Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

bài tiểu luận kinh tế quốc tế hà minh hải lớp ngân hàng HVNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.14 KB, 19 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
Môn: KINH TẾ QUỐC TẾ

Đề tài: AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN,
NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC
ASEAN

Sinh viên: Hà Minh Hải


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
LỜI MỞ ĐẦU
ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 19811991 là 5,4%; gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy
vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều
không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh
tế như:
- Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA).
- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).
- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất
công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV).

Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong
nội bộ thương mại ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưỏng đến đầu tư trong
khối. Do đó, AFTA được ra đời.

Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 1




AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
PHẦN I: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ AFTA
I. Quá trình hình thành và phát triển AFTA
AFTA là tên viết tắt tiếng Anh của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(ASEAN Free Trade Area), là một hiệp định thương mại tự do đa phương giữa
các quốc gia trong khối ASEAN. Theo đó sẽ giảm dần thu thuế quan xuống còn
0 - 5%. Loại bỏ hàng rào thuế quan đa phần với các nhóm hàng và thủ tục hải
quan giữa các quốc gia.
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong
môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN
trước nhứng thách thức to lớn không dễ dàng vượt qua nếu không có sự liên kết
chặt chẽ và nỗ lực vủa toàn hiệp hội, những thách thức đó là:
- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ,
đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong
ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong
nước cũng như quốc tế.
- Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như
khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA và khu vực mậu dịch tự do Châu
Âu EU sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá
ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
- Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi
rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài
nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Nga và các
nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi
hỏi ASEAN phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái
Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA).

Sáng kiến thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) do thủ tướng
Thái Lan đưa ra vào năm 1991, sau đó được thủ tướng Singapore ủng hộ. Tháng
7/1991, Hội nghị Ngoại Trưởng ASEAN tại Kualalumpur (Malaysia) đã hoan
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 2


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
nghênh sáng kiến này mặc dù có nhiều nước còn tỏ ra dè dặt. Hội nghị Bộ
trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 23 tháng 10/1991 đã nhất trí thành lập Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN và Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV tháng 1/1992
họp tại Singapore quyết định thành lập AFTA.
Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thái Lan. Sau đó, từ năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm 4
nước thành viên mới là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar.
II. Mục tiêu chính của AFTA
Việc thành lập AFTA năm 1992 là một mốc quan trọng trong lịch sử tự do
hóa thương mại nội bộ ASEAN, đánh dấu sự phát triển về chất trong hợp tác
thương mại khu vực. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV tháng 1/1992 họp tại
Singapore quyết định thành lập AFTA với 3 mục tiêu cơ bản sau:
- Tự do hóa thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan
trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối
thị trường thống nhất. Đây là mục tiêu trung tâm của việc thành lập AFTA,
AFTA tạo ra một nền tảng sản xuất thống nhất trong ASEAN, điều đó cho phép
hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa trong nội bộ khu vực và khai thác các thế
mạnh của các nền kinh tế thành viên khác nhau.
- Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang

thay đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hóa thương mại.
Với AFTA, các nước ASEAN hy vọng rằng sẽ nâng cao hơn nữa khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp, mở rộng thị trường ngay trong nội bộ tổ chức
ASEAN bằng cách giảm thiểu hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong quan
hệ mậu dịch giữa các nước thành viên với nhau. Nhưng quan trọng hơn hết là
tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài và làm cho kinh tế ASEAN có thể thích nghi được với điều kiện
kinh tế quốc tế đang thay đổi theo hướng gia tăng quá trình tự do hóa. Tuy
nhiên, AFTA mới chỉ là nấc thang đầu tiên trong tiến trình khu vực hóa. Với sức
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 3


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
ép của các hợp tác kinh tế khu vực và các tổ chức thương mại quốc tế khác,
AFTA buộc phải đẩy nhanh tốc độ thực hiện và không chỉ dừng lại ở một liên
minh thuế quan hay một khu vực mậu dịch tự do mà trong tương lai sẽ tiếp tục
tiến tới những tầm cao mới như thị trường chung, liên minh kinh tế.
III. Nội dung cơ bản của AFTA
1. Hiệp định CEPT và các quy định chung của CEPT
Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước
ASEAN - cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu
lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT.
CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm
thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0 - 5%, đồng thời loại bỏ tất cả
các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm, bắt
đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003 (đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh
so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu: từ 15 năm xuống còn 10 năm).

Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc
thực hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu,
không tách rời dưới đây :
- Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan: Mục tiêu cuối cùng của AFTA là
giảm thuế quan xuống 0 - 5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các
nước mới, nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm.
- Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi thuế quan: hạn ngạch, cấp giấy
phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật (kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ).
- Thứ ba là hài hoà các thủ tục hải quan.
2. Các Nội dung và Quy định cụ thể
a. Vấn đề về thuế quan
Các bước thực hiện như sau:
Bước 1: Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế
quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện
CEPT:
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 4


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
- Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (IL).
- Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SEL).
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL).
Trong 4 loại Danh mục nói trên thì :
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): Là những sản phẩm
không phải thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt
giảm thuế, loại bỏ hàng rào phi thuế quan. Các sản phẩm trong danh mục này

phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc
sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá
nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo cổ...( theo điều 9B Hiệp định CEPT).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm
cao (SEL): Là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và
thời hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm
thuế cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết
thúc 1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0 - 5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các
sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT.
- Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay ( IL) và Danh mục sản phẩm tạm
thời chưa giảm thuế (TEL): Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh
mục này phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ
hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá
trong 2 Danh mục này là những sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên
vật liệu, sản phẩm nông nghiệp... nghĩa là tất cả những sản phẩm hàng hoá được
giao dịch thương mại bình thường trừ những sản phẩm hàng hoá được xác định
trong 2 Danh mục (SEL) và (GEL) nêu trên.
Bước 2: Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm (toàn bộ thời gian
thực hiện Hiệp định):
Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ
trình tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 5


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
thuế ngay (IL) và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL). Các nguyên tắc
xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau:

- Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List - IL): Các sản
phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại thời điểm bắt
đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như sau :
+ Các sản phẩm có thuế suất trên 20% (> 20%) sẽ được giảm xuống 20%
trong vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0 - 5% trong 5 năm còn lại.
Cụ thể: Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào
1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003.
+ Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống
còn 0 - 5% trong vòng 7 năm đầu. Cụ thể: Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc
thấp hơn 20% được giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2000.
Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi năm
5 %, không được duy trì cùng thuế suất trong 3 năm liền, trong trường hợp thuế
MFN thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế suất CEPT tại thời
điểm đó thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN đó; trường hợp
thuế MFN thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động theo thuế suất
MFN đó và phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức thuế CEPT của
năm sau lên cao hơn năm trước.
- Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Để tạo thuận lợi
cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và chuyển hướng đối với một
số sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT cho phép các nước thành
viên ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện tiến trình cắt
giảm thuế quan ngay theo CEPT.
Tuy nhiên, Danh mục (TEL) này chỉ mang tính chất tạm thời, các sản phẩm
trong Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ sang Danh mục cắt
giảm thuế (IL) ngay trong vòng 5 năm, kể từ năm thứ 4 thực hiện Hiệp định tức
là từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong Danh mục
(TEL) vào Danh mục (IL).
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng


Page 6


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
Lịch trình cắt giảm thuế của các sản phẩm chuyển từ Danh mục (TEL) sang
Danh mục (IL) này như sau:
+ Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, phải giảm dần thuế suất
xuống bằng 20% vào thời điểm năm 1998, trường hợp các sản phẩm được
chuyển vào đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế suất lập tức phải bằng
hoặc thấp hơn 20%, và tiếp tục giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003 như lịch
trình đối với sản phẩm trong Danh mục (IL).
+ Đối với những sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được
giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003.
Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục (IL) nói trên.
Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện,
không được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các mặt
hàng từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được chuyển
các mặt hàng từ Danh mục (TEL) sang Danh mục nhạy cảm (SEL) hay Danh
mục loại trừ hoàn toàn (GEL) mà chỉ có sự chuyển từ Danh mục (TEL) sang
Danh mục (IL) nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục (SEL), (GEL) sang Danh
mục (TEL) hoặc (IL). Nếu vi phạm thì nước thành viên phải đàm phán lại với
các nước khác và phải có nhân nhượng bồi thường.
Bước 3: Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm
thuế hàng năm:
Trên cơ sở lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước
thành viên phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành thuế suất
CEPT của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN để
thông báo cho các nước thành viên.
Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT: Muốn được hưởng nhượng bộ về
thuế quan khi xuất khẩu hàng hoá trong khối, một sản phẩm cần có các điều kiện

sau:

Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 7


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
(1) Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm thuế (IL) của cả nước
xuất khẩu và nước nhập khẩu, và phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc
thấp hơn 20%.
(2) Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA
thông qua.
(3) Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả
mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội
địa) ít nhất là 40%.
b. Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế quan
khác (NTBs)
Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải
được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng
rào phi thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy
phép,...) và các hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các quy
định về tiêu chuẩn chất lượng,...). Các hạn chế về số lượng có thể được xác định
một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng
trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác.
Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại bỏ
phức tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau:
- Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các
sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó; cụ thể:

những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ phải bỏ các
hạn chế về số lượng.
- Các hàng rào phi thuế quan khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5
năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.
- Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt
đối với các sản phẩm thuộc CEPT.
- Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và
thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau.
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 8


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
- Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột
gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các
nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập
khẩu.
c. Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan
Thống nhất biểu thuế quan: Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất
và xuất nhập khẩu ASEAN tiến hành việc buôn bán trong nội bộ khu vực được
dễ dàng và thuận lợi, cũng như các cơ quan hải quan ASEAN dễ dàng trong việc
xác định mức thuế cho các mặt hàng một cách thống nhất, ngoài ra phục vụ cho
các mục đích thống kê, phân tích, đánh giá việc thực hiện CEPT - AFTA, cũng
như tình hình xuất nhập khẩu nội khối, các nước đã quyết định sẽ thống nhất
một biểu thuế quan trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số theo Hệ thống điều hoà
của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới (HS). Biểu thuế quan chung của ASEAN
hoàn thành trong năm 2000 và được áp dụng từ năm 2000, những nước nào
chậm nhất cũng áp dụng từ năm 2002.

Thống nhất hệ thống tính giá hải quan: Vào năm 2000, các nước thành viên
ASEAN thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT - GTV
(GATT Transactions Value), thực hiện điều khoản VII của Hiệp định chung về
thương mại và thuế quan 1994 ( Hiện nay là Tổ chức thương mại thế giới WTO)
để tính giá hải quan. Một cách tóm tắt là giá trị hàng hoá để tính thuế xuất nhập
khẩu là giá trị giao dịch thực tế giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu,
không phải là do nhà nước áp đặt.
Xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan: Hệ thống này được thực hiện từ
1/1/1996 nhằm đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hoá
thuộc diện được hưởng ưu đãi theo chương trình CEPT của ASEAN.
Thống nhất thủ tục hải quan: Hai vấn đề đã được các nước thành viên ưu
tiên trong việc thống nhất thủ tục hải quan.
- Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: Các nước
ASEAN đã gộp ba loại tờ khai hải quan (Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Mẫu
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 9


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
D, Tờ khai hải quan xuất khẩu và Tờ khai hải quan nhập khẩu) lại thành một
mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT.
- Thủ tục xuất nhập khẩu chung: bao gồm những vấn đề sau:
+ Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu.
+ Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu.
+ Các vấn đề về giám định hàng hoá.
+ Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau
và có hiệu lực hồi tố.
+ Các vấn đề liên quan đến hoàn trả...

IV. Những vấn đề đặt ra đối với AFTA
Sự ra đời khu mậu dịch tự do ASEAN sẽ đem lại cho các quốc gia thành
viên những động lực mới để phát triển. Tuy nhiên tiến trình thực hiện AFTA để
đi tới việc cho ra đời khu vực mậu dịch tự do còn rất nhiều khó khăn.
- Thứ nhất, với tính chất là một tổ chức hợp tác kinh tế có thể chế, AFTA
dường như một dạng của “mô hình phát triển rút ngắn” của liên kết kinh tế khu
vực và trên thực tế nó không có những điều kiện chuẩn bị chín muồi về các bước
liên kết khu vực như EU, NAFTA… Do đó, AFTA hình thành chỉ như một dạng
hiệp định khung, có phần hơi giản đơn, nội dung, lịch trình của hiệp định lại chỉ
được soạn thảo, sửa đổi, bổ sung đồng thời với tiến trình thực hiện, tổ chức
chúng.
- Thứ hai, sự mở rộng ASEAN từ ASEAN 6 lên ASEAN 10 đã tạo nên
một cấu trúc kinh tế “song tầng” giữa một ASEAN 6 tương đối phát triển và một
ASEAN 4 kém phát triển. Cơ cấu “song tầng” khiến cho hợp tác nội bộ
ASEAN, trước hết là việc thực hiện điều khoản của AFTA càng trở nên khó
khăn hơn.
Ngay cả đối với các thành viên sáng lập AFTA, thực hiện AFTA cũng rất
khó khăn bởi trước đây họ thực hiện chính sách bảo hộ công nghiệp quá nặng
nề. Các quốc gia như Việt Nam, Lào, Campuchia là những nước kém phát triển

Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 10


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
hơn, lại mới gia nhập vào ASEAN cũng như AFTA nên chắc chắn sẽ không
thích ứng ngay được với những chuyển đổi quá nhanh như vậy.
- Thứ ba, các công ty đa quốc gia bên ngoài ASEAN sẽ chỉ đầu tư trực tiếp

nhiều hơn vào những nước có môi trường đầu tư thuận lợi. Do đó, để cho toàn
khu vực ASEAN trở nên hấp dẫn đầu tư và phát huy được lợi thế so sánh của tất
cả các nước thì các thành viên ASEAN phải có chiến lược sắp xếp cơ cấu sản
xuất hợp lí, tham gia vào sự phân công lao động khu vực ASEAN theo hướng
chuyên môn hóa, hiện đại hóa, từng bước nâng cao lợi thế để có thể thực hiện
cạnh tranh bình đẳng trên cả thị trường thế giới.
- Thứ tư, thị trường bên trong ASEAN tương đối nhỏ và bản thân sự tăng
trưởng của các nền kinh tế ASEAN lại lệ thuộc đáng kể vào các thị trường Mĩ,
Nhật. Do đó, có thể nói rằng, AFTA không phải là một sự lựa chọn để hội nhập
thế giới nhưng đó là con đường tốt nhất để cải thiện năng lực cạnh tranh của
ASEAN cũng như thúc đẩy thương mại và đầu tư vào ASEAN.
PHẦN II: TÁC ĐỘNG CỦA AFTA VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
I. Quá trình tham gia của Việt Nam
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của
ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt Nam
vào năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham gia
AFTA từ ngày 1/1/1996, khi đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT.
Tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế suất 0 - 5%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA
vào năm 2006. Trên thực tế đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng
86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt
giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm
trong thời kỳ 2002 - 2006. Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0 - 5%.

Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 11



AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức thuế
suất trung bình của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và Việt Nam đang là nước
có mức thuế suất trung bình thấp thứ 3 ASEAN, sau Singapore và Brunei.
Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng
chính thức tại Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, Bộ Tài
chính thông báo việc cắt giảm đó được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7.
Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc (TEL) được chuyển sang (IL). Đa số đó là
những mặt hàng hiện đang được bảo hộ với mức thuế suất rất cao (30 - 100%),
hoặc đang được quản lý bằng hạn ngạch như xi măng, giấy, hàng điện tử, đồ gia
dụng, cơ khí, vật liệu xây dựng...
II. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam
Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như những tác động có thể có của nó
đối với các nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình hình cụ thể và tiến
trình thực hiện AFTA của Việt Nam, AFTA có thể có những tác động trên các
mặt chính sau:
1. Thương mại
a. Nhập khẩu
Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm
khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu, trong đó nguyên vật liệu dùng cho sản xuất
và hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã có thuế suất dưới
5% trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA không có tác động trực tiếp tới
việc nhập khẩu những mặt hàng này.
Ngoài ra, một số hàng nhập khẩu có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như
xăng dầu, xe máy... chưa được đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên trước mắt
sẽ nằm ngoài phạm vi tác động của AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh
mục loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ
dần các hàng rào phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu).
Khi đó, rất có thể nhập khẩu, nhất là những mặt hàng tiêu dùng từ các nước

Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 12


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng lên nếu những mặt hàng cùng loại sản xuất trong
nước không cạnh tranh lại được.
b. Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác
Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các
hàng rào phi thuế quan. Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm tăng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này không lớn do các nguyên
nhân sau:
 Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu:
Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng 20 - 23% kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể. Nhưng những mặt hàng
được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần 20% kim ngạch xuất khẩu sang
ASEAN, tương đương với dưới 4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
năm 2001. Và mức tăng xuất khẩu của những mặt hàng này sang các nước
ASEAN khác cũng không lớn.
Cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN khá tương đồng. Với trình độ
thua kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính
độc đáo của chủng loại, mẫu mã và do đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu
hàng hóa nước đối tác.
 Xét về bạn hàng:
2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện với
Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ được tái xuất sang
các nước khác. Nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước AFTA

vốn đã thấp, gần như bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối
ASEAN, 1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các nước
ASEAN khác sẽ chưa làm thay đổi nhiều xuất khẩu Việt Nam nếu xét theo khía
cạnh được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu thấp.
Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyển cơ cấu
sản xuất và xuất khẩu theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa có sức
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 13


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
cạnh tranh và nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp Việt
Nam mới có thêm thuận lợi về yếu tố giá cả khi muốn xuất khẩu sang ASEAN.
c. Xuất khẩu sang các nước ngoài ASEAN
Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất
xuất khẩu với giá rẻ hơn từ các nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành
viên của AFTA, Việt Nam có điều kiện để khai thác những lợi thế mới trong
quan hệ thương mại với nước lớn.
Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra thị
trường thế giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ cũng được hưởng
những lợi ích tương tự. Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp tục phải chấp
nhận cạnh tranh rất quyết liệt với các thành viên khác trong hiệp hội không chỉ
trên thị trường khu vực.
2. Đầu tư nước ngoài
a. Đầu tư từ các nước ASEAN khác
AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo hướng
hợp lý hóa. Khi không còn bảo hộ, một số ngành công nghiệp của một số nước

sẽ bộc lộ sự thua kém về khả năng cạnh tranh, để tồn tại, hoặc để thu được nhiều
lợi nhuận hơn, các nhà kinh doanh trong những ngành này sẽ đầu tư sang các
nước ASEAN khác có các yếu tố thuận lợi hơn, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), các
nhà đầu tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung sẽ có
nhiều thuận lợi về thủ tục hành chính và tâm lý khi đầu tư vào Việt Nam.
b. Đầu tư nước ngoài từ các nước khác
Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ ngoài
khu vực. Đó là bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại một hay một số
nước và đưa ra tiêu thụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế thấp và hàng
rào thuế quan dần được dỡ bỏ. Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một
nước, họ sẽ có một thị trường tiềm năng rộng lớn hơn nhiều lần nước đó.
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 14


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư nước
ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với 80
triệu dân, mà còn tính đến cả thị trường ASEAN với trên 500 triệu người.
Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được xem xét để
đi đến quyết định đầu tư. Thuế thấp sẽ mất đi ý nghĩa thu hút đầu tư nước ngoài
nếu không đi kèm với sự ổn định chính trị, xã hội, luật đầu tư nước ngoài thông
thoáng, nguồn lao động giá rẻ và có tay nghề cao...
Ví dụ đơn cử là Indonesia hiện nay. Mặc dù Indonesia đã hoàn thành
AFTA, nhưng rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài như Sony, Matsushita... đã và
đang rời bỏ nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay Việt Nam vì lo ngại và
thất vọng trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất ổn quyền lực và tham

nhũng...
Đó cũng thách thức chung cho tất cả các thành viên của AFTA. Vì nếu như
trước đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là thành viên của AFTA, để vượt
qua hàng rào thuế quan và các hạn chế nhập khẩu vào thị trường Indonesia hay
Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài buộc phải đầu tư tại nước sở tại. Nhưng
nay Việt Nam đã là thành viên AFTA, nếu môi trường đầu tư vào Việt Nam
không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có
thể sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác, hoặc đơn giản hơn, chỉ cần mở rộng
hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có tại các nước AFTA, đặc biệt là
đối với các dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng vẫn vận hành tốt,
rồi từ đó bán hàng sang Việt Nam.
Như vậy, để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các nước khác
mà AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một cách đồng bộ và
toàn diện môi trường đầu tư.

PHẦN III: TÁC ĐỘNG CỦA AFTA VỚI NỀN KINH TẾ ASEAN
I. Tác động của AFTA với nền kinh tế ASEAN
Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 15


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
Mức tăng trưởng nhập khẩu trong nội bộ ASEAN tăng khoảng từ 40% (đối
với Malaysia) đến 70% (đối với Thái Lan). Nhập khẩu của Singapore tăng mạnh
bởi vì Singapore đã có mức thuế ban đầu gần như là 0%. Trong khi đó một tỷ lệ
đáng kể trong mức tăng trưởng này sẽ là từ việc buôn bán với các nước không
thuộc khối ASEAN và một tỷ lệ lớn hơn sẽ xuất phát từ việc buôn bán do AFTA
tạo ra.

Tổng số lượng xuất khẩu của ASEAN tăng khoảng từ 1,5% (đối với
Singapore) đến 5% (đối với Thái Lan) và tăng ít hơn đối với các nước thành
viên khác, do khu vực tự do hóa mậu dịch tạo ra. Không giống như trường hợp
nhập khẩu, mức tăng xuất khẩu sẽ không có hại cho việc xuất khẩu sang các
nước khác trên thế giới. Nói cách khác, các thành viên ASEAN sẽ tiếp tục xuất
khẩu thêm nhiều sản phẩm sang EU, Mỹ, Nhật và các nước NICs.
Việc tăng cường hợp tác kinh tế và việc thực hiện các sáng kiến mới nhằm
làm giảm chi phí sản xuất và giao dịch trong khu vực làm buôn bán tăng nhanh
trong nội bộ cũng như bên ngoài các nước ASEAN. Biến khu vực ASEAN
không chỉ thành một khu vực hoạt động hấp dẫn mà còn trở thành một thị
trường hấp dẫn.
Xuất khẩu các sản phẩm CEPT trong nội bộ ASEAN tăng 18,68% trong giai
đoạn từ 1994 - 1995; có nghĩa là tăng từ 47,4 tỷ USD lên 56,3 tỷ USD. Xuất
khẩu các sản phẩm CEPT và các sản phẩm không thuộc CEPT trong nội bộ
ASEAN tăng lên 19,77%; từ 57,5 tỷ USD lên 68,8 tỷ USD trong cùng khoảng
thời gian. Các lĩnh vực sản xuất máy móc các thiết bị cơ khí, các thiết bị điện và
âm thanh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong buôn bán nội bộ ASEAN khoảng 58,2%
trong năm 1995. Tỷ lệ buôn bán trong nội bộ ASEAN tính trong toàn bộ kim
ngạch buôn bán của ASEAN giảm xuống còn 19,8% trong năm 1995 trước đó là
20,2% trong năm 1994. Tổng số các mặt hàng nằm trong Danh sách cắt giảm
thuế là 45.609 mặt hàng - chiếm khoảng 94% tổng số mặt hàng của ASEAN.

Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 16


AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
Hơn nữa, khu vực thương mại phát triển có ảnh hưởng tích cực tới việc

phân bổ các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp giữa các nước thành viên
ASEAN. Nhưng sẽ không có một nước nào bá chủ khu vực.
II. Tác động của AFTA với từng nền kinh tế trong ASEAN
Indonesia: Tăng xuất khẩu đáng kể nhất diễn ra trong các ngành cần nhiều
đến sức lao động và tài nguyên như ngành dệt, các sản phẩm gỗ, giấy và các sản
phẩm chế tạo khác. Các ngành hàng suy giảm bao gồm: thực phẩm, các sản
phẩm phi kim loại và các phương tiện giao thông.
Malaysia: Xuất khẩu phần lớn tập trung vào các ngành như may mặc, các
sản phẩm gỗ và các ngành sản xuất máy móc cần nhiều vốn. Các ngành hàng
suy giảm bao gồm : thực phẩm, kính và các sản phẩm kính và phi kim loại.
Philippines: Mức tăng xuất khẩu tập trung chủ yếu ở các loại sản phẩm cần
nhiều vốn đầu tư như các sản phẩm chế tạo phi kim loại, các loại máy điện và
phi điện. Các sản phẩm gỗ, hóa chất công nghiệp và các mặt hàng chế tạo giảm
đi đôi chút.
Singapore: Xuất khẩu tăng trong các ngành công nghiệp nặng như công
nghiệp hóa chất, sắt, thép, các phương tiện vận tải. Một vài ngành công nghiệp
như dệt, may mặc giảm.
Thái Lan: Quy mô xuất khẩu được mở rộng trong các ngành chế biến thực
phẩm, sản phẩm da, các sản phẩm kim loại và phi kim loại và các loại máy điện.
Các sản phẩm gỗ, máy móc và các sản phẩm công nghiệp cao cấp giảm.
Theo chương trình AFTA, một vài ngành hàng được dự đoán sẽ mang lại lợi
nhuận, còn các ngành khác bị suy giảm. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào cơ
cấu ngành và tính hiệu quả của từng ngành trong mỗi quốc gia.

Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 17



AFTA – KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
KẾT LUẬN
Tham gia AFTA là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt Nam trên con đường
hội nhập với khu vực và thế giới. Sự kiện này mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội
mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau,
đòi hỏi sự nỗ lực cả tầm vĩ mô và vi mô để khai thác triệt để các cơ hội và hạn
chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực do các thách thức đưa đến.
Không nên coi việc thực hiện AFTA như một quá trình hay hành động
riêng biệt, mà phải đặt nó trong lộ trình hội nhập và tự do hóa thương mại tổng
thể, trong đó, mục tiêu nhất quán được xác định bởi khuôn khổ WTO.

Hà Minh Hải
Lớp Ngân Hàng

Page 18



×