Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

CÁC NHÂN tố tự NHIÊN ẢNH HƯỞNG đến ĐỘNG THÁI mực nước của TẦNG CHỨA nước TRONG BAZAN ở TỈNH GIA LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 19 trang )

CÁC NHÂN TỐ TỰ NHIÊN ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỘNG THÁI MỰC
NƯỚC CỦA TẦNG CHỨA NƯỚC TRONG BAZAN Ở TỈNH GIA LAI
HỒ MINH THỌ
Liên đoàn ĐCTV- ĐCCT Miền Trung

Tóm tắt: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu các yếu tố tự nhiên địa hình địa mạo, bề dày đới thông
khí, khí hậu, thuỷ văn, cấu trúc địa chất, địa chất thủy văn, tác giả bài báo trình bày các nhân tố
ảnh hưởng đến động thái mực nước của tầng chứa nước trong bazan tỉnh Gia Lai, trong đó các
nhân tố có ý nghĩa quan trọng là lượng mưa, địa hình, địa mạo, địa chất.
MỞ ĐẦU

Tỉnh Gia Lai có diện tích khoảng 15.495 km 2. Địa hình của tỉnh có tính phân bậc (các bậc cao
thường nằm ở phía đông) gồm: địa hình núi cao đến trung bình, địa hình cao nguyên, địa hình
các miền trũng và thung lũng tích tụ. Địa hình cao nguyên là diện phân bố chủ yếu của các thành
tạo phun trào bazan.
Khí hậu tỉnh Gia Lai thuộc loại nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ
tháng IV đến tháng X và mùa khô từ tháng XI đến tháng III năm sau. Lượng mưa trong mùa mưa
chiếm tới 85 - 95% tổng lượng mưa năm, còn lượng mưa trong mùa khô chỉ chiếm 5 - 15%.
Đặc điểm địa chất của tỉnh Gia Lai là sự có mặt khá đầy đủ các phân vị địa tầng từ Archei đến
Đệ tứ, bao gồm 15 phân vị trước Kainozoi và 11 phân vị Kainozoi. Đặc điểm địa chất thủy văn
của tỉnh Gia Lai nổi bật với tầng chứa nước trong bazan (chiếm ¾ diện tích vùng nghiên cứu),
còn lại là các tầng nghèo nước và không chứa nước thuộc các thành tạo trầm tích-phun trào Trias
hệ tầng Mang Yang (T2a my), phun trào Creta hệ tầng Đơn Dương (K 2 đd), Permi hệ tầng Chư
Prông (P2 cp), hệ tầng đá biến chất Khâm Đức (PR2-3 kđ) và các thành tạo magma xâm nhập [3].
Sau đây, tác giả sẽ trình bày các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến động thái mực nước của tầng
chứa nước trong bazan ở tỉnh Gia Lai.
I. ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO

Độ nghiêng địa hình của diện tích phân bố đá bazan có ảnh hưởng đến hướng vận động của nước
dưới đất trong bazan. Bề mặt nước dưới đất của tầng chứa nước có dạng uốn lượn và vận động
theo hướng nghiêng của địa hình (Hình 1). Địa hình các vùng kế cận có ảnh hưởng đến khả năng


cung cấp hoặc thoát nước của tầng chứa nước trong bazan. Nhìn chung, những khu địa hình kế
cận cao hơn địa hình của bazan thì nước của các đơn vị chứa nước ở khu đó có khả năng cung
cấp cho phức hệ chứa nước trong bazan. Với địa hình ngược lại sẽ nhận được sự cung cấp từ
tầng chứa nước trong bazan thoát ra.
Mức độ chia cắt bề mặt địa hình cũng ảnh hưởng đến khả năng cung cấp và tiêu thoát của nước
dưới đất trong tầng chứa nước này. Những khu có mức độ chia cắt địa hình nhỏ, thường thì địa
hình tương đối bằng phẳng thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nước mưa thấm cung cấp cho nước
dưới đất và hạn chế thoát ra dưới dạng mạch lộ; những khu này thể hiện đặc điểm động thái miền
cấp (các vùng Pleiku, Mang Yang, Chư Pah, Đức Cơ). Ngược lại, những khu có mức độ chia cắt
địa hình lớn, thường thì địa hình dốc, thì sẽ làm tăng tốc độ thoát của nước mưa và làm giảm
lượng cung cấp của nước mưa cho nước dưới đất; những khu này thể hiện đặc điểm động thái
của miền thoát (gồm các vùng nam Chư Sê, tây nam Đức Cơ, tây bắc Ia Grai, tây nam Chư
Prông).
Địa hình, địa mạo tỉnh Gia Lai ảnh hưởng đến động thái mực nước dưới đất thể hiện trên Hình 1.


Hình 1. Đồ thị liên hệ giữa độ cao địa hình và độ cao mực nước trong LK
Tại các vùng địa hình của thành tạo bazan cao hơn địa hình các thành tạo trầm tích Đệ tứ và
Neogen, thì nước dưới đất trong tầng chứa nước bazan cung cấp cho các trầm tích đó.
Tại các vùng địa hình của thành tạo bazan thấp hơn địa hình của các thành tạo trầm tích-phun
trào hệ tầng Mang Yang, hệ tầng Đơn Dương, hệ tầng Chư Prông, hệ tầng Khâm Đức và đá xâm
nhập, thì tầng chứa nước trong bazan nhận sự cung cấp nước của các thành tạo này. Tuy nhiên,
các thành tạo nêu trên thường rất nghèo nước, vì vậy việc địa hình của các thành tạo này cao hơn
và bao quanh địa hình bazan lại góp phần ngăn dòng mặt và nước mưa để chúng có điều kiện
cung cấp cho tầng chứa nước trong bazan.
II. BỀ DÀY CỦA ĐỚI THÔNG KHÍ

Bề dày đới thông khí có ảnh hưởng đến đặc điểm động thái mực nước dưới đất. Đồ thị biểu diễn
mối quan hệ giữa biên độ dao động mực nước tại các lỗ khoan quan trắc cho thấy khi bề dày đới
thông khí mỏng thì khả năng cung cấp nước mưa cho nước dưới đất nhanh hơn và ngược lại.

Điều này được chứng minh bằng thời gian lệch pha giữa lượng mưa và mực nước dưới đất trong
tầng chứa nước trong bazan. Tại lỗ khoan C3a có chiều sâu mực nước dưới đất lớn hơn 15 m thì
khi lượng mưa đạt cực đại vào tháng VII, nhưng mực nước dưới đất đạt cực đại vào tháng IX tức
là thời gian lệch pha 2 tháng (Hình 2); tại LK64T chiều sâu mực nước nhỏ hơn 3 m thì thời gian
lệch pha chỉ có 1 tháng, tức là mưa đạt cực đại vào tháng VII và mực nước dưới đất đạt cực đại
vào tháng VIII (Hình 3).
Ngoài ra, khi mực nước dưới đất nằm nông (< 5 m) thì khả năng bốc hơi từ bề mặt lớn và khả
năng cung cấp của nước mưa cho nước dưới đất nhanh hơn. Khi bề dày đới thông khí lớn hơn 5
m ta thấy nước dưới đất ít chịu ảnh hưởng của quá trình bốc hơi, nhưng nước mưa thấm đến bề
mặt nước dưới đất mất nhiều thời gian hơn, do vậy có sự lệch pha biên độ dao động mực nước
nhiều hơn [1].
Tóm lại, bề dày đới thông khí lớn hơn 15 m sẽ làm cho khả năng ngấm cung cấp của nước mưa
cho nước dưới đất của tầng chứa nước trong bazan lệch pha thời gian 2 tháng so với thời gian bắt
đầu mưa. Ngược lại, bề dày đới thông khí nhỏ hơn 5 m sẽ làm cho khả năng ngấm cung cấp của
nước mưa cho nước dưới đất của tầng chứa nước trong bazan lệch pha thời gian 1 tháng so với
thời gian bắt đầu mưa.
III. KHÍ HẬU

Căn cứ vào dãy số liệu điều tra cơ bản về khí tượng thủy văn đã thu thập được ta thấy tỉnh Gia
Lai thuộc vùng nhiệt đới gió mùa cao nguyên, mỗi năm có hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Mùa
mưa bắt đầu từ tháng IV đến tháng X và mùa khô bắt đầu từ tháng XI đến tháng III năm sau. Số
liệu khí hậu vùng nghiên cứu được quan trắc thu thập từ các trạm khí tượng gồm các yếu tố:
lượng mưa, lượng bốc hơi, nhiệt độ không khí, tốc độ gió, số giờ nắng và độ ẩm không khí, với
thời gian quan trắc 25 năm [3].


Hình 2. Quan hệ giữa mực nước ở LK3a và lượng mưa tại vùng Pleiku

Hình 3. Quan hệ giữa mực nước ở LK64T và lượng mưa tại vùng Pleiku
1. Lượng mưa


Do ảnh hưởng của địa hình, đặc biệt là dãy Trường Sơn, và sự hoạt động của gió mùa tây nam dễ
gây mưa nên dạng phân phối mưa trong năm cũng có sự khác biệt giữa các vùng trên cao nguyên
Gia Lai. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm tới 85 - 95% tổng lượng mưa năm, còn lượng mưa
trong mùa khô chỉ chiếm 5 - 15% (xem Bảng 1).
Ba tháng liên tục có lượng mưa lớn nhất thường xuất hiện vào các tháng từ VII đến XI, hay VI
đến X ở vùng trung tâm tỉnh và vùng phía tây. Lượng mưa của ba tháng này chiếm tới 45 - 65%
tổng lượng mưa năm [3].
Trong mùa khô, ba tháng liên tục có lượng mưa nhỏ nhất xuất hiện vào các tháng I, II, III. Lượng
mưa trung bình tháng thường dưới 10 mm, thậm chí không có mưa trong các tháng I và tháng II,
tăng lên 15 - 30 mm trong tháng III. Lượng mưa của ba tháng này chỉ chiếm 1 - 3,5% tổng lượng
mưa năm.
2. Ảnh hưởng của lượng mưa

Trong mùa mưa, giữa lượng mưa và mực nước dưới đất trong tầng chứa nước trong bazan có
quan hệ tỉ lệ thuận. Khi lượng mưa tăng thì mực nước dưới đất dâng cao chậm hơn, lệch pha so
với lượng mưa từ 1 đến 2 tháng. Tương tự như mực nước, lưu lượng các điểm lộ cũng tăng chậm
hơn so với lượng mưa từ 1 đến 2 tháng, khi mưa đạt cực đại vào tháng VII thì lưu lượng điểm lộ
đạt cực đại vào tháng IX, sau đó lưu lượng điểm lộ đạt cực tiểu vào tháng IV hoặc tháng V năm
sau (xem đồ thị điểm lộ 11). Thường thường vào các tháng khi mực nước mới dâng, đồ thị của
chúng tương đối thoải và ở các tháng đạt mực nước cực đại thì đồ thị của chúng dốc hơn, điều


này liên quan đến sự tăng lượng mưa, giảm dần bề dày đới thông khí và sự bão hoà đới thông khí
tăng lên. Thời điểm đạt cực đại và cực tiểu trong năm tại các khu khác nhau thì khác nhau, tùy
thuộc vào thời điểm bắt đầu và kết thúc mùa mưa [2].
Bảng 1. Lượng mưa trung bình tháng (1980- 2004) (mm)

Tháng
Địa điểm


I

II

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

7,0 37,4 83,1 235,2 301,7 389,9 445,0 376,4 215,8 75,6

XII

Cả năm

17,7


2188,1

Pleiku

3,2

An Khê

18,1 14,7 23,6 46,3 139,0 81,0 110,6 142,1 179,9 358,4 280,7 141,4 1535,7

Ayun Pa

1,0

5,0 21,0 60,6 153,3 128,2 127,8 151,4 218,1 253,4 154,4 39,1

1313,4

Chư Prông

0,0

6,0 24,8 89,9 236,4 588,1 412,7 433,1 325,1 209,0 80,2

17,7

2423,1

Chư Sê


0,0

0,8 15,9 54,8 198,0 234,3 301,0 404,5 317,3 161,1 47,5

9,1

1744,2

Đăk Đoa

1,2

2,6 36,9 126, 225,7 249,7 351,2 323,4 308,9 180,7 102,5 25,9

1934,6

Kbang

6,1

6,8 20,8 70,0 196,7 103,2 122,9 125,8 198,5 297,8 234,9 78,9

1462,5

Krông Pa

0,0

3,1 16,0 38,9 139,6 84,4


1206,8

Mang Yang

1,9

2,1 27,4 59,6 156,8 242,6 310,9 357,8 335,3 157,3 74,6

Ya Ly

0,84 9,43 35,8 86,7 197,2 207,1

99,9 110,6 215,8 284,8 194,2 64,9
379

314,5

342

140

53,2

9,1

1735,5

10,6


1776,2

Phân tích các đồ thị quan hệ giữa dao động mực nước tại các lỗ khoan quan trắc và lưu lượng các
điểm lộ với lượng mưa tại các trạm khí tượng hoặc điểm đo mưa gần nhất và phương trình hồi
quy của chúng, cho thấy lượng mưa là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhiều nhất đến động thái
mực nước dưới đất trong tầng chứa nước trong bazan. Sự tương quan giữa chúng từ chặt chẽ đến
rất chặt chẽ, tùy thuộc vào chiều sâu mực nước dưới đất, điều kiện địa hình và lớp phủ thực vật.
Điều này được chứng minh bằng phương trình quan hệ giữa mực nước với các yếu tố khí tượng
trong đó có lượng mưa (Bảng 2), hệ số tương quan trong các phương trình biến đổi r = 0,76 0,96. Các phương trình quan hệ giữa lượng mưa với các yếu tố khí tượng được thành lập bằng
chương trình thống kê toán học SPSS.

Hình 4. Quan hệ giữa mực nước ở LKCB1 và lượng mưa tại vùng Pleiku


Hình 5. Quan hệ giữa lưu lượng tại điểm lộ DL11 và lượng mưa ở vùng Chư Sê

Hình 6. Quan hệ giữa mực nước tại LK60T và lượng mưa ở vùng Ya Ly

Hình 7. Quan hệ giữa mực nước tại LK61T và lượng mưa ở vùngYaLy
3. Bốc hơi

Độ bốc hơi trung bình năm biến đổi trong phạm vi khá lớn, từ 1670 mm (An Khê) đến 2135 mm
(Ayun Pa). Độ bốc hơi ở thung lũng sông Ba lớn nhất trong vùng cao nguyên Gia Lai và nó có
xu thế giảm dần khi cao độ địa hình tăng lên. Độ bốc hơi trung bình tháng trong các tháng mùa
khô lớn hơn nhiều so với các tháng trong mùa mưa, lớn nhất là vào các tháng III, IV ở hầu hết
các trạm và điểm đo bốc hơi trên cao nguyên Gia Lai và nhỏ nhất vào các tháng VIII ở Pleiku,
tháng XI ở An Khê và Ayun Pa (Bảng 3) [3].


Bảng 2. Phương trình hồi quy giữa lượng mưa, lượng bốc hơi và mực nước các lỗ khoan


TT

Cặp tương quan

Phương trình hồi quy

Hệ số tương quan

1

Mực nước tại LK CBI và lượng
mưa, lượng bốc hơi vùng Pleiku

H = 735,05 + 0,015R – 0,26Z

r = 0,93

2

Mực nước LK60T và lượng mưa tại
trạm Ya Ly

H = 510,28 + 0,85R

r = 0,96

3

Mực nước LK61T và lượng mưa tại

trạm Ya Ly

H = 516,84 + 0,75R

r = 0,96

4

Mực nước LK62T và lượng mưa tại
trạm Ya Ly

H = 510,28 + 0,68R

r = 0,79

5

Mực nước LK60T và lượng mưa,
bốc hơi tại trạm Ya Ly

H = 508,85 + 0,015R - 0,027Z

r = 0,85

6

Mực nước LK61T và lượng mưa,
bốc hơi tại trạm Ya Ly

H = 519,35 + 0,005R - 0,033Z


r = 0,93

7

Mực nước LK62T và lượng mưa,
bốc hơi tại trạm Ya Ly

H = 534,92 + 0,036R - 0,022Z

r = 0,93

8

Mực nước LK60T và lượng bốc hơi
tại trạm Ya Ly

H = 511,94 - 0,31Z

r = 0,68

9

Mực nước LK61T và lượng bốc hơi
tại trạm Ya Ly

H = 518,82 - 0,33Z

r = 0,62


10

Mực nước LK62T và lượng bốc hơi
tại trạm Ya Ly

H = 530,72 - 0,19Z

r = 0,63

Ghi chú: H - mực nước tại lỗ khoan quan trắc
R - lượng mưa tại Trạm khí tượng gần nhất với lỗ khoan quan trắc
Z - lượng bốc hơi thực tế

Hình 8. Quan hệ giữa mực nước tại LK62T và lượng mưa ở vùng Ya Ly
Bảng 3. Độ bốc hơi trung bình tháng (mm)

Địa điểm

I

II

III

IV

V

VI


VII

VIII

IX

X

XI

XII

Cả năm

193

206,3

190

178,4

166

118

94,7

70


76,1

1670,7

99,2 130,3 130,7 113,1 97,6

91,2

90,8

93

88,5 82,1 74,7

1181,9

97,8 100 125,7 2123,5

An Khê

88,5 114,4 175,3

Pleiku

90,7

Ayun Pa

147,4 187,2 274,5


243,5

196

184,6 159,8

112

Chư Sê

95,2 103,8 135,9 135,5 122,5

98

97,5

93,4 96,4 82,7 81,8

295

95

1237,7


Chư Prông 95,8 104,5 136,7 136,2 123,1 98,5

98,1

95,5


Đức Cơ

97,6 106,3 138,9 138,4 125,1 100,2 99,8

97,2

KBang

87,3

Krông Pa

90,2 106,1 142,7 150,1 143,6

99,8 136,4

130

96,9 83,2 82,4

1244,9

95,6 98,6 84,7 83,9

1266,3

130,8 113,5 115,6 110,7 99,3 84,2 80,8 75,3

1263,7


123

94

124,7 121,1 109,7

98

80,9 77,4

1367,5

Lượng bốc hơi thực tế biến đổi theo mùa và chịu sự tác động của địa hình (lượng bốc hơi giảm
khi độ cao địa hình tăng lên). Lượng bốc hơi trung bình năm trên cao nguyên Gia Lai biến đổi
trong phạm vi từ dưới 962 mm ở Pleiku cho đến hơn 1356 mm ở vùng thung lũng hạ lưu sông Ba
(Bảng 4).
Bảng 4. Lượng bốc hơi thực tế trung bình tháng (mm)

Địa
điểm

I

II

An Khê

81,4


89,2

Pleiku

88,2

116,7 142,4 121,8

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII Cả năm

124,0 136,7 143,7 154,3 139,9 129,2 86,2 64,2 59,1 63,8 1271,5
81,7


51,0

42,8

38,0

38,4 55,4 73,0 92,6

962,9

Ayun Pa 104,3 118,9 179,6 173,2 141,0 132,2 118,5 107,4 72,5 61,1 67,6 80,3 1356,5
Ya Ly

98,2

123,0 136,9 121,5

87,7

73,2

65,0

62,7

48,0 54,8 72,7 98,3 1051,7

Lượng bốc hơi thực tế biến đổi theo mùa, trong các tháng mùa khô, do nhiệt độ không khí, tốc
độ gió đều lớn, trời quang mây nên bốc hơi lớn hơn so với các tháng trong mùa mưa (Bảng 4).

Giá trị bốc hơi thực tế được tính toán trên cơ sở số liệu quan trắc khí tượng bằng phần mềm
chuyên ngành CROPWAT của Tổ chức Lương thực thế giới (FAO).
4. Ảnh hưởng của lượng bốc hơi

Nếu như lượng mưa và biên độ dao động mực nước dưới đất có mối tương quan tỉ lệ thuận, thì
giữa lượng bốc hơi và biên độ dao động mực nước dưới đất có mối tương quan tỉ lệ nghịch. Sự
tương quan giữa chúng biến đổi từ vừa phải đến không chặt chẽ, tùy thuộc vào chiều sâu mực
nước dưới đất, điều kiện địa hình và lớp phủ thực vật. Hệ số tương quan biến đổi r = 0,62 ÷ 0,68.
Quá trình hạ thấp mực nước xảy ra ngược lại quá trình bốc hơi. Các tháng đầu mùa khô đồ thị hạ
thấp mực nước thường dốc và thoải dần, các tháng về sau do bề dày đới thông khí tăng lên làm
giảm dần lượng bốc hơi. Khi bốc hơi đạt cực đại vào tháng III thì mực nước đạt cực tiểu vào
tháng V, tức là sau 2 tháng, có nghĩa là dao động mực nước dưới đất không bị ảnh hưởng nhiều
bởi bốc hơi, mà vào cuối mùa khô lượng nước dưới đất bị thoát đi do cung cấp cho dòng mặt và
một phần có thể do khai thác nước cung cấp cho các nhu cầu tăng lên.
Phân tích các đồ thị quan hệ giữa dao động mực nước tại các lỗ khoan quan trắc và lượng bốc
hơi tại các Trạm khí tượng hoặc đo bốc hơi gần nhất và phương trình hồi quy của chúng (với hệ
số tương quan thường < 0,75) cho thấy lượng bốc hơi là nhân tố ảnh hưởng không đáng kể đến
động thái mực nước dưới đất trong tầng chứa nước trong bazan.
IV. THỦY VĂN
1. Mạng thủy văn

Sông, suối trên địa bàn tỉnh Gia Lai thuộc 3 hệ thống sông lớn, có các đặc trưng như sau:


Hình 9. Quan hệ giữa mực nước tại các LK60T, 61T, 62T và lượng bốc hơi ở vùng Ya Ly


Sông Ba: Sông Ba với diện tích lưu vực 13900km2, bắt nguồn từ vùng núi cao trên 1200 m ở
phía đông bắc vùng nghiên cứu, chảy theo hướng TB - ĐN đến An Khê rồi chuyển hướng ĐB TN. Từ Ayun Pa, dòng chính sông Ba tiếp nhận nhánh Ia Ayun ở phía bờ phải. Từ đó sông Ba lại
chảy theo hướng TB - ĐN vào tỉnh Phú Yên và đổ ra biển ở cửa Đà Rằng (Tuy Hòa, Phú Yên).

Sông Sê San: là một sông nhánh tương đối lớn của sông Mê Kông, bắt nguồn từ núi Tiên cao
2010 m ở phía TB tỉnh Gia Lai, chảy theo hướng TB - ĐN đến hạ lưu Plei Krông tiếp nhận
nhánh sông Đăk Bla chảy vào từ phía bờ trái. Sau đó, sông Sê San tiếp nhận nhánh sông Sa Thầy
và chảy sang Campuchia, với diện tích lưu vực 11620 km2.
Sông Ia Đrăng và Ia Hleo: bắt nguồn từ vùng cao Gia Lai chảy vào sông Xrê Pốc là các sông Ia
Đrăng và Ia Hleo. Sông Ia Đrăng bắt nguồn từ phía tây nam dãy núi Hàm Rồng có đỉnh cao 1029
m, chảy theo hướng ĐB - TN và đổ vào lãnh thổ Campuchia. Sông Ea Hleo chảy trong tỉnh Gia
Lai gồm các sông nhánh Ia Lốp, Ea Djoan. Tổng diện tích lưu vực các sông trong tỉnh Gia Lai
chảy vào sông Xrê Pốc bằng 2840 km2.
2. Ảnh hưởng của mạng thủy văn

Phân tích đặc điểm mạng thủy văn chảy qua thành tạo bazan trên vùng nghiên cứu cho thấy
chúng có điểm chung: độ cao tuyệt đối của đáy các sông suối đều thấp hơn so với độ cao mực
nước dưới đất của tầng chứa nước trong bazan, tức là lưu lượng dòng mặt đều nhận sự cung cấp
của dòng ngầm, điều ngược lại hầu như không xảy ra, hoặc có về mùa mưa nhưng không đáng
kể. Chính điều này đã ảnh hưởng đến đặc điểm động thái mực nước dưới đất ở chỗ về mùa khô
mặc dù mực nước dưới đất nằm rất sâu không bị ảnh hưởng của bốc hơi, nhưng nó vẫn bị giảm
và vẫn nhận được lượng cung cấp âm mà nguyên nhân chính là dòng ngầm đã cung cấp cho dòng
chảy mặt.
Sự cung cấp của dòng mặt cho dòng ngầm trong tầng chứa nước trong bazan thì hầu như không
có hoặc có nhưng rất ít (về mùa mưa). Điều này được chứng minh bằng quan hệ giữa dao động
mực nước trong các lỗ khoan quan trắc LKC2a với mực nước sông tại các trạm quan trắc nước
mặt 18S (Hình 12). Phương trình hồi quy của chúng là H = 668,34 + 0,1S với hệ số tương quan r
= 0,36 thể hiện sự tương quan không chặt chẽ.

Hình 10. Quan hệ giữa mực nước tại LKC3a và mực nước sông tại trạm 18S
V. CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT

Thành tạo phun trào bazan ở tỉnh Gia Lai gồm 5 đến 6 đợt phun với quy mô và sự phân bố khác
nhau, chẳng những quyết định đặc điểm địa chất thủy văn của tầng chứa nước trong bazan mà



còn ảnh hưởng đến quy luật động thái mực nước của chúng. Phân tích đặc điểm thạch học của
các đợt phun trào gồm các tập bazan đặc sít, bazan lỗ hổng, dăm vụn núi lửa xen kẹp các tập
bazan phong hóa và đặc điểm địa chất thủy văn của tầng chứa nước trong bazan vùng nghiên cứu
cho thấy qua dạng tồn tại và vận động của nước trong tầng chứa nước bazan chủ yếu là nước
dưới đất. Tuy nhiên, đôi chỗ trong phun trào bazan vẫn tồn tại nước có áp cục bộ do cấu tạo của
các đợt phun trào có dung nham khác nhau tạo nên; điều này sẽ ảnh hưởng đến động thái mực
nước của chúng tại các vị trí đó.
Như đã chứng minh trong mục II, đối với nước dưới đất trong tầng chứa nước trong bazan thì có
đặc điểm động thái mực nước khác với nước có áp ở chỗ là dao động mực nước có liên quan mật
thiết với lượng mưa, nhưng đối với vùng nước có áp lực cục bộ trong tầng chứa nước trong
bazan lại không chịu sự ảnh hưởng của lượng mưa nói riêng và khí hậu, thủy văn nói chung (ví
dụ: mực nước cụm lỗ khoan quan trắc C3 ở Biển Hồ, Pleiku và C2 Ninh Đức, Chư Pah).
KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu, phân tích những điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến động thái mực nước trong
tầng chứa nước trong bazan trên cao nguyên Gia Lai, có thể kết luận:
1- Lượng mưa thuộc nhóm nhân tố khí hậu đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình cung
cấp cho nước dưới đất, quyết định quy luật biến đổi động thái mực nước trong tầng chứa nước
bazan;
2- Các nhân tố thủy văn đóng vai trò nhận lượng cung cấp của dòng ngầm về mùa khô, hay
chính chúng là nguyên nhân thoát của nước dưới đất của tầng chứa nước trong bazan;
3- Đặc điểm thạch học của các đợt phun trào bazan quyết định sự tồn tại và quy luật động thái
mực nước của tầng chứa nước trong bazan, đó là quy luật động thái của nước dưới đất, có mối
liên hệ chặt chẽ với lượng mưa nói riêng và đặc điểm khí tượng thủy văn nói chung.
4- Các nhân tố địa hình, địa mạo có tác động làm thay đổi những đặc điểm địa chất thủy văn,
làm ảnh hưởng một phần đến đặc điểm động thái và chi phối mực nước dưới đất của tầng chứa
nước trong bazan tùy theo từng vị trí, vùng cụ thể.
VĂN LIỆU


1. Đặng Hữu Ơn, 2004. Nghiên cứu, dự báo và thành lập bản đồ động thái nước dưới
đất. Nxb KH&KT, Hà Nội.
2. Lebeđev A.B., 1963. Phương pháp nghiên cứu cân bằng nước ngầm. Nxb Neđra, Moskva
(tiếng Nga).
3. Liên đoàn ĐCTV-ĐCCT Miền Trung, 2006. Báo cáo kết quả quan trắc động thái nước
dưới đất vùng Tây Nguyên giai đoạn 1995- 2000 và giai đoạn 2001-2005. Lưu trữ Cục ĐC & KS
VN, Hà Nội.


NGHIÊN CỨU CÂN BẰNG, QUY HOẠCH KHAI THÁC
SỬ DỤNG HIỆU QUẢ TÀI NGUYÊN NƯỚC VÙNG BẮC TÂY NGUYÊN
Hồ Minh Thọ, Ngô Tuấn Tú (*)
Nguyễn Danh (**), Phạm Ngọc Minh (***)

GIỚI THIỆU
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với mọi thành phần của môi
trường và là yếu tố không thể thiếu đối với sự sống của con người, nó càng có ý nghĩa
hơn đối với một trong những vùng thường có mùa khô kéo dài 6 tháng liên tục như vùng
Bắc Tây Nguyên. Vùng Bắc Tây Nguyên trình bày trong báo cáo này được giới hạn bởi
địa phận 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum, với diện tích 25110 km 2, dân số 1377334 người, là
vùng có thế mạnh về tài nguyên đất, tài nguyên rừng, có điều kiện mở rộng diện tích cây
công nghiệp, cây nông nghiệp, đồng thời là một trong những địa bàn chiến lược an ninh,
quốc phòng của nước ta. Quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội hiện tại cũng như
trong tương lai của vùng Bắc Tây Nguyên, nhu cầu về nguồn nước phục vụ cho ăn uống
sinh hoạt, cho sản xuất công nghiệp, tưới cây nông nghiệp và công nghiệp, và cho các
hoạt động kinh tế khác của vùng là một trong những vấn đề đang đặt ra một cách cấp
thiết. Mặc dù hiện nay dân số của vùng Bắc Tây Nguyên vẫn còn ít, mật độ trung bình
chỉ 54,85 người/km2 nhưng tỷ lệ tăng dân số vẫn còn cao, hơn nữa trong tương lai 10
năm, 20 năm tới với những chủ trương chính sách đầu tư hợp lý của các Tỉnh và của Nhà

nước thì chắc chắn rằng vùng Bắc Tây Nguyên sẽ là một trong những vùng đất mang lại
nhiều lợi nhuận cho các nhà đầu tư nông - lâm - công nghiệp - du lịch kết hợp. Lúc đó tác
động của con người và các hoạt động kinh tế của họ đối với nguồn nước sẽ ngày càng gia
tăng. Chưa so sánh vùng Bắc Tây Nguyên với các thành phố lớn ở các đồng bằng Bắc
Bộ, Nam Bộ, hoặc các tỉnh ven biển miền Trung, những nơi mà ngày càng biểu hiện rõ
nguy cơ cạn kiệt dẫn đến thiếu nước nhạt, mà có thể thấy hiện nay Đăk Lăk là một trong
các tỉnh Tây Nguyên đã thiếu nước ở một số vùng về mùa khô, gây thiệt hại không nhỏ
đối với sản xuất nông nghiệp. Nếu không có sự hiểu biết đầy đủ và quy hoạch khai thác
sử dụng hợp lý các nguồn nước, thì trong những năm tới vùng Bắc Tây Nguyên cũng có
thể lâm vào tình trạng thiếu nước nghiêm trọng về mùa khô, ngay như mùa khô năm
2000 và 2002 ở một số vùng của huyện KrôngPa và KonChro của tỉnh Gia Lai đã thiếu
nước gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp. Như vậy, để có dữ liệu cụ thể về tài
nguyên nước của vùng và có cơ sở khoa học cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh Gia Lai và
Kon Tum, các Sở, Ban, Ngành liên quan của các Tỉnh này trong việc quản lý, quy hoạch
khai thác sử dụng hợp lý và phòng chống sự suy thoái các nguồn nước, thì việc triển khai
thực hiện đề tài “Đánh giá cân bằng nước và định hướng sử dụng, bảo vệ tài nguyên
nước trên địa bàn tỉnh Gia Lai” đối với tỉnh Gia Lai và đề tài “Điều tra đánh giá trữ
lượng, chất lượng, hiện trạng sử dụng và định hướng khai thác, bảo vệ tài nguyên nước
tỉnh Kon Tum” đối với tỉnh Kon Tum là có ý nghĩa khoa học, thực tiễn quan trọng và đáp
ứng kịp thời nhu cầu thực tế. Bài báo này nhằm giới thiệu kết quả tổng hợp từ sự nghiên
cứu của các đề tài đã thực hiện nêu trên.
(*) Liên đoàn ĐCTV- ĐCCT miền Trung


(**) Sở KH & CN tỉnh Gia Lai; (***) Sở KH & CN tỉnh Kon Tum
1. Nguồn tài liệu:
Để thành lập báo cáo, đã tiến hành điều tra, thu thập, xử lý tổng hợp khá đầy đủ các tài
liệu về tài nguyên nước trên địa bàn vùng Bắc Tây Nguyên, với các báo cáo điều tra cơ
bản về địa chất thủy văn, thủy văn, công trình thủy lợi, cấp nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn, khai thác và cấp nước tập trung, và tham khảo các báo cáo tổng hợp

môi trường và tài nguyên nước thuộc các chương trình nghiên cứu của Nhà nước ở khu
vực Tây Nguyên.
2. Kết quả :
2.1- Đã đánh giá tài nguyên khí hậu của vùng Bắc Tây Nguyên.
Dựa vào tài liệu khí hậu đồng nhất với liệt số liệu cơ bản từ năm 1976 đến năm 2002, đã
thành lập bản đồ đặc trưng các yếu tố khí hậu gồm bản đồ mưa năm, bản đồ bốc hơi năm.
Lượng mưa trung bình năm tại 15 trạm quan trắc mưa trên toàn vùng Bắc Tây Nguyên
thay đổi từ 1313 ÷ 2423mm, lượng mưa trung bình năm tính theo các lưu vực thay đổi từ
1450 ÷ 2072mm. Hàng năm mùa mưa thường bắt đầu từ tháng V và kết thúc vào tháng X
ở vùng phía Tây, tháng XI hay tháng XII ở vùng trung tâm và vùng phía Đông. Lượng
mưa trong mùa mưa chiếm từ 85 - 95% tổng lượng mưa năm. Mùa khô kéo dài 6 - 7
tháng nhưng lượng mưa rất nhỏ chỉ chiếm 5 - 15% tổng lượng mưa năm. Lượng bốc hơi
năm đo bằng ống PiChe thay đổi từ từ 963 ÷ 1365mm, lượng bốc hơi tiềm năng cũng
thay đổi khá rộng từ 971mm ở Đăk Pôkô đến 1634mm tại Pleiku và 2364mm tại AyunPa.
Kết quả phân tích, đánh giá cho thấy đặc điểm khí hậu trên toàn vùng Bắc Tây Nguyên là
tương đối ổn định, xu thế biến đổi các yếu tố khí hậu là đồng nhất, thay đổi từ nhỏ đến
lớn theo phương từ Đông Bắc xuống Nam - Tây Nam, điểm nổi bật hơn là địa phận các
huyện An Khê, KonChro, AyunPa và Krông Pa thuộc lưu vực sông Ba, trũng Kon Tum
thuộc lưu vực sông ĐăkBla có lượng mưa nhỏ nhất, nhưng lượng bốc hơi lại lớn nhất
trong toàn vùng Bắc Tây Nguyên.
2.2- Đánh giá tài nguyên nước mặt trên 10 lưu vực (bảng 1) :
Được phân chia từ 3 hệ thống sông: sông Sê San, sông Ba và sông Xrêpôk, việc phân
chia chi tiết các lưu vực sông trong báo cáo đã tạo điều kiện dễ dàng khi tính toán cân
bằng lượng nước theo nhu cầu sử dụng cho từng đơn vị hành chính cấp huyện. Thành lập
bản đồ dòng chảy năm, tính toán dòng chảy các lưu vực, dòng chảy kiệt, dòng chảy
ngầm, tổng lượng ẩm lãnh thổ và các đại lượng đặc trưng tài nguyên nước trên từng lưu
vực. Tổng lượng nước trung bình năm của 10 lưu vực thuộc 3 hệ thống sông Sê San, sông
Ba và sông Xrêpôk là 19349.10 6 m3 chủ yếu là lượng nước nội vùng Bắc Tây Nguyên,
chiếm khoảng 1,7% tổng lượng dòng chảy năm của sông suối nước ta. Mức bảo đảm
nước trong một năm trung bình trên 1 km 2 diện tích bằng 770.103 m3/km2, thấp hơn nhiều

so với mức bảo đảm nước trung bình của nước ta (2550.10 3 m3/ km2 ). Mức bảo đảm
nước trung bình cho một người dân trong một năm bằng 10.900 m 3/người trong giai đoạn
hiện tại và 7440 m3/người vào năm 2010, xấp xỉ bằng mức bảo đảm nước trung bình cho
một người dân trong cả nước. Modun dòng chảy năm phân bố cũng rất không đều giữa
các vùng, từ dưới 17 l/s.km2 ở thung lũng sông Ba đến trên 35 l/s.km 2ở thượng nguồn
sông KrôngPoko. Chế độ dòng chảy sông suối cũng có 2 mùa: mùa lũ và mùa cạn. Mùa
lũ xuất hiện vào các tháng VII, VIII - XI ở vùng phía Tây, các tháng VIII- XI, XII ở vùng
trung tâm và các tháng IX- XII ở vùng phía Đông. Khoảng 70% lượng dòng chảy năm
tập trung trong 4 - 5 tháng mùa lũ. Sự phân phối rất không đều trong năm của mưa và


dòng chảy sông suối là nguyên nhân chính gây nên lũ lụt cục bộ ở một số khu vực trong
vùng Bắc Tây Nguyên nhất là trũng KrôngPa và trũng Kon Tum trong mùa mưa lũ và
hạn hán trong mùa khô cạn.
- Kết quả phân tích mẫu nước toàn diện và vi lượng cho thấy nguồn nước mặt ở vùng Bắc
Tây Nguyên chưa bị nhiễm bẩn, vẫn đảm bảo chất lượng cho tưới nông nghiệp, sản xuất
công nghiệp, và xử lý cho ăn uống sinh hoạt.
Bảng 1. Đặc trưng tài nguyên nước các lưu vực sông
Lớp
Dòng Dòng Hệ số Hệ số
Hệ số
Lượng
Lượng
dòng cấp
dòng
chảy chảy
bốc hơi
Lưu vực sông
mưa TB
bốc hơi

ngầm chảy nước
chảy Yo
mặt
Xo(mm)
Zo (mm)
(α2)
(mm)
(Yom) (Yong) (α)
(α1)
ĐăkPoKo
1617
910
707
555
355
0,44
0,32
0,68
KrôngPoKo*
1733
1132
601
821
311
0,55
0,34
0,66
ĐăkBla
2050
922

1128
517
405
0,45
0,27
0,73
Đăk
Kấm+
1456
731
725
481
250
0,44
0,26
0,74
ĐăkLe
Sa Thầy+Ia Sia
1679
761
918
458
303
0,37
0,25
0,75
Sê San (phần Gia
1906
871
1035

613
258
0,46
0,20
0,80
Lai)
Sông Ba 1 (tại An
1535
785
750
609
176
0,51
0,19
0,81
Khê)
Ayun
1341
600
741
403
197
0,45
0,21
0,79
Sông Ba 2 (Củng
1620
612
1008
311

301
0,38
0,23
0,77
Sơn)
IaLốp + IaĐrăng 1725
650
1075
365
285
0,38
0,21
0,79
(*) Tính cho lưu vực suối Đăk Kan, ĐăkBsi và phần còn lại của sông
KrongPoKo
2.3- Thành lập bản đồ địa chất thủy văn tỷ lệ 1/200.000 vùng Bắc Tây Nguyên.
Tính trữ lượng và đánh giá chất lượng nguồn nước ngầm theo 3 lưu vực sông chính và
theo diện tích 11 vùng cân bằng, quy hoạch khai thác sử dụng nước (bảng 2). Trữ lượng
tĩnh tự nhiên trên toàn vùng Bắc Tây Nguyên là 65531.10 6 m3, trữ lượng động tự nhiên là
6049006 m3/ngày, trữ lượng khai thác tiềm năng là 9344446 m 3/ngày. Điểm nổi bật của
nguồn nước ngầm ở vùng Bắc Tây Nguyên là có phức hệ chứa nước phun trào Bazan, với
diện phân bố khá rộng chiếm hầu hết vùng cân bằng Nam Bắc Pleiku có mức độ chứa
nước từ trung bình đến giàu, chất lượng nước rất tốt. Ngoài ra, các tầng chứa nước trầm
tích Neogen và Pleistocen phân bố ở trũng KrôngPa, thị xã Kon Tum có độ chứa nước
trung bình đến tương đối giàu. Chất lượng nước ngầm tốt, đáp ứng tiêu chuẩn dùng cho
sinh hoạt và công nghiệp. Có thể khai thác nước ngầm để cấp nước tập trung cho ăn uống
sinh hoạt từ các tầng chứa nước phun trào Bazan,trầm tích Neogen, và khai thác cấp nước
đơn lẻ từ các tầng chứa nước trầm tích Pleistocen, Holocen.
- Đã đánh giá sơ lược và đưa vị trí lên bản đồ địa chất thủy văn 19 nguồn nước khoáng,
nước nóng trên địa bàn vùng Bắc Tây Nguyên. Sơ bộ nhận định đánh giá nguồn gốc,

phân loại và tác dụng của các nguồn nước khoáng, nước nóng. Qua đó thấy rằng số lượng
các nguồn nước khoáng nước nóng đã phát hiện ở vùng Bắc Tây Nguyên không phải là


nhiều so với các vùng khác ở nước ta, nhưng chúng là nguồn tài nguyên quí, hiện tại chưa
được đầu tư nghiên cứu đầy đủ để có thể khai thác các lợi ích của nó phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội, nhất là cho các nhu cầu đóng chai, ngâm tắm, chữa bệnh và du lịch.
Bảng 2. Trữ lượng khai thác tiềm năng nước dưới đất theo các vùng cân bằng
Trữ lượng khai thác tiềm
TT Vùng tính cân bằng nước
Tỉnh
năng (m3/ngày)
1
Vùng hữu thượng sông Krông Pôkô
Kon Tum
302836
2
Vùng tả thượng sông Krông Pôkô
Kon Tum
797753
3
Vùng thượng sông Đăk Bla
Kon Tum
659889
4
Vùng hạ sông Đăk Bla
Kon Tum
310194
5
Vùng Sa Thầy

Kon Tum
1064187
6
Vùng Nam Bắc An Khê
Gia Lai
1451506
7
Vùng Nam Bắc Pleiku
Gia Lai
1492608
8
Vùng thượng AYun
Gia Lai
1012424
9
Vùng Ayun Pa
Gia Lai
528633
10 Vùng Krông Pa
Gia Lai
532348
11 Vùng Iamơ - IaLốp
Gia Lai
1191675
2.4- Kiểm kê, đánh giá hiện trạng và dự báo lượng nước cho các nhu cầu sử
dụng theo từng đơn vị hành chính cấp huyện trong vùng Bắc Tây Nguyên đến năm
2010.
Lần đầu tiên đã kiểm kê số lượng, hiện trạng các công trình khai thác nước và tính toán
trữ lượng nước hiện đang sử dụng cho các nhu cầu của vùng Bắc Tây Nguyên vào thời
điểm năm 2002 (bảng 3).

Đã tính toán, dự báo lượng nước cho các nhu cầu sử dụng đến năm 2010, với các phương
pháp luận tính toán có cơ sở khoa học và số liệu thực tế đầy đủ, trong đó đã sử dụng phần
mềm chuyên ngành CROPWAT để tính lượng nước cho nhu cầu tưới, đã tính chi tiết
lượng nước tưới cho từng loại cây trồng trong cả năm và cho tất cả các loại cây trồng
theo từng tháng trong năm. Tổng lượng nước tính toán dự báo cho các nhu cầu dùng
nước trên địa bàn vùng Bắc Tây Nguyên cho thời điểm năm 2005 và 2010 là
3708,74.106m3 thể hiện ở (bảng 4).
Bảng 3. Hiện trạng lượng nước cho các nhu cầu sử dụng
của vùng Bắc Tây Nguyên năm 2002
Lượng nước sử dụng (106 m3/năm) Tổng
Mục đích sử dụng nước
Gia Lai
Kon Tum
Tưới nước nông nghiệp
209,38
59,63
269,01
Sản xuất công nghiệp
7,36
4,21
11,57
Chăn nuôi, thủy sản
3,34
1,78
5,12
Ăn uống ở nông thôn
6,22
2,49
8,71
Ăn uống ở đô thị

10,98
7,07
18,05
Tổng
237,28
75,18
312,46
Tổng lượng nước tính toán dự báo cho các nhu cầu trong các năm 2005 và 2010 là
3708,74.106m3 chiếm 15,6% so với trữ lượng khai thác tiềm năng của các nguồn nước,


nếu chỉ tính riêng năm 2010 thì lượng nước dự báo cho các nhu cầu là
2072,75.106 m3 chiếm 21,2% so với trữ lượng khai thác của các nguồn nước trong năm.
Bảng 4.Lượng nước dự báo cho các nhu cầu sử dụng của vùng Bắc Tây Nguyên
Lượng nước theo các năm (106 m3/năm)
Mục đích sử dụng
Tỉnh Gia Lai
Tỉnh Kon Tum
Tổng
nước
2005
2010
2005
2010
Tưới nông nghiệp 672,39
805,0
415,71
470,66
2363,76
Sản xuất công nghiệp 132,9

208,3
293,92
410,60
1045,72
Chăn nuôi
33,39
40,58
11,21
11,93
97,11
Thuỷ sản
10,5
10,5
5,84
6,08
32,92
Ăn uống giải khát
12,05
13,10
3,89
4,54
33,58
13,93
18,40
4,89
5,05
Ăn uống đô thị
42,27
Dịch vụ, du lịch
15,61

32,40
10,26
35,11
93,38
Tổng
890,8
1128,3
745,72
943,97
3708,74
2.5- Đánh giá cân bằng nước giữa trữ lượng khai thác của các nguồn nước và lượng
nước dự báo của các nhu cầu dùng nước trên vùng Bắc Tây Nguyên theo từng huyện
và từng loại nhu cầu.
Về tổng thể thì toàn vùng Bắc Tây Nguyên là không thiếu nước, tuy nhiên, nếu xét cho
riêng cho từng khu và từng tháng trong từng năm thì một số tháng trong mùa khô hiện
nay đã thiếu nước. Mức bảo đảm nước ở một số vùng hiện nay chỉ đạt trên dưới 90%, tức
là trong từng tháng và từng năm cụ thể vẫn có thể xẩy ra thiếu nước. Tình trạng thiếu
nước sẽ nghiêm trọng hơn vào 2010 với mức bảo đảm ở một số vùng trong một số tháng
trong mùa khô chỉ đạt 60 - 80%. Lượng nước cần dùng chiếm từ 15-50%, thậm chí tới
trên 200% trong một số tháng mùa khô (tháng I- IV) ở một số vùng An Khê, Krông Pa,
trũng Kon Tum.
- Nếu tính theo cân bằng nước ở điều kiện tự nhiên khi chưa có tác động của con người
thì có thể khẳng định rằng 5 tháng là XII năm trước kéo dài sang tháng I, II, III và IV
năm sau trên địa bàn vùng Bắc Tây Nguyên là hoàn toàn thiếu nước đối với mọi loại cây
vì đây là những tháng giữa và cuối mùa khô, khi mà lượng mưa thì hầu như không có
hoặc quá ít, mà lượng bốc hơi thì lại quá cao.
- Nhưng khi tính toán cân đối lượng nước của các nguồn theo khía cạnh khác: Mưa hiệu
quả, lượng nước điều tiết của hệ thống hồ chứa, đập dâng tính đến năm 2002, lượng nước
ngầm đang khai thác hiện nay so với lượng nước tính toán cho các nhu cầu đến năm
2010, thì thấy hiển nhiên một điều là tổng lượng nước hiện có đang kiểm soát được là

thiếu khá nhiều so với lượng nước của các nhu cầu đã tính toán. Kết quả tính toán cho
thời điểm năm 2010 thì thấy trên toàn vùng Bắc Tây Nguyên thiếu 356.10 6 m3 nước cho
nhu cầu tưới và sản xuất công nghiệp, thiếu 82394 m 3/ngày nước cho nhu cầu ăn uống và
sinh hoạt.
2.6- Các giải pháp đầu tư loại, số lượng công trình khai thác nước cụ thể từ tất cả các
nguồn, cũng như trữ lượng khai thác dự kiến từ mỗi công trình, sao cho có thể khai
thác đáp ứng đủ lượng nước theo yêu cầu đến năm 2010.
Kết quả tính toán các giải pháp đầu tư, xây dựng hệ thống công trình khai thác nước đến
năm 2010 trên địa bàn vùng Bắc Tây Nguyên là 424 công trình đập dâng và hồ chứa;
12444 công trình giếng đào, lỗ khoan và hệ tự chảy; Lượng nước khai thác từ hệ thống


các công trình là 2793.106m3, lượng nước kiệt nhất có thể khai thác được là 1021.10 6m3;
diện tích tưới thực tế có thể đáp ứng được là 248929 ha (bảng 5).
Bảng 5. Tổng hợp công trình dự kiến khai thác nguồn nước
từ năm 2003 đến năm 2010
Công trình, Lượng
Công trình
Lượng nước
(lỗ khoan, nước đáp Diện tích
Vùng
Tỉnh
(đập , hồ
kiệt
nhất
giếng, hệ tự ứng
tưới (ha)
6 3
chứa,)
(10 m )

chảy
(106m3)
T.p Pleiku
Gia Lai 17
597
235,5
19626
78,5
H. An Khê
Gia Lai 16
680
117,3
9778
39,1
H. KBang
Gia Lai 14
395
95,3
7939
31,8
H. MăngYang
Gia Lai 17
296
83,6
6968
27,9
H. Đăk Đoa
Gia Lai 19
586
110,1

9174
36,7
H. ChưPah
Gia Lai 23
425
108,9
9076
36,3
H. IaGrai
Gia Lai 27
497
144,5
12045
48,2
H. ChưPrông
Gia Lai 17
523
147,2
12263
49,1
H. Chư Sê
Gia Lai 30
802
147,8
12314
49,3
H. AyunPa
Gia Lai 24
1102
278,9

23238
93,0
H. KrôngPa
Gia Lai 28
558
237,8
19815
79,3
H. KonChro
Gia Lai 15
298
82,7
6894
27,6
H. Đức Cơ
Gia Lai 24
239
102,0
8496
34,0
Tổng của tỉnh Gia Lai
271
6998
1891,6
157626 630,8
Thị xã Kon Tum Kon Tum 33
795
252,41
21882
102,12

H. Đăk Hà
Kon Tum 42
492
195,91
22360
77,48
H. KonPlong
Kon Tum 14
212
109,03
7696
54,49
H. Sa Thầy
Kon Tum 14
2189
107,87
10413
45,77
H. Đăk Tô
Kon Tum 21
1361
85,25
12155
38,25
H. Ngọc Hồi
Kon Tum 16
345
76,95
10815
34,34

H. Đăk Glei
Kon Tum 13
52
74,16
5982
37,84
Tổng của tỉnh Kon Tum 153
5446
901,58
91303
390,29
2.7- Những vấn đề tồn tại và kiến nghị
+ Mặc dù các kết quả đề tài đã giải quyết trọn vẹn các mục tiêu đề ra, nhưng vẫn còn một
số tồn tại, mà chúng chủ yếu được phát sinh trong quá trình thực hiện, nghiên cứu. Đó là:
- Vấn đề quan hệ giữa nước mặt và nước ngầm chưa được đánh giá toàn diện và đầy đủ,
do hạn chế về tài liệu quan trắc động thái nước ngầm và nước mặt;
- Các nguồn nước khoáng - nước nóng chỉ dừng lại ở mức đánh giá sơ bộ;
+ Chúng ta đều biết các tài liệu quan trắc khí tượng, thủy văn và địa chất thủy văn có
được đến nay trên địa bàn vùng Tây Nguyên là tài liệu theo hệ thống khu vực nhiều hơn
là tài liệu cụ thể của các tỉnh Gia Lai và Kon Tum, mặc dù khi thi công các đề tài đã có
bổ sung một điểm đo mưa và bốc hơi, nhưng khi tổng hợp, xử lý tính toán mới bộc lộ
nhiều vị trí thiếu tài liệu thực tế nhất là thủy văn và địa chất thủy văn. Vì vậy, trong thời
gian tới cần tiếp tục nghiên cứu để giải quyết các vấn đề sau:
- Tiếp tục giải quyết các tồn tại đã nêu trên;


- Xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên nước theo công nghệ thông tin (GIS), đồng thời xây
dựng mô hình quản lý tài nguyên nước theo lưu vực;
- Sớm đưa công tác quy hoạch khai thác tập trung tài nguyên nước dưới đất cho mục đích
ăn uống sinh hoạt, nhất là đối với các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ, các cụm, khu công

nghiệp, tránh tình trạng khai thác manh mún thiếu tổ chức, thiếu cơ sở khoa học dễ dẫn
đến làm ô nhiễm và suy thoái các tầng chứa nước dưới đất.
- Đánh giá tiềm năng các nguồn nước khoáng- nước nóng, quy hoạch sử dụng chúng
phục vụ đóng chai, du lịch, ngâm tắm - chữa bệnh trên địa bàn vùng Bắc Tây Nguyên.


Tài nguyên đất ở Tây Nguyên ngày càng bị thoái hóa nghiêm trọng
Thứ sáu, ngày 25 tháng 10 năm 2013 cập nhật lúc 10:11

Đó là ý kiến của Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Lê
Huy Bá, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành phát
biểu tại buổi tọa đàm về chiến lược phát triển
vùng Tây Nguyên đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 do Ban Chỉ đạo Tây Nguyên phối hợp
cùng với Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
(thành phố Hồ Chí Minh) tổ chức mới đây tại
thành phố Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk).

Đất canh tác nông nghiệp bị khô cằn ở Đắk Lắk. (Nguồn: TTXVN)

Theo Giáo sư Lê Huy Bá, Tây Nguyên có tổng diện tích tự nhiên trên 5,4 triệu ha và cũng là vùng có
diện tích đất đang sử dụng chiếm tỷ lệ cao (81,5%), đứng thứ 4 trong 7 vùng ở nước ta. Địa hình đất Tây
Nguyên là một phức hợp núi, cao nguyên, trũng giữa và đồng bằng. Tài nguyên đất ở Tây Nguyên khá
đa dạng, đặc biệt có 1,3 triệu ha đất đỏ bazan với hàm lượng chất hữu cơ, đạm, lân, kali…cao, cho phép
phát triển nhiều loại cây trồng, nhất là cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu, cao su, điều, chè,
dâu tằm, cây ăn quả.
Tuy nhiên, trong thời gian qua do việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đất lâm nghiệp diễn ra quá
mạnh, tràn lan, cộng với các cấp chính quyền buông lỏng công tác quản lý bảo vệ rừng nên làm cho diện
tích rừng, đất rừng ngày càng thu hẹp. Mặt khác, do canh tác không khoa học, không hợp lý nên làm cho
thảm thực vật (tấm áo bảo vệ mặt đất) bị lột đi nhanh chóng kéo theo tình trạng xói mòn, rửa trôi đất ở

Tây Nguyên ngày càng nhiều.
Theo Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Đắk Lắk, ở độ dốc từ 5 đến 8 độ, với lượng mưa hàng
năm 1.905 mm, trên 1 ha nương rẫy, lượng đất bị rửa trôi lên đến 95,1 tấn/năm, trên đất trồng ngô là
105,7 tấn, trên đất trồng cà phê có 2 năm tuổi 69,2 tấn…gấp rất nhiều lần so với nơi có rừng (rừng tái
sinh 12 tấn, rừng nguyên sinh chỉ có dưới 6 tấn). Cũng theo các nhà khoa học, qua tổng kết nhiều điểm
quan trắc trên các độ dốc và các vùng đất khác nhau ở khu vực Tây Nguyên cũng cho thấy lượng chất
dinh dưỡng trung bình hàng năm trên 1 ha đất sản xuất bị cuốn trôi rất lớn. Theo tính toán sơ bộ, mỗi
năm đất Tây Nguyên bị tụt trôi xuống sông Mê Kông và sau đó bị đẩy ra biển Đông lên đến hàng trăm
triệu tấn và kèm theo với đất là hàng vạn tấn màu mỡ, chất hữu cơ khác….
Ngoài ra, độ che phủ rừng ở Tây Nguyên ngày bị suy giảm đã làm cho lượng nước ngầm trong đất
cũng bị suy kiệt , độ ẩm của đất giảm, các vi sinh vật trong đất mất theo. Đây cũng là lý do khiến cho đất
canh tác nhanh bạc màu, xói mòn. Thậm chí, nhiều nơi ở khu vực Tây Nguyên đã có biểu hiện của sự sa
mạc hóa, hạn hán quanh năm, cây trồng bị khô cằn không phát triển.
Các nhà khoa học đã đề xuất các tỉnh Tây Nguyên cần hạn chế việc chuyển đổi diện tích rừng tự nhiên
sang mục đích sử dụng khác, tăng cường đầu tư trồng mới rừng để phủ xanh đất trống, đồi trọc. Các tỉnh
Tây Nguyên cũng bố trí lại cơ cấu cây trồng hợp lý, canh tác khoa học, nhất là hạn chế việc phát triển
cây cà phê, đồng thời thực hiện việc đa dạng hóa cây trồng trong các vườn cà phê để giữ vững cân bằng
sinh thái, hạn chế tài nguyên đất bị rửa trôi, thoái hóa góp phần tạo điều kiện cho Tây Nguyên phát triển
kinh tế, xã hội bền vững.
Quang Huy




×