã Đồ Sơn cũ, và diện
tích tự nhiên, dân số của xã Hợp Đức thuộc huyện Kiến thụy. Đồ Sơn hiện nay có diện tích tự nhiên là
4.237,29 ha, dân số 51.417 người, địa giới hành chính: phía Đông Bắc, phía Đông và phía Nam giáp
Vịnh Bắc Bộ, phía Tây giáp huyện Kiến Thuỵ, phía Tây Bắc giáp quận Dương Kinh.
Đồ Sơn là một bán đảo nhỏ, với dãy núi Rồng vươn dài ra biển tới 5 km, với hàng chục mỏm đồi
cao từ 25 đến 130 m.Về phía tây và tây bắc, quận Đồ Sơn tiếp giáp với huyện Kiến Thụy, các
hướng còn lại tiếp giáp với biển Đông. Do ở phía bắc và phía nam của quận này là hai cửa sông

Lạch Tray và Văn Úc thuộc hệ thống sông Thái Bình đổ ra biển đem theo nhiều phù sa nên nước
biển ở khu vực này không thực sự được trong.
Địa hình bán đảo Đồ Sơn có thể chia thành 4 nhóm sau: Đồi núi thấp ven biển, đồng bằng không
ngập triều, đất ướt bán ngập triều và các bờ ngầm, luồng lạch ngập nước biển. Bờ biển qua các giai
3 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường
3
Hình 1: Bản đồ hành chình Quận Đồ Sơn (Trước
2007)


đoạn kiến tạo và tác động của sóng biển, đã hình thành các loại địa hình khác nhau như: thềm mài
mòn (bench), vách sóng vỗ (cliff) cổ và hiện đại. Tại chân các cliff trẻ, sóng vỗ ăn hõm sâu vào vách,
đến một lúc nào đó sẽ sinh đổ lở do phần vách phía trên không còn điểm tựa, tạo ra các cảnh quan bãi
đá độc đáo. Đường bờ biển khúc khuỷu, tạo ra hàng loạt các vũng vạn, nơi cát biển tập kết, tạo cơ hội

cho sự hình thành hàng loạt bãi tắm, bến tàu… Những loại đất gặp ở Đồ Sơn là: Đất đỏ vàng trên núi
(Ferasol), đất dốc tụ màu xám (Acrisol), đất cát đỏ (Aluvisol), đất cát trắng ven biển, đất chua phèn
(Thionic fluvisol), đất mặn sú vẹt (ifluvisol).
1.1.2.
Khí hậu
Đồ Sơn có khí hậu gió mùa nhiệt đới, mùa hạ nóng ấm, mưa nhiều từ tháng V - IX, mùa đông
lạnh, ít mưa, từ tháng XI - III. Tháng IV và X là tháng chuyển tiếp khí hậu. Nhiệt độ trung bình năm
23 - 24oC, mùa hè 28 - 29oC, mùa đông 17 - 18oC. Bức xạ trung bình 110 - 115 kcal/cm 2/năm, cán cân
bức xạ quanh năm dương. Nhiệt độ nước biển trung bình năm là 23,5 oC, vào tháng 5 – 9 là 25 oC và
dưới 20oC vào tháng 11 – 3.
Lượng mưa trung bình năm 1.500 - 2.000 mm. Số ngày mưa trong năm khoảng 100 - 150, ở Đồ
Sơn là 115 ngày, tập trung chủ yếu vào các tháng mùa hè (VI - X), trung bình trong giai đoạn này cứ
1,3 ngày nắng lại có 1 ngày mưa. Lượng mưa cao nhất vào tháng 8 là 325mm, thấp nhất vào tháng 2
là 6mm. Lượng mưa giờ cực đại đạt đến 103,6 mm. Những cơn mưa >50mm đã gây ngập úng đô thị.
Dông khá phổ biến, với tần số xuất hiện là 100 - 120 ngày/năm, tập trung vào mùa hè, 15 - 20
ngày/tháng, thường vào chiều tối hoặc sáng sớm.
1.1.3.
Hải văn
Chế độ triều trong vùng thuộc loại nhật triều đều điển hình, chu kỳ ổn định, trung bình 24h50 ',
biên độ lớn, trung bình 3,6m, cực đại 4,5m vào kỳ triều cường (triều cường vào các tháng 5 - 7 và 10 12). Nước ròng xuất hiện vào tháng 7 - 8, nước cường xuất hiện vào tháng 12 - 1. Mỗi tháng có hai kỳ
triều cường, mỗi kỳ 11 - 13 ngày và hai kỳ triều kém, mỗi kỳ 3 - 4 ngày. Dòng chảy biển có ba loại:
Dòng chảy Vịnh Bắc Bộ xuất hiện ngoài sườn bờ ngầm (tương ứng độ sâu 30m) và có tính thuận
nghịch, phụ thuộc mùa, với tốc độ 20 - 30 cm/s theo hướng Tây Nam trong mùa gió Đông Bắc và 10 20 cm/s theo hướng Đông Bắc trong mùa gió Tây Nam. Dòng chảy triều theo con nước lên xuống,
thường mạnh nhất khi thuỷ triều lên xuống ngang qua mực nước biển trung bình. Dòng triều có thể
đưa một khối lượng nước lớn vào cửa sông. Dòng sóng dọc bờ mang tính cục bộ, tạo bãi và doi cát.
1.1.4.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Diện tích quận Đồ Sơn hiện nay là 30,49km 2, dân số gần 32 vạn người. Quận Đồ Sơn hiện có 4
phường nội thị là Ngọc Xuyên, Ngọc Hải, Vạn Sơn, Vạn Hương và một xã ngoại thị là Bàng La. Các
phường nội thị đã và đang trong quá trình đô thị hoá mạnh mẽ, phân hoá thành hai khu vực là khu dân

cư và khu nghỉ mát nằm sát biển. Nằm trong vùng tam giác tăng trưởng kinh tế phía Bắc, Đồ Sơn có
vị thế hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế biển và du lịch. Do hoàn cảnh địa lý nên Đồ Sơn không
có dân bản địa. Nghề cá đã mang ngư dân đến vùng biển này, định cư gắn liền với những vùng bờ có
khả năng đỗ thuyền to, làm nên “Bát vạn chài”. Đồ Sơn còn có nhiều di tích văn hoá, tâm linh, lịch sử,
gắn liền với cảnh quan và con người nơi này. Huyền thoại, tín ngưỡng tâm linh, lễ hội vốn là phần hồn
của văn hoá truyền thống vạn chài vẫn được bảo tồn phát huy và đang trở thành một yếu tố thúc đẩy
sự phát triển của ngành kinh doanh du lịch.
Từ năm 2000, Đồ sơn được xếp vào hệ thống các điểm du lịch quốc gia, được ưu tiên đầu tư phát
triển.
4 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường

4


Phần 2: Hiện trạng tài nguyên nước Đồ Sơn
2.1.

Tổng quan về tài nguyên nước Đồ Sơn

Tài nguyên nước bán đảo Đồ Sơn rất đa dạng về loại hình, có cả nước ngọt, nước lợ, nước mặn,
nước dưới đất, nước mạch lộ… Tuy nhiên, nguồn nước ngọt ở đây lại rất hạn chế.
2.1.1.
Nước Ngầm
Đồ Sơn hẹp, ba mặt giáp biển, cấu trúc địa chất không thuận lợi cho việc chứa và giữ nước nên tài
nguyên nước ngầm ngọt rất hạn chế cả về trữ lượng và vùng phân bố.
Nước ngầm có trong các trầm tích bở rời đệ tứ nằm khá nông, từ 0.5 – 2m đến 30 – 40m, thành
phần khá phức tạp.
Vùng Ngọc Hải, Vạn Sơn, ven bãi biển có nước ngầm trong tầng cát biển cổ, chỉ cần đào giếng
nông là có nước, lưu lượng dồi dào nhưng nhưng có nguy cơ nhiễm mặn và ô nhiễm cao do tầng chứa
nước có tính thấm cao lại lộ trên mặt.

Dọc đường suối Rồng, nhờ có địa hình đặc biệt, thung lũng mở ra hướng đón gió ẩm, thảm thực
vật phát triển, giúp duy trì nguồn nước lâu dài, hình thành loại nước ngầm khe nứt trong mát mà người
dân vẫn quên gọi là nước suối.
Đảo Hòn Dấu, nhờ có thảm thực vật phong phú, nên có tầng nước ngầm trong tầng sản phẩm
phong hóa đá móng, có thể cấp quanh năm nhưng lưu lượng không nhiều.
2.1.2.
Nước sông
Mặc dù không trực tiếp đổ vào khu vực quận Đồ sơn nhưng sông Văn Úc – Thái Bình, sông Lạch
tray, sông Cấm – Nam Triệu lại ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp trầm tích ven biển cho vùng Đồ
Sơn, tạo nên các vùng đất bồi ngoài đê ngày một mở rộng ra biển.
Hầu hết các con sông ở đây nhỏ, ít nước và dễ nhiễm mặn.

5 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường

5


Sông ở hải Phòng chịu ảnh hưởng nhiều của thủy triều vì mực nước sông chỉ cao 2.1 – 2.5m,
trong khi biên độ triều lớn nhất là 4 – 4.5m
2.1.3.
Nước Mưa
Lượng mưa trung bình năm ở đồ sơn là 1660mm. Số ngày mưa trong năm là 115 ngày. Hình thái
gây mưa chủ yếu là bão, áp thấp, giông.
Cùng với lượng mưa dồi dáo kể trên, nước mưa ở khu vực Quận Đồ Sơn không bị ảnh hưởng
nhiều bởi ô nhiễm nên có chất lượng khá tốt. Vì vậy nước mưa là một nguồn nước cho sinh hoạt quan
trọng ở đây.
2.1.4.
Nước Biển
Vùng biển Đồ sơn Có biên độ triều lớn, trung bình là 3.6m, biên độ triều cực đại lên tới 4.5m.
Nước biển có chứa nhiều phù sa do sông mang tới nên nước biển ở đây không được trong như

những vùng biển khác.
Nước có nguy cơ bị ô nhiễm từ các nguồn giao thông, du lịch, sinh hoạt, nghề cá…

2.2.

Hiện trạng sử dụng tài nguyên nước ngọt Đồ Sơn

2.2.1.
Nước Ngầm
Nước ngầm ở Đồ Sơn bao gồm nguồn nước ngầm nằm trong các trầm tích bở rời Đệ tứ, nằm
trong tầng cát biển cổ và nguồn nước ngầm mạch lộ (hay nước suối). Nước ngầm được khai thác bằng
hai cách: qua giếng khơi (giếng đào) hoặc giếng khoan.
2.2.1.1 Nguồn nước ngầm nằm trong trầm tích đệ tứ
Giếng khơi là loại hình chủ yếu khai thác nước ngầm mạch nông ở Đồ Sơn khoảng vài năm trước
đây, được sử dụng chủ yếu cho tắm, giặt, ít được dùng cho ăn uống. Tuy nhiên, hiện nay loại giếng
này không còn phổ biến nữa mà chỉ còn một vài gia đình ở phường Ngọc Hải sử dụng loại giếng này
bởi theo người dân các giếng đào ở đây hầu hết bị nhiễm mặn hay ô nhiễm chất hữu cơ, nước bị đục
và có mùi khó chịu. Theo khảo sát của đoàn thực tập thì những giếng khơi này thường nông, cống thải
là cống nổi, không có đường dẫn và chỉ cách giếng khoảng 2m, chính vì vậy nước thải bẩn đã qua một
tầng lọc mỏng thấm thẳng vào giếng.
Một số nơi ở Đồ Sơn như ở phường Bàng La người dân sử dụng giếng khoan bơm tay để khai
thác nước ngầm mạch sâu. Tuy nhiên loại nước này chỉ được sử dụng cho tắm, giặt, mà không dùng
cho ăn uống. Nước lúc đầu bơm lên trong, không bị đục, nhưng để một lúc trong không khí thì có
váng màu vàng, mùi tanh của sắt.
2.2.1.2 Nguồn nước suối
Bổ sung cho lượng nước sinh hoạt của người dân quận Đồ Sơn là nguồn nước suối chảy quanh
năm ở khu vực dọc đường suối Rồng.
Nước suối Đồ Sơn được lấy chủ yếu qua dòng chảy bề mặt và đào giếng thu nước. Suối Rồng là
suối gắn liền với lịch sử văn hóa truyền thống ở Đồ Sơn. Suối nằm giữa một bên là cây đa cổ thụ, một
bên là đền Long Sơn. Trước đây nước suối Rồng len lách qua các kẽ đá chảy xuống quanh năm. Thời

Pháp thuộc, một bể chứa nước lớn được xây dựng cách dòng suối khoảng 2m để. Nay bể này đã hỏng,
người ta xây đặt ống dẫn nước ngay ở nơi suối chảy ra rất thuận lợi cho người dân lấy nước và giữ vệ
sinh cho nguồn nước.

6 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường

6


Ngoài ra xung quanh khu vực suối Rồng, các hộ dân cũng xây một số giếng khơi khai thác loại
nước ngầm mạch lộ này.
Nguồn nước suối Rồng chảy quanh năm, lưu lượng nước khá dồi dào (430 m 3/1 ngày đêm) trong,
mát, có vị ngọt, được người dân nơi đây sử dụng chỉ cho ăn uống, đặc biệt người dân rất thích pha
nước chè bằng loại nước này bởi nó làm cho nước chè rất thơm và ngon.
Qua đo đạc, khảo sát chất lượng nước của suối Rồng và một số giếng cạnh khu vực thu được
những kết quả sau:
Độ Dẫn
Độ Đục
To
Độ muối
Nguồn nước
Mùi, vị
pH
(ms/cm)
(NTU)*
(0C)
(%)
Suối Rồng
không
6.8

0.6
0
23.7
0.01
Giếng Ngọc
không
6
0.735
0
23
0
TCVN 5502 không
6 – 8.5
<=5
2003
*
NTU (Nephelometric Turbidity Unit): Đơn vị đo độ đục.
Như vậy so sánh các kết quả đo cho thấy nguồn nước suối quanh khu vự núi Rồng có chất lượng
nước khá tốt, đủ tiêu chuẩn dùng cho sinh hoạt.
Nguồn nước suối này còn được vận chuyển, đem bán cho các hộ dân sống trong khu vực quận
làm nước ăn uống hằng ngày.

2.2.2.
Nước máy
Nước máy là nước đã được xử lý tại nhà máy nước theo quy chuẩn nhất định. Nước máy Đồ Sơn
được cung cấp chủ yếu bởi nhà máy nước Đố Sơn. Nguồn nước cấp cho nhà máy này là nước Sông
He.
Nước được xử lý qua ba công đoạn:
Quá trình lắng
Quá trình lọc

Quá trình khử trùng
Hệ thống phân phối
2: Giếng
Ngọchiện
(Giếng
Hầu hết các phường trong quận Đồ Sơn đã được cấp nước máy. Hình
Hệ thống
cấp nước
nay khai
cũng
thác
nước
ngầm
mạch
lộ)
đã tốt hơn rất nhiều so với những năm trước. Theo những người dân trong phường Ngọc Hải thì trước
đây đường ống dẫn nước làm bằng sắt, có những lúc bị gỉ, nước có có mùi tanh của sắt, nước lại mất
thường xuyên; nhưng hiện nay đường ống dẫn nước đã được thay bằng ống cao su, không còn gặp
tình trạng ống nước bị gỉ, ít mất nước hơn.
Nước máy được sử dụng chủ yếu cho tắm giặt, ăn uống, sinh hoạt hằng ngày. Tuy nhiên qua khảo
sát cho thấy nước máy vẫn có mùi clo, vị ngang.
Kết quả đo nước máy thu được như sau:
Độ đục
Nguồn nước
pH
Độ dân (ms/cm)
T0 (0C)
Độ muối
(NTU)
Trạm cấp nước Sông

7.30
0.770
80
26.0
0.0
7 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường

7


He
Mẫu 1
7.60
0.785
3
22.5
0.03
Mẫu số 2
7.10
1.780
1
23.8
0.08
Mẫu số 3
7.55
0.850
5
24.2
Mẫu số 4
7.25

0.947
1
23.1
0.04
TCVN 5502 - 2003
6 – 8.5
<=5
Địa điểm lấy mẫu đo:
• Mẫu 1: lấy tại gia đình ông Hoàng Gia Hoài, số 1 Nguyễn Hữu Cầu.
• Mẫu 2: Tại gia đình ông Nguyễn Đình Theo, số 2, xóm sản xuất 2, phường Ngọc Hải
• Mẫu 3: Tại số 5, xóm sản xuất 2, phường Ngọc Hải.
• Mẫu số 4: Tại UBND phường Ngọc Hải
Đồ Sơn có hai nhà máy cấp nước đều dùng sông He là nguồn cấp. Sông He nằm gần vùng sản
xuất nông nghiệp nên chất lượng nước sông khi bơm về nhà máy nước Đồ Sơn có độ đục cao (80
NTU).
Qua các kết quả đo các chỉ tiêu trên có thể thấy, nước máy ở Đồ Sơn đủ tiêu chuẩn nước cấp cho
sinh hoạt, là nguồn nước sạch cho dân cư và các hoạt động khác trong vùng.

2.2.3.
Nước mưa
Nước mưa là một phần quan trọng trong cơ cấu sử dụng nước ở Đồ Sơn. Nước mưa ở đây chưa bị
ô nhiễm, sạch và được dùng cho ăn uống. Nước mưa được hứng trên mái nhà, rồi cho qua bể lọc, cuối
cùng được đưa vào bể chứa để sử dụng. Theo các hộ dân dùng nước mưa cho thấy, nước mưa là loại
nước rất ngon, được dùng chủ yếu cho ăn uống, thay nước máy.
Kết quả đo một số mẫu nước mưa trong bể chứa qua lọc thu được như sau:
Độ dẫn điện
Độ
Nguồn nước
pH
Độ đục

T (0C)
(ms/cm)
muối(%)
Số 1, Nguyễn Hữu Cầu
8.3
0.229
1
24
0
Đền thờ Nam Nải Thần
8.59
0.397
0
25.6
0.01
Vương
Trạm Hải đăng Hòn Dấu
8.05
0.224
0
23.9
0
Số 5, Nguyễn Hữu Cầu
7.5
0.267
0
23.1
0.01
6–
TCVN 5502 - 2003

<=5
8.5
Thông thường, nước mưa có pH thấp hơn 7, nhưng tại Đồ Sơn, pH nước mưa lại khá cao, điều
này có thể giải thích là do trong bể lọc nước mưa có chưa chất kiềm, hòa tan vào nước làm cho pH
của nước tăng nên đáng kể. Tuy nhiên loại nước này vẫm phù hợp với TCVN 5502 – 2003 và có thể
dùng cho ăn uống, sinh hoạt được tốt.

2.3.

Các nguy cơ đối với tài nguyên nước ngọt Đồ Sơn

Như vậy, có thể thấy, Đồ Sơn khá dồi dào về các loại hình nước ngọt cung cấp cho sinh hoạt. Các
loại nước này theo khảo sát sơ bộ cho thấy chúng đủ tiêu chuẩn sử dụng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là
những số liệu về mặt lý hóa, để kiểm tra nguồn nước còn cần các chỉ số sinh học như chỉ số E.coli còn
chưa được kiểm tra. Theo một nghiên cứu về sự ô nhiễm vi sinh vật trong các nguồn nước sinh hoạt

8 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường

8


tại Đồ Sơn thì các loại nước sinh hoạt ở đây lại bị ô nhiễm vi sinh vật rất lớn, cao gấp nhiều lần so với
tiêu chuẩn cho phép [2].
Cùng với đó, Đồ Sơn lại là một khu du lịc biển khá phát triển, khách du lịch đến đây ngày càng
đông, thêm vào đó là các dự àn du lịch như HonDau Resort cần một lượng rất lớn nước sinh hoạt.
Điều này có thể dẫn tới tình trạng thiếu nước cấp cho khu vực trong thời gian tới.
Để đảm bảo nguồn cung cấp nước cho Đồ Sơn, cần phải có những chính sách quản lý, quy hoạch
và bảo vệ hợp lý nguồn nước ngọt ở nơi đây. Một vài giải pháp có thể đưa ra ở đây như là: Cần phải
có sự quản lý hơn nữa tại khu vực suối Rồng nhằm bảo vệ nguồn nước suối nơi đây; Có những biện
pháp sử dụng tối đa nguồn nước mưa nhằm làm giảm sức ép cho sử dụng nước máy, đặc biệt là ở

những khu vực quy hoạch cho phát triển du lịch;…

2.4.

Tài nguyên nước biển Đồ Sơn

Nước biển Đồ Sơn được sử dụng cho phát triển du lịch, làm muối và cho nuôi trồng thủy sản.
Hiện nay tài nguyên nước biển Đồ Sơn đang gặp phải những nguy cơ sau:
• Ô nhiễm dầu do giao thông đường thủy.
• Ô nhiễm các chất hữu cơ, các chất độc hại, nước biển quá đục do các chất thải từ các dòng
sông lớn đem tới.
• Các chất thải của chính địa phương (cảng cá, nước thải sinh hoạt đổ thẳng ra biển,…) gây ra
ô nhiễm nguồn nước.

Kết luận
Tài nguyên nước ngọt ở khu vực quận Đồ Sơn là khá phong phú về loại hình. Hầu hết chúng có
thể được sử dụng tốt cho sinh hoạt. Tuy nhiên có thể thấy rằng, thói quen sử dụng nước ở đây chỉ
mang tính kinh nghiệm. Nhân dân rất chú trọng đến vấn đề nước dùng cho ăn uống. Đối với vùng xa
suối có thể tận dụng mái nhà, cây cối để hứng nước mưa dùng làm nước ăn, thậm chí đi mua cả nước
suối Rồng về chỉ dùng cho mục đích ăn uống. Điều đó cũng cho thấy nhu cầu sử dụng nước sạch ở
đây là rất cấp thiết. Các nhà quản lý cần có nhiều chính sách, biện pháp quản lý hợp lý hơn nữa để bảo
vệ, cung cấp nguồn nước sạch cho người dân.
Tài nguyên nước biển là nguồn lợi vô cùng lớn cho du lịch, nhưng nó cũng đang bị tác động bởi ô
nhiễm. Các biện pháp giải quyết ô nhiễm nguồn tài nguyên này cũng là một điều hết súc thiết thực
hiện nay ở Đồ Sơn.

9 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường

9



Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn Thị Phương Loan (chủ biên) – Hướng dẫn thực tập tài nguyên
môi trường Đồ Sơn – NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Mai Anh (1999) – Ô nhiễm vi sinh các nguồn nước sinh hoạt ở Đồ Sơn, Hải
Phòng – Luận văn tốt nghiệp ngành Môi trường khóa 40.
3. Trần Xuân Việt (2007) – Chất thải rắn sinh hoạt - Báo cáo thực tập môn Tài Nguyên Thiên
nhiên.

10 Dương Công Hưng – K9CLC Môi Trường

10



×