Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI TẬP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.76 KB, 13 trang )

ĐÁP ÁN
1.Nam tròn 20 tuổi, nữ tròn 18 tuổi trở lên mới được dăng kí kết hôn.
SAI: Chỉ cần Nam đang ở tuổi hai mươi (19 tuổi + 1 ngày), nữ đang ở tuổi mười tám(17 tuổi + 1 ngày) là đã đủ
điều kiện về tuổi kết hôn.
2. Mọi trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì ko được pháp luật thừa
nhận là vợ chồng.
SAI: Quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 nếu chưa đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau
như vợ chồng thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng và chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc đăng ký
kết hôn.
3. Những giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng do 1 bên vợ hoặc chồng thực hiện
luôn bị coi là vô hiệu.
SAI: Giao dịch đối với tài sản chung nhưng đã được chia để đầu tư kinh doanhriêng theo qui định tại khỏan 1
Điều 29 vẫn có thể do 1 bên xác lập thực hiện.
4.Khi vợ hoặc chồng thực hiện những giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình mà không có sự
đồng ý của bên kia thì người thực hiện giao dịch đó phải thanh toán bằng tài sản riêng của mình.
SAI: Đối với những giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình do 1 bên thực hiện mà không có sự
đồng ý của bên kia thì TS chung của vợ chồng sẽ được chi dùng để thanh tóan.
5.Quan hệ nuôi con nuôi chỉ chấm dứt khi có sự thoả thuận của cha mẹ nuôi và con nuôi.
SAI: Quan hệ nuôi con nuôi còn được TA ra quyết định chấm dứt khi con nuôi bị kết án theo qui định tại khỏan
2 Điều 76 hoặc trong trường hợp cha mẹ nuôi đã có cáchành vi qui định tại khỏan 3 Điều 67 hoặc khỏan 5 Điều
69.
6. Những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng là kết hôn trái pháp luật.
SAI: Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết
hôn do PL qui định.
7. Người đang có vợ có chồng mà chung sống như cợ chồng với người khác là kết hôn trái pháp luật.
SAI: Người đang có vợ (có chồng) mà chung sống như vợ chồng với người khác là người có hành vi vi phạm
PL hình sự về chế độ một vợ, một chồng.
8. Sau khi bị huỷ kết hôn trái pháp luật thì những chủ thể đó không được quyền kết hôn lại.
SAI: Sau khi bị huỷ kết hôn trái pháp luật thì nhứng chủ thể đó vẫn có quyền kết hôn lại nếu không thuộc các
trường hợp cấm kết hôn qui định tại Điều 10.
9. Cha mẹ nuôi có thể thay đổi họ tên, dân tộc của con nuôi theo họ tên,dân tộc của mình.


SAI: Theo qui định tại Điều 28 BLDS thì cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ
đẻ. PL không có qui định nào cho phép thay đổi hay xác định lại dân tộc đối với con nuôi.
10. Quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vọ chồng.
ĐÚNG : Theo qui định tại khoản 1 Điều 27. Trừ trường hợp được thừa kế , tặng cho riêng.
11. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân chỉ được coi là có hiệu lực pháp lý khi được
toà án công nhận.
SAI: Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh
riêng, thực hiện nghĩa vụ DS riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì chỉ cần vợ chồng có thỏa thuận phân chia
TS chung bằng văn bản mà không cần thông qua tòa án.


12. Con riêng và bố dượng, mẹ kế không phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý nào hết.
SAI: Theo điều 38.
13. Con riêng và bố dượng mẹ kế có tất cả các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi cùng chung sống với
nhau.
ĐÚNG: Theo qui định tại các điều từ 34 đến 38.
14. Tài sản chung của vợ chồng nếu phải đăng kí quyền sở hữu thì phải đăng kí tên của hai vợ chồng, do đó tài
sản nào đứng tên 1 bên vợ hoặc chồng sẽ là tài sản riêng của người đó.
SAI: Tài sản đứng tên 1 bên vợ hoặc chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh tài sản đó là tài sản riêng
của bên đó thì tài sản đó vẫn là tài sản chung.
15. Đơn xin ly hôn bắt buộc phải có chữ kí của cả vợ và chồng.
SAI: Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên thì đơn xin ly hôn chỉ cần có chữ ký của một bên.
16. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân chỉ được đặt ra khi vợ chồng không thoả thuận
được việc dùng tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng về tài sản của một bên vợ hoặc chồng.
SAI: Việc thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân còn được đặt ra trong trường
hợp vợ chồng có nhu cầu đầu tư kinh doanh riêng.
17. Khi vợ hoặc chồng bị toà án tuyên bố mất tích bằng 1 quyết định co hiệu lực pháp luật thì quan hệ vợ chồng
sẽ chấm dứt.
SAI: Quan hệ hôn nhân trong trường hợp này chỉ thực sự chấm dứt khi yêu cầu xin ly hôn của người có vợ hoặc
chồng đã bị tòa án tuyên bố mất tích trước đó được tòa án công nhận bằng một quyết định độc lập.

18. Sự thoả thuận giữa con nuôi từ 9 tuổi trở lên với cha mẹ nuôi là một trong những căn cứ để quan hệ nuôi
con nuôi chấm dứt.
SAI: Chỉ có thỏa thuận giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên mới là một trong các căn cứ để yêu cầu TA
chấm dứt việc nuôi con nuôi.
19. Cơ quan có thẩm quyền đăng kí kết hôn là UBND nơi thường trú của một trong hai bên nam nữ.
SAI: Trong trường hợp đăng ký kết hôn giữa công dân VN với nhau nhưng ở nước ngoài thì cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự VN ở nước ngoài sẽ là nơi các bên đến đăng ký.
20. Con nuôi và con đẻ không được kết hôn với nhau.
SAI: Vì không thuộc các trường hợp cấm kết hôn được qui định tại Điều 10 Luật
HNGĐ.
21. Hoà giải cơ sở là thủ tục bắt buộc trước khi vợ chồng yêu cầu ly hôn tại toà án.
SAI: Luật HNGĐ chỉ khuyến khích hòa giải cơ cở chứ không bắt buộc
22. Tài sản riêng của vợ, chồng chỉ là những tài sản vợ hoặc chồng có trước thời kì hôn nhân.
SAI: Còn là tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.
23. Sau khi chấm dứt hôn nhân, người vọ sinh con thì việc xác định cha cho con luôn được toà án xác định.
SAI: Nếu đứa con được sinh ra trong vòng 300 ngày sau khi vợ chồng đã chấm dứt quan hệ hôn nhân thì đứa
con đó vẫn hiển nhiên là con chung.
24. Tài sản chung của vợ chồng mà phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu bắt
buộc phải ghi tên của cả hai vợ chồng.
ĐÚNG: Theo qui định tại Điều 27.


25. Những người đã từng có mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi vấn được kết hôn với nhau.
SAI: Pháp luật nghiêm cấm những người đã từng là cha mẹ nuôi kết hôn với con nuôi.
26. Khi đi làm con nuôi người khác, người con đó sẽ chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với gia đình cha mẹ đẻ.
SAI: Khi được cho đi làm con nuôi người khác thì nguời con đó vẫn được PL đảm bảo quyền thừa kế đối với
cha mẹ đẻ.
27. Thuận tình ly hôn ko cần phải thông qua thủ tục hoà giải.
SAI: Hòa giải tại tòa án là thủ tục bắt buộc trong trường hợp có tranh chấp TS chung hoặc con chung.
28. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản có trong thời kì hôn nhân.

SAI: Còn có thể là các tài sản riêng có trước thời kỳ hôn nhân nhưng được nhập vào khối tài sản chung.

I.BÁN TRẮC NGHIỆM
1.vợ chồng có quyền lựa chọn việc sinh con theo điêu kiện của mình
SAI: Theo quy định khoản 3 và khoản 5 điều 2 luật HNGD thì vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách
KHHGĐ tức chỉ được sinh từ 1 đến 2 con và không được phép chọn giới tính khi sinh con
2. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình những phong tục tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc được áp
dụng triệt để
SAI: Đ.6 LHNGĐ quy định thì những phong tục tập quán thể hiện bản sắc mỗi dân tộc chỉ được áp dụng trong
quan hệ HNGĐ nộ dung trái nguyên tắc quy định tại LHNGĐ
3. Kết hôn là việc nam nữ chung sống như vợ chồng
SAI: Theo K.2 Đ.8 LHNGĐ. Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về
ĐKKT và ĐKKH
4. Gia đình là những người gắn bó với nhau chỉ theo hôn nhân hoặc huyết thống
SAI: Dựa vào K.10 Đ.8 LHNGĐ thì gia đình không chỉ tồn tại quan hệ hôn nhân huyết thống mà còn có quan
hệ nuôi dưỡng.
6. Mọi trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì ko được pháp luật thừa
nhận là vợ chồng.
SAI: Quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 nếu chưa đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau
như vợ chồng thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng và chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc đăng ký
kết hôn. NQ.35
7. Những giao dịch lien quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng do 1 bên vợ hoặc chồng thực hiện
luôn bị coi là vô hiệu.
SAI: Giao dịch đối với tài sản chung nhưng đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo qui định tại khỏan 1
Điều 29 vẫn có thể do 1 bên xác lập thực hiện.
9.Quan hệ nuôi con nuôi chỉ chấm dứt khi có sự thoả thuận của cha mẹ nuôi và con nuôi.
SAI: Quan hệ nuôi con nuôi còn được TA ra quyết định chấm dứt khi con nuôi bị kết án theo qui định tại khỏan
2 Điều 76 hoặc trong trường hợp cha mẹ nuôi đã có các hành vi qui định tại khỏan 3 Điều 67 hoặc khỏan 5
Điều 69.


10 Những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng là kết hôn trái pháp luật.


SAI: Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết
hôn do PL qui định. Đ.9(a.2 k1 NQ02/2000)
11. Người đang có vợ có chồng mà chung sống như cợ chồng với người khác là kết hôn trái pháp luật.
SAI: Người đang có vợ (có chồng) mà chung sống như vợ chồng với người khác là người có hành vi vi phạm
PL hình sự về chế độ một vợ, một chồng.Đ.147 LHS
12. Sau khi bị huỷ kết hôn trái pháp luật thì những chủ thể đó không được quyền kết hôn lại.
SAI: Sau khi bị huỷ kết hôn trái pháp luật thì nhứng chủ thể đó vẫn có quyền kết hôn lại nếu không thuộc các
trường hợp cấm kết hôn qui định tại Điều 10.
13. Quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vọ chồng.
ĐÚNG : Theo qui định tại khoản 1 Điều 27. Trừ trường hợp được thừa kế , tặng cho riêng.
14. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân chỉ được coi là có hiệu lực pháp lý khi được
toà án công nhận.
SAI: Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh
riêng, thực hiện nghĩa vụ DS riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì chỉ cần vợ chồng có thỏa thuận phân chia
TS chung bằng văn bản mà không cần thông qua tòa án.
15. Con riêng và bố dượng, mẹ kế không phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý nào hết.
SAI: Theo điều 38.
“Điều 38. Nghĩa vụ và quyền của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng
1. Bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống
chung với mình theo quy định tại các điều 34, 36 và 37 của Luật này.
2. Con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình theo quy
định tại Điều 35 và Điều 36 của Luật này.
3. Bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau.”
16. Con riêng và bố dượng mẹ kế có tất cả các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi cùng chung sống với
nhau.
ĐÚNG: Theo qui định tại các điều từ 34 đến 38.
17.Tài sản chung của vợ chồng nếu phải đăng kí quyền sở hữu thì phải đăng kí tên của hai vợ chồng, do đó tài

sản nào đứng tên 1 bên vợ hoặc chồng sẽ là tài sản riêng của người đó.
SAI: Tài sản đứng tên 1 bên vợ hoặc chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh tài sản đó là tài sản riêng
của bên đó thì tài sản đó vẫn là tài sản chung. K3 D. 5 NĐ 70/CP
18. Đơn xin ly hôn bắt buộc phải có chữ kí của cả vợ và chồng.
SAI: Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên thì đơn xin ly hôn chỉ cần có chữ ký của một bên.
19.Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân chỉ được đặt ra khi vợ chồng không thoả thuận
được việc dùng tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng về tài sản của một bên vợ hoặc chồng.
SAI: Việc thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân còn được đặt ra trong trường
hợp vợ chồng có nhu cầu đầu tư kinh doanh riêng.Đ.29

20. Khi vợ hoặc chồng bị toà án tuyên bố mất tích bằng 1 quyết định co hiệu lực pháp luật thì quan hệ vợ chồng
sẽ chấm dứt.


SAI: Quan hệ hôn nhân trong trường hợp này chỉ thực sự chấm dứt khi yêu cầu xin ly hôn của người có vợ hoặc
chồng đã bị tòa án tuyên bố mất tích trước đó được tòa án công nhận bằng một quyết định độc lập. K2.Đ78
LDS2005
21. Sự thoả thuận giữa con nuôi từ 9 tuổi trở lên với cha mẹ nuôi là một trong những căn cứ để quan hệ nuôi
con nuôi chấm dứt.
SAI: Chỉ có thỏa thuận giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên mới là một trong các căn cứ để yêu cầu TA
chấm dứt việc nuôi con nuôi. Đ76,77
22. Cơ quan có thẩm quyền đăng kí kết hôn là UBND nơi thường trú của một trong hai bên nam nữ.
SAI: Trong trường hợp đăng ký kết hôn giữa công dân VN với nhau nhưng ở nước ngoài thì cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự VN ở nước ngoài sẽ là nơi các bên đến đăng ký.
23. Con nuôi và con đẻ không được kết hôn với nhau.
SAI: Vì không thuộc các trường hợp cấm kết hôn được qui định tại Điều 10 Luật HNGĐ.
24. Hoà giải cơ sở là thủ tục bắt buộc trước khi vợ chồng yêu cầu ly hôn tại toà án.
SAI: Luật HNGĐ chỉ khuyến khích hòa giải cơ cở chứ không bắt buộc Đ86
25. Tài sản riêng của vợ, chồng chỉ là những tài sản vợ hoặc chồng có trước thời kì hôn nhân.
SAI: Còn là tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. K1đ32

26. Sau khi chấm dứt hôn nhân, người vợ sinh con thì việc xác định cha cho con luôn được toà án xác định.
SAI: Nếu đứa con được sinh ra trong vòng 300 ngày sau khi vợ chồng đã chấm dứt quan hệ hôn nhân thì đứa
con đó vẫn hiển nhiên là con chung.k2 đieu21 chuong IV ,nđ70
27.Tài sản chung của vợ chồng mà phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu bắt buộc
phải ghi tên của cả hai vợ chồng.
ĐÚNG: Theo qui định tại Điều 27.
28. Những người đã từng có mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi vấn được kết hôn với nhau.
SAI: Pháp luật nghiêm cấm những người đã từng là cha mẹ nuôi kết hôn với con nuôik4đ10 va nq02.
29.Khi đi làm con nuôi người khác, người con đó sẽ chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với gia đình cha mẹ đẻ.
SAI: Khi được cho đi làm con nuôi người khác thì nguời con đó vẫn được PL đảm bảo quyền thừa kế đối với
cha mẹ đẻ.d74
30. Thuận tình ly hôn ko cần phải thông qua thủ tục hoà giải.
SAI: Hòa giải tại tòa án là thủ tục bắt buộc trong trường hợp có tranh chấp TS chung hoặc con chung. d88
31.Tài sản chung của vợ chồng là tài sản có trong thời kì hôn nhân.
SAI: Còn có thể là các tài sản riêng có trước thời kỳ hôn nhân nhưng được nhập vào khối tài sản chung.
Khoản 1.đều 27. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ
chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản
chung.
32. Mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung.
Sai/ Vì khi vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân từ
số tài sản đã chia sẽ thuộc sở hữu riêng của mỗi người


33. Trường hợp vợ chồng thực sự tự nguyện ly hôn, đã thoả thuận được về việc chia tài sản và nuôi dưỡng con
cái thì Toà án phải chấp nhận cho ly hôn.
Sai/ Trường hợp người vợ đang còn mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi thì không được ly
hôn. Trong trường hợp này người chồng bị hạn chế do luật định (khoản 2, điều 85 Luật HNGĐ). Nếu có thể chỉ
là người vợ đứng tên xin ly hôn thì Tòa án mới thụ lý vụ việc
34. Tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng thì người đó có toàn quyền định đoạt không phụ

thuộc ý chí của bên còn lại.
Sai/ Khoản,đ33. Luat HNGĐ:Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng
chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng
đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng.
II. Phần bài tập
1. A và B là vợ chồng hợp pháp, có tài sản chung là 500 triệu đồng, đã thoả thuận bằng văn bản chia tài sản
chung để A kinh doanh riêng để tránh rủi ro cho gia đình. Hai bên vẫn hạnh phúc và sống chung, mỗi người
được 250 triệu đồng. Sau khi chia tài sản thì A nói với B là lương của B sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh
doanh để tích luỹ cho gia đình. Sau 3 năm A kinh doanh thu được khoản lợi tức là 200 triệu đồng, hàng tháng
B được hưởng lương là 5 triệu đồng và chi tiêu dùng hết cho đời sống gia đình. Sau đó A đã có hành vi ngoại
tình và dùng số tiền lợi tức đó cho người tình của mình.B yêu cầu ly hôn và yêu cầu đòi lại số tài sản đó có
được không?
Trả lời:
Theo qui định tại Điều 29 Luật HNGĐ về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có qui định: “Khi hôn nhân
tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ DS riêng hoặc có lý do chính
đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung”. Như vậy, sau khi 2 vợ chồng thỏa thuận chia đôi
tài sản chung để kinh doanh riêng thì tài sản riêng của mỗi người là 250 triệu. Điều 30 Luật HNGĐ cũng qui
định : “phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Do đó lương của B không nằm
trong thỏa thuận phân chia tài sản chung vì tại thời điểm phân chia nó chưa hề tồn tại. Về nguyên tắc (nếu
không có thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ HN) thì “thu nhập do lao động, họat động SXKD”
của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (khoản 1 Điều 27) là tài sản chung vợ chồng. Tuy nhiên, theo qui định tại
khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001 về hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có qui định:
“Thu nhập do lao động, họat động SXKD và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”.
Theo luật định thì “thỏa thuận khác” ở đây phải là “thỏa thuận bằng văn bản”. Dẫn chứng: khoản 1 Điều 4
NĐ70/2001 qui định: “ sự thỏa thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ
ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực)”. Ở đây đề bài chỉ nói là “A nói với B” nên coi như
thỏa thuận với nội dung “lương của B sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để tích lũy cho gia đình” không
được xem là “thỏa thuận của vợ chồng”. Như vậy, đối chiếu với qui định tại khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001 thì số
lương 5 triệu/tháng của B vẫn là tài sản riêng của B. Cũng thế, theo khoản 1 Điều 8 NĐ70/2001 thì: “Hoa lợi,

lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa
thuận khác bằng văn bản”. Do vậy, số tiền thu được từ việc A kinh doanh từ tài sản riêng của mình (sau 3 năm
là 200 triệu) vẫn là tài sản riêng của A bởi lẽ hai người không có thỏa thuận nào khác bằng văn bản. Số tiền này
nếu A không đồng ý nhập vào khối tài sản chung của 2 người thì mặc nhiên nó vẫn là tài sản riêng của A và A
có toàn quyền định đoạt, muốn làm gì thì làm, muốn cho ai thì cho (không vi phạm khoản 5 Điều 33 do hoa lợi,
lợi tức từ tài sản riêng không phải là nguồn sống duy nhất của gia đình do đó A có quyền định đọat mà không
cần hỏi ý kiến B). Việc B phát hiện mối quan hệ bất chính của A và yêu cầu tòa cho ly hôn là có cơ sở và phù
hợp các qui định của PL. Tuy nhiên việc B yêu cầu “đòi lại số tài sản đã có” là không có cơ sở. Ở đây B không
thể “đòi lại số tài sản đã có” mà B chỉ có thể đòi lại những tài sản nào là “tài sản riêng” của mình đồng thời yêu
cầu tòa phân định “phần tài sản mà mình được chia trong khối tài sản chung của vợ chồng” mà thôi. Theo Điều
95 về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn thì khi phân xử, tòa án phải bảo đảm 2 nguyên tắc : (1) “Tài sản riêng
của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó” (khoản 1 Điều 95); (2) Tài sản chung được giải quyết theo
nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì trên nguyên tắc sẽ chia đôi nhưng


có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, công sức đóng góp của mỗi bên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ,
con chưa thành niên (khoản 2 Điều 95). Như vậy, khi phân xử, tòa sẽ áp dụng nguyên tắc (1) để công nhận
những tài sản nào là tài sản riêng của B và chúng phải thuộc về B. Dĩ nhiên là B có quyền yêu cầu tòa công
nhận số lương 5 triệu/tháng (có được sau thời điểm phân chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ HN) là tài
sản riêng của B (áp dụng khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001) như đã phân tích ở trên. Đối với khối tài sản chung của
cả 2 vợ chồng thì sẽ phải áp dụng nguyên tắc (2) để phân xử. Tuy nhiên do các bên đã thỏa thuận phân chia
toàn bộ tài sản chung (có tổng gía trị là 500 triệu) đang có tại thời điểm thỏa thuận phân chia nên coi như những
tài sản chung nào có được từ thời điểm thỏa thuận phân chia trở về trước bây giờ đã không còn. Nếu các bên có
thể chứng minh được là mình còn có những tài sản chung khác từ sau thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản
chung (ví dụ: “tài sản do vợ chồng cùng tạo ra” hoặc “những thu nhập hợp pháp khác” sau thời điểm thỏa thuận
phân chia tài sản chung) thì họ vẫn có quyền yêu cầu tòa phân xử để chia theo nguyên tắc thứ (2).
2.Anh T và chị H được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán từ ngày 1/10/1988 (không có đăng ký
kết hôn). Trong lễ cưới, cha mẹ anh T tuyên bố cho chị H một sợi dây chuyền (5 chỉ vàng). Hai năm sau, cha
mẹ anh T cho vợ chồng anh mảnh đất 150m2 để làm nhà và hai người đã cùng đứng tên chủ quyền mảnh đất
này. Cuộc sống gia đình hạnh phúc, hai anh chị đã có các con chung là cháu M (1990) và cháu N (1994). Đến

cuối năm 2007, giữa hai người phát sinh mâu thuẫn. Ngày 12/10/2008, anh T đã làm đơn xin ly hôn gửi đến
Toà án (Toà đã thụ lý).
Trong thời gian chờ giải quyết vụ việc, ngày 15/10/2008, anh T đã kết hôn với chị X (có đăng ký kết hôn).
- Toà án sẽ giải quyết vụ việc như thế nào (chia tài sản và con chung) ? Tại sao?
Về chia tài sản:
Trong lễ cưới, cha mẹ anh T đã tuyên bố cho chị H sợi dây chuyền nên đấy sẽ là tài sản riêng của của chị H.
Còn mảnh đất và ngôi nhà cùng với các tài sản có được trong thời kỳ anh chị chung sống và con cái thì chia
như khi anh chị ly hôn. Vì ngôi nhà anh chị được cha mẹ anh T tặng cho chung nên là tài sản của cả hai người.
- Chị H có đơn yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa anh T và chị X. Toà án sẽ xử lý yêu cầu này
ra sao?
Trước tiên, ta xem xét quan hệ giữa anh T và chị H có phải là vợ chồng không.
Tại khoản 2.TT01: Đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi
đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn,
nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, thì theo quy định tại điểm b khoản 3
Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ có nghĩa vụ đăng ký kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày
01/01/2003; do đó, cần phân biệt như sau:
a. Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 nếu họ chưa đăng ký kết hôn hoặc đã đăng ký kết hôn mà
họ có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý trong trường hợp họ thực hiện việc đăng ký kết
hôn theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, thì quan hệ của họ vẫn được công nhận là
đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải kể từ ngày đăng ký kết
hôn.
Việc đăng ký kết hôn theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội do Bộ Tư pháp hướng
dẫn.
b. Kể từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số
35 của Quốc hội họ không được công nhận là vợ chồng; nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà
án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, bằng bản án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về
nuôi con và chia tài sản, thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
để giải quyết theo thủ tục chung.



Theo lý luận trên Tòa án giải quyết ly hôn giữa T & H (bằng bản án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng)
là đúng( theo điểm b, k1, TT01và theo c.1 NQ02/2000 HDTP), dù rằng T & H đáng lẽ ra phải có nghĩa vụ đăng
ký kết hôn, vì như thế sẽ đảm bảo quyền lợi chính đáng cho 2 con của họ ( NQ02/2000HĐTP).Tuy nhiên trong
lúc chờ giải quyết vụ việc thì T đăng ký kết hôn với X. Việc đăng ký kết hôn này đã vi phạm khoản 1, điều 10
LHNGĐ. Tòa án sẽ tuyên bố hủy bỏ hôn nhân giữa T & M. Sau khi giải quyết ly hôn xong giữa T và H ( có bản
án của Tòa án giựa T & H có hiệu lực pháp lý) thì T mới được đăng ký kết hôn với M.

3. Ông Nguyễn Văn A và bà Trần Thị B xác lập quan hệ vợ chồng ngày 15.01.2000. Sau khi nên nghĩa vợ
chồng không lâu, do ông A sinh tật cờ bạc, rượu chè nên cuộc sống của đôi bên mâu thuẫn trầm trọng. Ngày
03.03.2001, bà B gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông A.
Qua hai lần hòa giải không thành, TAND quận Q quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại Bản án sơ thẩm số
274/HN - ST có hiệu lực ngày 10.06 2001, tòa phán quyết: i) Về hôn nhân: Bà Trần Thị B. được ly hôn ông
Nguyễn Văn A; ii) Về tài sản chung và con chung: Cả hai bên khai không có và không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Ngày 10.07.2001, bà B. kết hôn với ông Hồ Văn C. Ngày 20.10.2001, bà B. sinh con là D.
Dựa vào quy định của pháp luật hiện hành, anh (chị ) hãy xác định D là con ai ? Tại sao?
Trả lời:
1/ Xét về phap ly - nguyên tắc,: xác định D là con chung của Ph T hay con chung của T và K cũng đều đúng. Vì
* Quan hệ AB:
- KH: tháng 1/2000
- Xin ly hôn: tháng 3.01 và được giải quyết: tháng 6/2001
- Sinh con: tháng 20. 10/2001
Đ D được thụ thai trong thời kỳ hôn nhân AB và sinh ra khi hôn nhân của họ chấm dứt trong vòng 4 tháng 7
ngày: ( NĐ 70/2001: con do người vợ có thai trong TKHN và sinh ra sau trong vòng 300 ngày từ khi bản án
cho ly hôn có hiệu lực PL: là con chung vợ chồng ) => D là con của AB
* Quan hệ BC:
- KH: tháng 7/2001
- Sinh con: 20./10/2001

=> D được thụ thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của BC
NĐ 70: con do người vợ có thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung. => D là
con chung của BC theonguyen tac suy doan phap ly.
2/ Xét về thực tế, NN thường tôn trọng HN đang tồn tại tại thời điểm con được sinh ra nên suy đoán người
chồng sau là cha của đưa trẻ ( tên người chồng sau sẽ được ghi vào phần họ tên người cha trong giấy khai sinh
của trẻ – trừ trường hợp người chồng sau không chấp nhận và chứng minh được anh ta không phải là cha mà là
người chồng trước thì có thể xác định lại theo thủ tục tố tụng .
Nếu có tranh chấp và có yêu cầu TAND giải quyết thì XD ai là cha của cháu D, phụ thuộc vào bản án, quyết
định có hiệu lực của Tòa án .Việc xác định gen ADN không bắt buộc trong tố tụng mà phụ thuộc vào sự tự
nguyên của A và C.


4. Tháng 5/1995, anh A kết hôn cùng chị B. Tháng 9/1997, do mâu thuẫn, hai bên quyết định ly thân và chia
đôi TS chung là 8 chỉ vàng (Thỏa thuận được chính quyền địa phương công nhận). Ngay sau đó, chị B bỏ về
nhà mẹ đẻ sống. Tháng 6/2000, chị B sinh một cháu trai nhưng không đăng ký khai sinh và cũng không nói rõ
bố cháu là ai. Cuối năm 2001, anh A nộp đơn xin ly hôn chị B.
Trong khi việc ly hôn chưa được giải quyết thì ngày 02. 06. 2002, anh A đột tử do tai nạn giao thông. Sau khi A
chết, gia đình A bất ngờ phát hiện 5 tờ vé số trúng độc đắc trị giá 255 triệu do A mua trước đó mà chưa kịp
lĩnh. Cùng lúc, chị B khi nghe tin liền yêu cầu gia đình A chia cho mẹ con chị toàn bộ số tiền trúng thưởng mà
anh để lại (Cha, mẹ anh A đã mất và lúc này chị B cũng đã tiến hành đăng ký khai sinh cho cháu bé với tên gọi
là Nguyễn Văn C, tên cha là Nguyễn Văn A). Song, người thân thích của anh A phản đối vì theo họ, A và B đã
chia TS chung và trên thực tế, họ cũng đã ly thân, không còn quan hệ vợ chồng. Trước tình thế đó, chị B khởi
kiện ra Tòa yêu cầu được bảo vệ quyền lợi.
Trên cơ sở PL, hãy xác định chủ sở hữu số tiền 255 triêu tranh chấp trên? Theo bạn, chị B và con có được
hưởng di sản thừa kế của anh A không , vì sao?
Trả lời:
a. 1// Đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đ30 + Đ8 NĐ 70: về hậu quả TS sau khi chia: thu nhập hợp
pháp của mỗi bên sau khi chia TSC là TS rieng ( tiên tso la ts rieng cua A )
b. 2// nhung do quan hệ HN vẫn tiếp tục tồn tại: => TS riêng của A. // A chết không để lại di chúc => giá trị vé
trúng thưởng được chia theo luật: cha mẹ, vợ và con anh kiểu. Nếu cha, mẹ anh kiểu chết thì chị Bùi và con

được hưởng thừa kế ở hang thu nhat

4.Trước khi kết nghĩa vợ chồng hợp pháp cùng chị H vào đầu tháng 4 /1999, anh Ph sở hữu một ngôi nhà trên
phố trị giá 200 triệu đồng. Sau kết hôn, anh Ph và chị H về sống tạm tại khu tập thể nhỏ nơi chị H công tác.
Anh Ph cũng quyết định đưa ngôi nhà thuộc sở hữu riêng của mình vào sử dụng chung - cho thuê - hầu lấy tiền
trang trải cuộc sống của chồng vợ. Vì chi H có thai và sinh con ngay sau khi kết hôn; anh Ph cũng chưa tìm
được việc làm mới do doanh nghiệp nơi anh làm việc vừa bị Tòa án tuyên bố phá sản nên hoàn cảnh kinh tế
của anh Ph, chị H rất chật vật. Thu nhập hàng tháng từ việc cho thuê ngôi nhà là nguồn sống duy nhất của gia
đình họ.
Tháng 3/2002, sau khi cùng một người bạn bàn bạc hùn vốn mở công ty kinh doanh, anh Ph đã bán ngôi nhà
của mình cho một thương gia với giá 450 triệu đồng. Khi chị H tỏ ý bất bình về việc anh Ph tự định đoạt ngôi
nhà mà không hề cho chị biết, anh Ph cho rằng căn nhà trên là tài sản riêng của anh nên anh có toàn quyền
quyết định.
Theo anh ( chị ), quan điểm của anh Ph đúng hay sai ? Tại sao? Nếu có tranh chấp xảy ra, cơ quan có thẩm
quyền sẽ giải quyết như thế nào ?
5.Anh T và chị H sống chung với nhau không đăng kí kết hôn mà chỉ tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền
thống bắt đầu từ ngày 1/4/1991, năm 1993 anh chị sinh được M, năm 1999 sinh được N. năm 2000 chị H được
bố mẹ cho 250 triệu, năm 2001 bố mẹ anh T cho vợ chồng anh chị 200 triệu, năm 2005 anh chị dùng số tiền
này mua được căn nhà cấp bốn 90m2, năm 2008 anh chị phát sinh mẫu thuẫn, đồng nghiệp hàng xóm và gia
đình hòa giải không được. ngày / /2008 chị H viết đơn tời tòa án huyện X xin li hôn và yêu cầu chia tài sản của
vợ chồng.
1. Tòa sẽ giải quyết quan hệ hôn nhân của hai người như thế nào? Không cong nhan quan he vc do khong dkkh
theo nq 35 va tt 01
2. Tòa án sẽ giải quyết việc chia tài sản của hai người như thế nào? Giai quyet nhu huy hon: cua ai nguoi do
nhan ve , chung:chia theo cs dong gop


6.Anh T và chị H được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán từ ngày 1/10/1988 (không có đăng ký
kết hôn). Trong lễ cưới, cha mẹ anh T tuyên bố cho chị H một sợi dây chuyền (5 chỉ vàng). Hai năm sau, cha
mẹ anh T cho vợ chồng anh mảnh đất 150m2 để làm nhà và hai người đã cùng đứng tên chủ quyền mảnh đất

này. Cuộc sống gia đình hạnh phúc, hai anh chị đã có các con chung là cháu M (1990) và cháu N (1994). Đến
cuối năm 2007, giữa hai người phát sinh mâu thuẫn. Ngày 12/10/2008, anh T đã làm đơn xin ly hôn gửi đến
Toà án (Toà đã thụ lý). Trong thời gian chờ giải quyết vụ việc, ngày 15/10/2008, anh T đã kết hôn với chị X (có
đăng ký kết hôn).
- Toà án sẽ giải quyết vụ việc như thế nào (chia tài sản và con chung) ? Tại sao?
- Chị H có đơn yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa anh T và chị X. Toà án sẽ xử lý yêu cầu này
ra sao?
Trả lời:
1. Chia ts; không cong nhan th la vc: chia nhu huy hon d17; day chuyen: h; quyen su dung dat: chia doi,
Con: n duoc cap duong, ai o truc tiep nuoi phai cap duong;
2. Không huy vi không vi pham – anh t duoc coi nhu nguoi chua co vo ( Nếu như trong khoảng thời gian từ
01/01/2001 đến 01/01/2003 anh chị đi đăng ký kết hôn thì toà án sẽ công nhận quan hệ vợ chông từ thời điểm
anh chị chung sống với nhau. Sau ngày 01/01/2003 thì đăng ký lúc nào công nhận từ thời điểm đang ký. Ở đây,
do anh T và chị H không đăng ký nên không được coi là vợ chồng nên anh T và chị X kết hôn sẽ không bị huỷ
kết hôn trái pháp luật do một bên đang có vợ có chông ).
7.Anh A và chị B kết hôn năm 1995. Năm 5 sau kết hôn, hai vợ chồng đã tích góp mua được một ngôi nhà diện
tích 70 m2 và có một con chung là N ( sinh năm 2000 ). Năm 2002, anh A chết đột ngột do tai nạn giao thông.
Sau khi anh A chết, chị B và con vẫn tiếp tục ở tại ngôi nhà này. Vì không còn khả năng lao động, không có tài
sản để tự nuôi mình và do không còn ai nuôi dưỡng, bà H ( mẹ ruột của anh A ) đã yêu cầu phân chia phần tài
sản của anh A trong khối di sản thừa kế. Tuy nhiên, hoàn cảnh gia đình chị B sau khi anh A chết cũng rất éo le:
Chị B phải nuôi con nhỏ ( 2 tuổi ); bản thân chị lại không có thu nhập gì đáng kể do không có việc làm; trong
lúc đó, ngôi nhà thuộc di sản thừa kế lại là nơi ngụ duy nhất, nếu đem phân chia sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến cuộc của sống của hai mẹ con chị. Trước tình thế đó, chị B đã làm đơn yêu cầu TA tạm hoãn việc phân
chia di sản thừa kế là căn nhà nói trên.
Theo anh ( chị ), TA sẽ giải quyết các yêu cầu trên như thế nào ? Vì sao phải giải quyết như vậy ?
Trả lời:
- Xác định ngôi nhà là di sản thừa kế ; xác định người thừa kế theo luật của anh A ở hàng thứ nhất: bà H, chị B
và cháu N;
- Nhận định việc bà H - mẹ ruột anh A yêu cầu phân chia di sản do anh A để lại là có căn cứ ( K2Đ12NĐ70:
người thừa kế của bên chồng túng thiếu, không có khả năng lao động, không có TS tự nuôi mình và không có

người khác cấp dưỡng ) đồng thời nhận định việc chị B yêu cầu hạn chế phân chia di sản thừa kế cũng có cơ sở
( K3Đ31 LHN&GĐ và KĐ12NĐ 70: do hoàn cảnh, chị B phải xin hạn chế quyền phân chia );
- Áp dụng K2Đ12NĐ70, giải quyết như sau: Quyết định cho chia di sản thừa kế nhưng phải trên cơ sở cân
nhắc, đảm bảo quyền lợi của chị B và con.
8. Năm 2006, TAND quận H công nhận cho chị T. với anh S. được thuận tình ly hôn. Về con chung, hai bên
thỏa thuận giao cho chị T. nuôi, anh S. có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con một lần là 100 triệu đồng. Sau khi
quyết định trên có hiệu lực, anh S. lại có đơn yêu cầu tòa giải quyết cho anh trực tiếp nuôi con. Anh cho rằng
chị T. không có khả năng bằng anh, hơn nữa chị bỏ bê con tại nhà trẻ đến khuya mới đón về. Trong khi tòa
chưa giải quyết, anh S. đã tự đưa con về trực tiếp nuôi dưỡng.
Tháng 12-2007, TAND quận H đã bác yêu cầu của anh S. Anh kháng cáo lên TAND tỉnh Q. Sau đó, TAND tỉnh
xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi con của anh S. Về nghĩa vụ cấp dưỡng, bản án phúc thẩm tuyên chị
T. không phải cấp dưỡng nuôi con. Các quyết định còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị


vẫn được giữ nguyên. Do vậy, theo bản án này, cơ quan THA vẫn phải thi hành bản án sơ thẩm năm 2006
tuyên anh S. cấp dưỡng 100 triệu đồng cho con.
Anh ( chị ) nhận xét như thế nào về phán quyết trên của Tòa phúc thẩm Tòa án thành phố Q ?
Trả lời::
Khoản 4 Điều 61: người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi người được cấp dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm
dứt. Trong vụ này, Tòa án chỉ cứng nhắc chỉ xem xét phần kháng cáo của đương sự về việc thay đổi người trực
tiếp nuôi con mà không xác định lại trách nhiệm cấp dưỡng ( bỏ sót phần cấp dưỡng do đương sự không yêu
cầu ). L ẽ ra khi thụ lý đơn, Tòa phải giải thích và hướng dẫn để đương sự bổ sung phần kháng cáo để quyết
định của tòa hợp lý, toàn diện hơn
Bài tập Luật hôn nhân và gia đình Blog Hon yume.vn
bài tập 1 A và B là vợ chồng hợp pháp, có tài sản chung là 500 triệu đồng, đã thoả thuận bằng văn
bản chia tài sản chung để A kinh doanh riêng để tránh rủi ro cho gia đình. Hai bên vẫn hạnh phúc và
sống chung, mỗi người được 250 triệu đồng. Sau khi chia tài sản thì A nói với B là lương của B sẽ chi
tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để tích luỹ cho gia đình. Sau 3 năm A kinh doanh thu được khoản
lợi tức là 200 triệu đồng, hàng tháng B được hưởng lương là 5 triệu đồng và chi tiêu dùng hết cho đời
sống gia đình. Sau đó A đã có hành vi ngoại tình và dùng số tiền lợi tức đó cho người tình của mình.B

yêu cầu ly hôn và yêu cầu đòi lại số tài sản đó có được không?
Trả lời:Theo qui định tại Điều 29 Luật HNGĐ về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có qui định: “Khi
hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ DS riêng hoặc có lý
do chính đáng khácthì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung”. Như vậy, sau khi 2 vợ chồng thỏa thuận
chia đôi tài sản chung để kinh doanh riêng thì tài sản riêng của mỗi người là 250 triệu. Điều 30 Luật HNGĐ
cũng qui định : “phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Do đó lương của B
không nằm trong thỏa thuận phân chia tài sản chung vì tại thời điểm phân chia nó chưa hề tồn tại. Về nguyên
tắc (nếu không có thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ HN) thì “thu nhập do lao động, họat động
SXKD” của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (khoản 1 Điều 27) là tài sản chung vợ chồng. Tuy nhiên, theo qui
định tại khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001 về hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có qui
định: “Thu nhập do lao động, họat động SXKD và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận
khác”. Theo luật định thì “thỏa thuận khác” ở đây phải là “thỏa thuận bằng văn bản”. Dẫn chứng: khoản 1 Điều
4 NĐ70/2001 qui định: “… sự thỏa thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có
chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực)”. Ở đây đề bài chỉ nói là “A nói với B” nên coi
như thỏa thuận với nội dung “lương của B sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để tích lũy cho gia đình”
không được xem là “thỏa thuận của vợ chồng”. Như vậy, đối chiếu với qui định tại khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001
thì số lương 5 triệu/tháng của B vẫn là tài sản riêng của B. Cũng thế, theo khoản 1 Điều 8 NĐ70/2001 thì: “Hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận khác bằng văn bản”. Do vậy, số tiền thu được từ việc A kinh doanh từ tài sản riêng của mình (sau 3
năm là 200 triệu) vẫn là tài sản riêng của A bởi lẽ hai người không có thỏa thuận nào khác bằng văn bản. Số
tiền này nếu A không đồng ý nhập vào khối tài sản chung của 2 người thì mặc nhiên nó vẫn là tài sản riêng của
A và A có toàn quyền định đoạt, muốn làm gì thì làm, muốn cho ai thì cho (không vi phạm khoản 5 Điều 33 do
hoa lợi, lợi tức từtài sản riêng không phải là nguồn sống duy nhất của gia đình do đó A có quyền định đọat mà
không cần hỏi ý kiến B). Việc B phát hiện mối quan hệ bất chính của A và yêu cầu tòa cho ly hôn là có cơ sở và
phù hợp các qui định của PL. Tuy nhiên việc B yêu cầu “đòi lại số tài sản đã có” là không có cơ sở. Ở đây B
không thể “đòi lại số tài sản đã có” mà B chỉ có thể đòi lại những tài sản nào là “tài sản riêng” của mình đồng
thời yêu cầu tòa phân định “phần tài sản mà mình được chia trong khối tài sản chung của vợ chồng” mà thôi.
Theo Điều 95 về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn thì khi phân xử, tòa án phải bảo đảm 2 nguyên tắc : (1) “Tài
sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó” (khoản 1 Điều 95); (2) Tài sản chung được giải quyết

theo nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì trên nguyên tắc sẽ chia đôi
nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, công sức đóng góp của mỗi bên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của vợ, con chưa thành niên (khoản 2 Điều 95). Như vậy, khi phân xử, tòa sẽ áp dụng nguyên tắc (1) để công
nhận những tài sản nào là tài sản riêng của B và chúng phải thuộc về B. Dĩ nhiên là B có quyền yêu cầu tòa


công nhận số lương 5 triệu/tháng (có được sau thời điểm phân chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ HN) là
tài sản riêng của B (áp dụng khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001) như đã phân tích ở trên. Đối với khối tài sản chung
của cả 2 vợ chồng thì sẽ phải áp dụng nguyên tắc (2) để phân xử. Tuy nhiên do các bên đã thỏa thuận phân chia
toàn bộ tài sản chung (có tổng gía trị là 500 triệu) đang có tại thời điểm thỏa thuận phân chia nên coi như những
tài sản chung nào có được từ thời điểm thỏa thuận phân chia trở về trước bây giờ đã không còn. Nếu các bên có
thể chứng minh được là mình còn có những tài sản chung khác từ sau thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản
chung (ví dụ: “tài sản do vợ chồng cùng tạo ra” hoặc “những thu nhập hợp pháp khác” sau thời điểm thỏa thuận
phân chia tài sản chung) thì họ vẫn có quyền yêu cầu tòa phân xử để chia theo nguyên tắc thứ (2).
BT: Anh T và chị H được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán từ ngày 1/10/1988 (không có đăng
ký kết hôn). Trong lễ cưới, cha mẹ anh T tuyên bố cho chị H một sợi dây chuyền (5 chỉ vàng). Hai năm sau, cha
mẹ anh T cho vợ chồng anh mảnh đất 150m2 để làm nhà và hai người đã cùng đứng tên chủ quyền mảnh đất
này. Cuộc sống gia đình hạnh phúc, hai anh chị đã có các con chung là cháu M (1990) và cháu N (1994). Đến
cuối năm 2007, giữa hai người phát sinh mâu thuẫn. Ngày 12/10/2008, anh T đã làm đơn xin ly hôn gửi đến
Toà án (Toà đã thụ lý).Trong thời gian chờ giải quyết vụ việc, ngày 15/10/2008, anh T đã kết hôn với chị X (có
đăng ký kết hôn).
Toà án sẽ giải quyết vụ việc như thế nào (chia tài sản và con chung) ? Tại sao?
Về chia tài sản: Trong lễ cưới, cha mẹ anh T đã tuyên bố cho chị H sợi dây chuyền nên đấy sẽ là tài sản riêng
củacủa chị H. Còn mảnh đất và ngôi nhà cùng với các tài sản có được trong thời kỳ anh chị chung sống
và con cái thì chia như khi anh chị ly hôn. Vì ngôi nhà anh chị được cha mẹ anh T tặng cho chung
nên là tài sản của cả hai người.
Chị H có đơn yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa anh T và chị X. Toà án sẽ xử lý yêu cầu này
ra sao?
Trước tiên, ta xem xét quan hệ giữa anh T và chị H có phải là vợ chồng không.
Tại khoản 2.TT01: Đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi

đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn,
nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, thì theo quy định tại điểm b khoản 3
Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ có nghĩa vụ đăng ký kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày
01/01/2003; do đó, cần phân biệt như sau:
a. Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 nếu họ chưa đăng ký kết hôn hoặc đã đăng ký kết hôn mà
họ có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý trong trường hợp họ thực hiện việc đăng ký kết
hôn theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, thì quan hệ của họ vẫn được công nhận là
đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải kể từ ngày đăng ký kết
hôn.Việc đăng ký kết hôn theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội do Bộ Tư pháp
hướng dẫn.b. Kể từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì theo quy định tại điểm b khoản 3
Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ không được công nhận là vợ chồng; nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu
ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, khoản
1 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, bằng bản án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ
có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản, thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung.Theo lý luận trên Tòa án giải quyết ly hôn giữa T & H (bằng
bản án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng) là đúng( theo điểm b, k1,TT01và theo c.1 NQ02/2000
HDTP), dù rằng T & H đáng lẽ ra phải có nghĩa vụ đăng ký kết hôn, vì như thế sẽ đảm bảo quyền lợi chính
đáng cho 2 con của họ ( NQ02/2000HĐTP).Tuy nhiên trong lúc chờ giải quyết vụ việc thì T đăng ký kết hôn
với X. Việc đăng ký kết hôn này đã vi phạm khoản 1, điều 10 LHNGĐ. Tòa án sẽ tuyên bố hủy bỏ hôn nhân
giữa T & M. Sau khi giải quyết ly hôn xong giữa T và H ( có bản án của Tòa án giựa T & H có hiệu lực pháp
lý) thì T mới được đăng ký kết hôn với M
Bài tập 2.
A và B là vợ chồng hợp pháp, trước khi kết hôn A có 1 căn nhà, sau khi kết hôn vì hai vợ chồng không có công
ăn việc làm ổn định nên đã dùng tầng 1 căn nhà đó cho thuê mỗi tháng la 2 triệu đồng để có thêm thu nhập.
Sau 5 năm A đã bán căn nhà đó mà không cho B biết.B biết chuyện đã yêu cầu toà án xác định hợp đồng mua
bán đó bị vô hiệu.Hỏi toà án sẽ giải quyết như thế nào ?


Căn nhà được A tạo lập trước khi hôn nhân và sau khi kết hôn cũng không có thỏa thuận nhập

vào tài sản chung của vợ chồng nên nó là tài sản riêng của A.
Theo quy định của Khoản 5 Điều 33 Luật HN và GĐ quy định "Trong trường hợp tài sản riêng của vợ
hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy
nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng" Ta
thấy theo đề bài ra do AB không có công việc ổn định chứ không phải không có công ăn việc làm.
Việc cho thuê nhà chỉ là nhằm có thêm thu nhập cho gia đình chứ không phải là nguồn sống duy nhất
của 2 vợi chồng AB nên trong trường hợp này A bán nhà không cần cho B biết là phù hợp với quy
định của pháp luật.
Do vậy tòa án sẽ tuyên bố yêu cầu của B không được chấp nhậm vì không có căn cứ để xác định
hợp đồng mua bán này là vô hiệu.Bài tập 3 :AB là vợ chồng có con là X, đồng ý để X đi làm con
nuôi của bà K,khi K lên 10 tuổi thì bà K lại rơi vào tình trạng khó khăn đặc biệt về kinh tế
nênAB muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa X và bà K nhưng cả X và bà K đều không
đồng ý.Hỏi AB có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi hay không ?trong thời gian bà
K đang ko có đủ điều kiện nuôi dưỡng X thì AB có nghĩa vụ cấp dưỡng cho X hay không ?
nếu X gây ra thiệt hại thì Ab có nghĩa vụ bồi thường cho X không ? Căn cứ điều 76 Luật HN
và GĐ > A và B không có quyền yêu cầu.
AB không có nghĩa vụ phải cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại do X gây ra do luật không quy định cha
mẹ phải cấp dưỡng or bồi thường trong trường hợp này. Theo luật nuôi con nuôi chuẩn bị có hiệu lực
01/01/2011 thì cha mẹ không có nghĩa vụ này trừ trường hợp AB và K có thỏa thuận khác. Tuy nhiên,
AB có quyền được đề nghị bà K cho mình được chu chập cho con mình khỏi phải đói khổ. Nếu bà K
không chấp nhận mà để X phải chụi đói, khổ thì AB có quyền yêu cầu tòa án chấp dứt việc nuôi con
nuôi của bà K theo điều 77 Luật HN và GĐ vì tội hành hạ người khác theo quy định của luật hình sự.



×