Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VÕ NGUYÊN CHƢƠNG

THI HÀNH PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VÕ NGUYÊN CHƢƠNG

THI HÀNH PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. DOÃN HỒNG NHUNG

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Võ Nguyên Chương


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... 3
MỤC LỤC ....................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI........................................ 14
1.1. Quan niệm về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai .. 14
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, khiếu nại về đất đai ........................................... 14

1.1.2. Khái niệm tố cáo và tố cáo về đất đai ................................................. 18
1.1.3. Khái niệm về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai .......................... 19
1.2. Thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai ................... 23
1.2.1. Khái niệm về thi hành pháp luật ......................................................... 23
1.2.2.Thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai .................. 24
1.2.3. Các nhân tố trong thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo
về đất đai ...................................................................................................... 26
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến thi hành pháp luật trong giải quyết khiếu
nại, tố cáo về đất đai. ..................................................................................... 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT TRONG GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........................................................................... 31
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành ............................................. 31
2.1.1. Các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại về đất đai từ năm 2004
tới nay. ........................................................................................................... 31
2.1.2. Pháp luật về giải quyết tố cáo về đất đai từ năm 2004 tới nay. .......... 37
2.1.3. Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành ........................................ 38
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai tại
thành phố Đà Nẵng........................................................................................ 43


2.2.1. Tình hình các vụ khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai nổi cộm
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.................................................................... 45
2.2.2. Những kết quả đạt được và những hạn chế của hoạt động thi hành
pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng......................................................................................................... 50
2.3. Nguyên nhân của các bất cập trong thi hành pháp luật giải quyết khiếu
nại, tố cáo về đất đai tại thành phố Đà Nẵng ................................................ 54
2.3.1.Về sự bất cập trongcác quy định pháp luật .......................................... 54
2.3.2. Năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của người có thẩm quyền trong

giải quyết khiếu nại về đất đai ...................................................................... 56
2.3.3. Sự hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ
chức thực hiện khiếu nại tố cáo về đất đai .................................................... 58
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP
LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ........................................................................................................... 61
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, về đất đai và
các quy định khác có liên quan ........................................................................ 61
3.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo ........... 61
3.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về đất đai ........................................... 66
3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên quan ........................ 67
3.2. Nâng cao năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của người có thẩm
quyền áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai .................... 70
3.2.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức giải quyết
khiếu nại, tố cáo. ........................................................................................... 70
3.2.2. Nâng cao ý thức trách nhiệm của người có thẩm quyền áp dụng pháp
luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai ...................................................... 74
KẾT LUẬN ................................................................................................... 80


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 83
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

GQKN : giải quyết khiếu nại
GQKNTC : giải quyết khiếu nại tố cáo
GQTC : Giải quyết tố cáo

XHCN : xã hội chủ nghĩa
UBND : ủy ban nhân dân

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến
pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị
xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khiếu nại, tố cáo là
hiện tượng xã hội xuất hiện trong quản lý hành chính nhà nước, là một kênh
thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước,
phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà
nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thông
qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự
phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó có cơ sở
thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà
nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một vấn đề được
Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.
Trong lĩnh vực quản lý đất đai, khiếu nại, tố cáo về đất đai là một hiện
tượng xảy ra phổ biến trong xã hội; đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện cơ chế đất có giá, việc giao đất, cho
thuê đất phi nông nghiệp, thuê đất sản xuất kinh doanh phải trả tiền thì khiếu
nại, tố cáo về đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng
cũng như tính chất phức tạp về mặt nội dung.
Hiện nay, tình hình khiếu nại, tố cáo trong cả nước nói chung và trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng diễn biến rất phức tạp, số lượng đơn thư

khiếu nại, tố cáo năm sau tăng hơn năm trước và tập trung chủ yếu vàolĩnh
vực đất đai, giải phóng mặt bằng, chiếm hơn 91% số lượng đơn thư. Tính chất
các vụ khiếu nại, tố cáo về đất đai thường gay gắt, kéo dài, đặc biệt trong

2


những năm gần đây xuất hiện những vụ việc khiếu nại đông người, khiếu nại
vượt cấp ở các cơ quan cấp Trung ương, cấp tỉnh và nhà riêng của các đồng
chí lãnh đạo; một số trường hợp vượt ra khỏi phạm vi khiếu nại dẫn đến vi
phạm pháp luật hình sự, có những công dân thường xuyên khiếu nại, tố cáo
không đúng sự thật, lôi kéo xúi giục người khác khiếu nại, tố cáo kéo dài từ
những năm chưa chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cho đến nay. Tình
hình trên đã và đang ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, xã hội, làm giảm
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Kết
quả giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định tình hình chính trị, trật tự an
toàn xã hội tại địa phương, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật
trong quản lý nhà nước và là phương thức để bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Từ năm 2004 đến 2013, hoạt động thi hành pháp luật giải quyết khiếu
nại, tố cáo về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng đã đạt được những kết quả nhất định, tạo cơ sở cho việc bảo
đảm và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên,
bên cạnh đó vẫn còn một số yếu kém, hạn chế như thủ trưởng một số cơ quan,
ban, ngành, một số Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các quận, huyện và những
người có thẩm quyền còn thiếu trách nhiệm, chưa nhận thức đầy đủ về công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai; chất lượng thi hành pháp luật còn
thấp, số lượng vụ việc giải quyết sai còn nhiều; trong khi giải quyết còn vi

phạm quy định về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu
nại, tố cáo; nhiều Quyết định giải quyết khiếu nại, Kết luận giải quyết tố cáo
đã có hiệu lực pháp luật nhưng chậm thi hành hoặc không thi hành; công tác
thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa

3


được quan tâm đúng mức; kỷ luật hành chính trong giải quyết khiếu nại, tố
cáo bị buông lỏng; những vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo chưa được xử lý
nghiêm minh, trình độ cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáovề đất
đai còn bất cập...
Để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai không thể thiếu cơ chế
giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai hoàn thiện và hiệu quả. Việc nghiên
cứu, tìm hiểu các khiếu kiện về đất đai và phân tích, đánh giá đúng công tác
thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai là rất cần thiết, không
những giúp Nhà nước trong nỗ lực xác lập cơ chế giải quyết về đất đai một
cách có hiệu quả mà còn góp phần vào việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, pháp
luật tố cáo và xuất phát từ thực tiễn công tác thi hành pháp luật giải quyết
khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, để góp phần đổi
mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, tôi chọn đề tài: “Thi hành pháp luật giải quyết
khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài
nghiên cứu cho Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thi hành pháp luật nói chung và thi hành pháp luật trong GQKNTC là
đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Nhất trong giai

đoạn hiện nay, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về thi hành pháp
luật trong GQKN, GQKNTC về đất đai được tăng lên rõ rệt, trong đó phải kể
đến những công trình tiêu biểu sau:
- Một số công trình nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp liên quan đến
thẩm quyền, trình tự và thủ tục GQKNTC hành chính và đề cập đến công tác

4


GQKNTC hành chính trong một số lĩnh vực cụ thể như: Xây dựng quy trình
giải quyết khiếu nại hành chính (Ngô Mạnh Toan, đề tài khoa học cấp Cơ sở
của Thanh tra Chính phủ năm 2005); Vấn đề đối thoại trong giải quyết khiếu
nại hành chính (Nguyễn Tiến Bình, đề tài khoa học cấp Cơ sở của Thanh tra
Chính phủ năm 2005); Việc thụ lý để giải quyết khiếu nại hành chính - từ lý
luận đến thực tiễn (Nguyễn Quốc Tuấn, Tạp chí Thanh tra, số 6/2005); Thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước (Nguyễn
Thị Minh Hà, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội); Việc
thực hiện thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan nhà nước và trách nhiệm
của các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính (Phạm
Văn Long, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 2005); Tiền tố
tụng hành chính - Thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện hành chính (ThS. Nguyễn
Thị Thủy, Tạp chí Luật học, số 10/2007); Thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại
hành chính về đất đai, nhà ở hiện nay - Những vấn đề đặt ra và giải pháp (Ngô
Đăng Huynh, đề tài cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 2003); Hoàn thiện
những qui định của Luật Khiếu nại, tố cáo về giải quyết khiếu nại, tố cáo đông
người (ThS. Trần Văn Sơn,Tạp chí Thanh tra, số 7/2005); Việc áp dụng pháp luật
để giải quyết khiếu nại về đất đai (ThS. Nguyễn Tuấn Khanh, Tạp chí Thanh tra,
Số 5/2008); Tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai và giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo về đất đai (Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật của Chính phủ, Đặc san tuyên truyền pháp luật số 09/2009); Giải quyết khiếu

nại trong lĩnh vực đất đai qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế (Bùi Thị Thuận
Ánh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội),...
- Một số bài viết, công trình khoa học đề cập đến công tác kiểm tra,
giám sát hoạt động GQKNTC hành chính ở những góc độ khác nhau như:
Trách nhiệm của đại biểu dân cử trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân (ThS. Đào Xuân Tiến, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 02/2005);

5


Tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính
nhà nước - giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (TS Trần Văn
Sơn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2005); Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
thanh tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo (Bùi Nguyên Súy, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh
tra Chính phủ năm 2007); ...
- Trước những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, đã có một số công trình
nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp đổi mới cơ chếgiải quyết khiếu nại, tố cáo
(GQKNTC) hành chính (thậm chí có những công trình, bài viết khai thác những
khía cạnh liên quan đến mô hình GQKNTC hành chính còn đang có những ý
kiến khác nhau về vị trí, vai trò, thẩm quyền) như: Hoàn thiện cơ chế giải quyết
khiếu kiện hành chính (Nguyễn Văn Thanh, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh
tra Chính phủ năm 2004); Cơ quan tài phán hành chính - nhận thức mới, giải
pháp mới cho một vấn đề không mới (Đinh Văn Minh, Tạp chí Thanh tra, 2005);
Đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay
(PGS.TS.Bùi Xuân Đức, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 5/2008); Trao đổi
thêm về việc áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003 (Phạm Thanh Hải, Tòa án
nhân dân huyện Đan Phượng, Hà Tây, Tạp chí Tòa án, tháng 5/2005); Những
vấn đề cần trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003 (TS Nguyễn
Văn Cường, Tạp chí Tòa án tháng 8/2005); Một số khía cạnh của việc nâng cao

hiệu suất hoạt động của Tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện
hành chính (Vũ Thư, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2003);
Ngoài ra, trên các tạp chí khác như: Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp
chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí Pháp lý ... cũng có những bài viết
nghiên cứu về việc thi hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại , tố cáo về
đất đai;

6


Nội dung nghiên cứu trong các công trình nói trên có khá nhiều nội
dung chuyên sâu, gợi mở những vấn đề trong việc thi hành pháp luật về khiếu
nại, tố cáo nhưng chỉ mới dừng lại ở mức độ chung nhất về GQKNTC hành
chính và công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc GQKNTC hành chính
hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập
kinh tế quốc tế và đẩy mạnh cải cách hành chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
chung để đánh giá đúng thực trạng thi hành pháp luật trong GQKNTC về đất
đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, xác định những ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân cụ thể. Từ đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương và có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật GQKNTC về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn có 04 nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý của công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện nay;
- Tìm hiểu về đặc điểm tình hình kinh tế xã hội, an ninh, chính trị của thành
phố Đà Nẵng và ảnh hưởng của nó đến tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai và

công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố;
- Đánh giá tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng trong thời gian từ khi có Luật Đất đai năm 2003 và 2013 đến nay;
dự báo tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai trong thời gian tới;
- Thực trạng công tác thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về
đất đai trong công tác quản lý nhà nước về đất đai tại thành phố Đà Nẵng từ
khi có Luật Đất đai năm 2013.

7


- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong những năm tiếp theo.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học:
Thông qua việc nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai cũng như việc áp dụng các quy định pháp
luật vào thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng để thấy được những vướng mắc, bất cập trong hệ thống
pháp luật hiện hành, đề xuất sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật
khiếu nại, tố cáo về đất đai, góp phần hỗ trợ chính quyền các cấp trong việc ra
các văn bản, chính sách liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
cũng như các văn bản, chính sách để đảm bảo hiệu quả thi hành pháp luật giải
quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố.
Ý nghĩa thực tiễn:
Phân tích tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai và thực trạng công tác
thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành
phố, vận dụng những quy định của pháp luật, đánh giá những tồn tại, vướng
mắc, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác thi hành pháp luật giải

quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai để từ đó đề xuất các giải pháp cho chính
quyền địa phương trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, góp
phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo trong công tác
nghiên cứu và thực tiễn công tác giải quyết các khiếu nại hành chính và giải
quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước.
Những đóng góp mới của luận văn

8


Luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và
tương đối toàn diện thi hành pháp luật GQKNTC về đất đai trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng nên có những đóng góp mới như sau:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thi hành pháp
luật GQKNTCvề đất đai.
- Làm rõ thực trạng, xác định nhữnh ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
của những hạn chế trong việc thi hành pháp luật GQKNTCvề đất đai trên địa
bàn Thành phố Đà Nẵng. Từ đó, đề xuất những quan điểm và kiến nghị các
giải pháp có tính khả thi, phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của địa
phương nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật GQKNTC về đất đai trên
địa bàn thành phố, góp phần ổn định và đáp ứng yêu cầu phát triển Thành
phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Cơ sở pháp lý, các chính sách pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố
cáo về đất đai
- Tình hình khiếu nại, tố cáovề đất đai và thực trạng công tác thi hành pháp
luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
- Phạm vi về thời gian

Đề tài được tiến hành từ tháng 11 năm 2013 đến tháng 06 năm 2014.
Số liệu và thông tin thu thập từ thời điểm năm 2004 (thời điểm Luật
Đất đai năm 2003 có hiệu lực) đến cuối năm 2013.
- Phạm vi về không gian
Đề tài nghiên cứu tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai và thực trạng
công tác thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, tập trung
vào các cơ quan như: Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Tiếp công dân thành
phố, Thanh tra thành phố, UBND các quận, huyện trên địa bàn thành phố.

9


6. Nội dung nghiên cứu:
- Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu: cơ sở pháp lý của khiếu nại, tố
cáo về đất đai; tình hình kinh tế - xã hội, an ninh - chính trị của thành phố Đà
Nẵng và ảnh hưởng của nó đến khiếu nại tố cáo và công tác thi hành pháp
luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai; vai trò của giải quyết khiếu nại, tố
cáo về đất đai đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai.
- Phân tích, đánh giá tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay;
dự báo tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai trong thời gian tới
- Nghiên cứu thực trạng công tác thi hành pháp luật giải quyết khiếu
nại, tố cáo về đất đai trong công tác quản lý nhà nước về đất đai tại thành phố
Đà Nẵng từ khi có Luật Đất đai năm 2003, bước đầu triển khai Luật đất đai
năm 2013, rút ra những tồn tại, vướng mắc và bài học kinh nghiệm trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả
việc thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong những năm tiếp theo.

7. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và
GQKNTC của công dân; chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về GQKNTC trong lĩnh vực đất đai, về yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng tư tưởng, lý luận để nghiên cứu vấn đề
thi hành pháp luật GQKNTC về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Phương pháp nghiên cứu :

10


Về cơ bản, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp thống kê, so sách đối
chiếu số liệu giữa các năm; phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh,
chúng minh,... để đánh giá thực trạng thi hành pháp luật GQKNTV về đất đai
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp thu thập thập số liệu thứ cấp
- Thu thập các văn bản liên quan đến đất đai và khiếu nại, tố cáo như:
Luật Đất đai năm 1993 (có sửa đổi bổ sung vào các năm 2000, 2001) và
2003, Luật đất đại sửa đổi bổ sung năm 2009 và Luật đất đai năm 2013, Luật
Khiếu nại, Luật tố cáo, Luật Tố tụng hành chính và các văn bản hướng dẫn.
- Các báo cáo, tài liệu liên quan đến tình hình và công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo về đất đai tại Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Tiếp công
dân thành phố, Thanh tra thành phố, UBND các quận, huyện trên địa bàn
thành phố giai đoạn 2004 - 2013.
- Tham khảo các công trình đã nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực
nghiên cứu của các tác giả.

- Tài liệu giáo trình hoặc các xuất bản khoa học liên quan đến vấn đề
nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
a. Xây dựng bảng hỏi điều tra phỏng vấn các đối tượng liên quan đến
đề tài
- Lập bảng hỏi điều tra phỏng vấn: Bảng hỏi được thiết kế gồm bảng
hỏi mở và bảng hỏi phỏng vấn sâu.
+ Bảng hỏi mở: để phỏng vấn các đối tượng có đơn khiếu nại, tố cáo
và yêu cầu giải quyết về đất đai. Thông tin cấu trúc nội dung bảng hỏi mở sẽ
gồm các nội dung: hỏi về các giấy tờ về quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản

11


gắn liền với đất, nội dung khiếu nại, tố cáo, thời điểm xảy ra vụ việc; yêu cầu,
nguyện vọng giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai....
+ Bảng hỏi phỏng vấn sâu: để phỏng vấn các cán bộ, công chức, thanh
tra viên tham gia công tác xây dựng pháp luật, tiếp dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo về đất đai trong các cơ quan hành chính nhà nước. Thông tin cấu trúc
nội dung bảng hỏi sẽ gồm các nội dung: các dạng khiếu nại, tố cáo về đất đai
thường gặp; các câu hỏi đánh giá về trình tự, thủ tục giải quyết, đánh giá công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai; yêu cầu, điều kiện để thực hiện
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai...
b. Chọn mẫu phỏng vấn
- Phỏng vấn trực tiếp một số đối tượng có đơn khiếu nại, tố cáo về đất
đai: gồm 4 nhóm đối tượng: đối tượng khiếu nại, đối tượng tố cáo, đối tượng
có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án và các đối tượng có kiến nghị
khác trong lĩnh vực đất đai.
- Phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ tham gia tiếp công dân, trực tiếp
giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai tại các cơ quan hành chính nhà nước:

gồm 5 nhóm đối tượng: công chức chủ trì, tham giai soạn thảo văn bản quy
phạm pháp luật, công chức trực tiếp tiếp công dân; chuyên viên theo dõi, phụ
trách công tác tiếp nhận, xử lý đơn thư tại các cơ quan hành chính nhà nước;
chuyên viên, thanh tra viên trực tiếp tham gia giải quyết các vụ khiếu nại tố
cáo về đất đai; Chánh Thanh tra Sở Tài nguyên Môi trường, Trưởng phòng
Tài nguyên Môi trường và Trưởng các Đoàn Thanh tra giải quyết các vụ
khiếu nại, tố cáo về đất đai.
c. Thời gian phỏng vấn:trong 4 tháng, từ 05/01 -30/5/2014.
d. Số lượng mẫu phỏng vấn, điều tra: khoảng 50 mẫu.
Phương pháp tham vấn ý kiến chuyên gia và các cơ quan liên quan:

12


- Tham vấn ý kiến các chuyên gia và các cơ quan liên quan, cụ thể là
các cán bộ lãnh đạo của Cục II Thanh tra Chính phủ, Vụ Tiếp dân và xử lý
đơn thư Thanh tra Chính phủ (Thường trực Trụ sở Tiếp Công dân của Trung
ương Đảng và Nhà nước, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND
thành phố, Sở Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra thành phố, UBND cấp
quận, huyện và các Chánh Thanh tra, Trưởng đoàn Thanh tra trực tiếp tham
gia giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai tại các cơ quan hành chính nhà
nước trên địa bàn thành phố.
Phương pháp phân tích, thống kê và xử lý số liệu:
- Mã hóa bảng hỏi trên phần mềm Excel.
- Soạn thảo các tập tin bảng hỏi và nhập số liệu vào máy tính
- Kiểm tra độ chính xác của dữ liệu nhập
- Phân tích thống kê mô tả
- Phân tích tần số xuất hiện của mỗi chỉ tiêu trên bảng hỏi
- Sử dụng phần mềm Excel để thống kê, so sánh.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố
cáo về đất đai
Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố
cáo về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai qua thực tiễn trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng

13


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Quan niệm về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, khiếu nại về đất đai
Trong khoa học pháp lý tại Việt Nam, kể từ khi Hiến pháp 1959 ra
đời, bản Hiến pháp này đã công nhận rằng “Khiếu nại, tố cáo là một trong
những quyền cơ bản của công dân” và là một trong những cách thức để công
dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Nếu giải quyết tốt các khiếu nại sẽ góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, xây dựng
và phát triển đất nước.
- Quan điểm về khái niệm khiếu nại
Khiếu nại là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã
hội, khiếu nại theo gốc tiếng Latinh: "Complant", nghĩa là sự phàn nàn, phản
ứng, bất bình của người nào đó về vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình
[33, tr. 205].
Theo sách “3450 thuật ngữ pháp lý phổ thông”: “khiếu nại là việc yêu

cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc
vi phạm các quyền hoặc lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại hay
người khác [7, tr.29].
Theo Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý làm chủ biên: "Khiếu nại
là thắc mắc, đề nghị xem xét lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm
quyền đã làm, đã chuẩn y [37, tr.904].
Như vậy, cách hiểu của các tác giả cuốn Từ điển tiếng Việt của
Nguyễn Như Ý chủ biên có sự khác biệt so với Nguyễn Ngọc Điệp khi cho
rằng Phạm vi của các vấn đề cần khiếu nại không chỉ là những hành vi xâm

14


phạm tới quyền lợi hợp pháp của các chủ thể. Nguyễn Như Ý coi Khiếu nại
còn có thể tiến hành với các hành vi chưa xác định được sự xâm phạm, hoặc
các hành vi bất hợp lý hay các hành vi không có căn cứ để cho rằng nó sẽ đạt
được hiệu quả cao của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, người có chức vụ
công. Theo tôi, tôi đồng tình với cách hiểu của nhóm tác giả Nguyễn Như Ý
bởi một hành vi khi chưa có phán quyết của Tòa án thì đôi lúc khó có thể xác
định liệu nó có vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác
không. Mặc dù ở trong hệ thống pháp luật của nước ta, nguyên tắc “suy đoán”
vẫn còn được sử dụng phổ biến, mặc nhiên coi các hành vi là vi phạm dựa
trên cảm quan của các chủ thể ngoài Tòa án.
Có một cách hiểu khác cho rằng : “Khiếu nại là hiện tượng phát sinh
trong đời sống xã hội; đó là sự phản ứng có tính tự nhiên của một người đối
với hành vi của người khác khi họ cho rằng hành vi đó không phù hợp với các
quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến các quyền và
lợi ích của mình.” Tuy nhiên cách hiểu này theo tôi không thực sự xác đáng,
bởi khiếu nại là việc đề đạt ý nguyện của mình tới chủ thể đã đưa ra các quyết
định, và các chủ thể đó thường là chủ thể có quyền lực chi phối một số lĩnh

vực liên quan tới những điều mà chúng ta cảm thấy bất cập.
Dưới góc độ chính trị - pháp lý, có một cách hiểu rằng “khiếu nại là
một quyền tự do, dân chủ quan trọng của công dân được pháp luật quy định
và đảm bảo thực hiện bởi bộ máy nhà nước. Quyền khiếu nại được coi là
“quyền để bảo vệ quyền”, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi
ích của mình khi bị hành vi của người khác xâm phạm.”.Cách định nghĩa này
không đưa ra một nội hàm mô tả về khiếu nại mà chỉ đưa ra các vai trò của
khiếu nại mà thôi.
Nhìn lại lịch sử lập pháp của Việt Nam, thuật ngữ "khiếu nại" được
sử dụng lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam là kể
từ khi có Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc

15


biệt. Điều II Sắc lệnh qui định: "Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền: Nhận
các đơn khiếu nại của nhân dân...". Tinh thần và nội dung của bản Sắc lệnh
cho thấy khiếu nại ở đây là chỉ sự khiếu nại của nhân dân đối với chính quyền
mà hiện nay chúng ta quan niệm đó chính là khiếu nại đối với hoạt động của
bộ máy nhà nước và công chức nhà nước mà trước hết là các CQHCNN. Tại
Điều I, Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11 về thành lập Ban
Thanh tra đặc biệt, Hà Nội, sắc lệnh cũng đã xác định: "Chính phủ sẽ lập
ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có ủy nhiệm làđi giám sát tất cả các công
việc và các nhân viên của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ".
Năm 2000, Thanh tra Nhà nước nhận định về khiếu nại, tố cáo, khái
niệm "khiếu nại" được hiểu rộng hơn, theo đó,khiếu nại theo nghĩa chung nhất
là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem
xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây thiệt hại
hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi thường
thiệt hại do việc làm không đúng gây ra.

Theo quy định tại Điều 2, Khoản 1 của Luật khiếu nại năm
2011:“Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức
theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho
rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình”. Định nghĩa này cho rằng Khiếu nại chỉ có thể nhắm đối
các chủ thể ra quyết định là người , cơ quan thuộc Nhà nước. Tuy nhiên trên
thực tế, bất cứ cá nhân tổ chức nào có quyền lực tác động đến các quyền lợi
của chủ thể khác đều có thể nhận được sự phản hồi thông qua hình thức
khiếu nại. Do đó về mặt khoa học pháp lý, việc gói gọn nghĩa của thuật ngữ

16


Khiếu nại như định nghĩa này là không thực sự xác đáng. Nên đặt lại thành
thuật ngữ “Khiếu nại hành chính” sẽ hợp lý hơn.
- Thuật ngữ “Khiếu nại về đất đai”
Trong giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội- Nhà
xuất bản Công an nhân dân năm 2009, ThS Nguyễn Thị Dung đã kế thừa hai
cách hiểu của nhóm Nguyễn Như Ý và Nguyễn Ngọc Điệp, cùng với định
nghĩa về Khiếu nại trong Luật Khiếu nại,tố cáo năm 1998 để cho ra khái niệm
về “Khiếu nại về đất đai” như sau : “Khiếu nại về đất đai là việc các cơ quan,
tổ chức, công dân đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại các
quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trong quản lý đất đai khi có
căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó là xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của mình”. Định nghĩa này về cơ bản là chấp nhận được, tuy nhiên
vẫn chưa đi đúng tinh thần của thuật ngữ Khiếu nại.Bản chất của việc khiếu
nại là đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quyết định không hợp

lý, không hợp pháp tránh ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của người dân.
Do đó khiếu nại không chỉ giải quyết mỗi vấn đề của chủ thể khiếu nại, mà có
thể của các chủ thể khác. Một người công dân thì hoàn toàn có thể đề nghị các
cơ quan quản lý xem xét lại một hành vi ảnh hưởng tới quyền lợi của nhà
nước hoặc công dân, tổ chức khác. Như vậy mới là cái đích hướng tới của một
xã hội tốt, và luật pháp cũng phải quy định mở hơn như vậy.
Qua các nghiên cứu bên trên, học viên một phần đồng ý với cách định
nghĩa của các nhà khoa học đi trước,đồng thời học viên cũng xin đưa ra định
nghĩa về “Khiếu nại về đất đai” như sau “Khiếu nại về đất đai là một hình
thức của khiếu nại hành chính, là việc các chủ thể đề nghị các cơ quan, tổ
chức, cá nhân xem xét lại các quyết định, hành vi đã làm, đã chuẩn y trong
quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó xâm phạm
đến quyền lợi hợp pháp của mình và chủ thể khác.”

17


1.1.2. Khái niệm tố cáo và tố cáo về đất đai
Tố cáo là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Tố
cáo được quan niệm khác nhau tùy theo mức đô, phạm vi, đối tượng tố cáo.
Theo nghĩa chung nhất, tố cáo là “vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan
pháp luật hoặc trước dư luận” [37, tr.1663].. Theo học viên, định nghĩa như
trên là quá hẹp bởi quá khó để thực hiện việc tố cáo nếu hiểu như trên.Trong
thực tế đời sống, không phải ai cũng có thể “vạch rõ tội lỗi của kẻ khác”
được.Muốn vạch rõ tội lỗi của người khác thì phải có trình độ và hiểu biết về
chứng minh, chứng cứ cùng với các nghiệp vụ điều tra. Và thường thì nhiệm
vụ “vạch rõ tội lỗi” này ta có thể thấy ở Viện kiểm sát hoặc Cơ quan Công an,
những cơ quan chuyên trách.
Có một cách hiểu khác về tố cáo như sau “Tố cáo là quyền của công
dân phát hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các quyết định, hành vi

trái pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đã gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của
công dân nói chung, kể cả không gây thiệt hại trực tiếp cho công dân thực
hiện việc tố cáo.” . Theo học viên, định nghĩa này cũng sát với định nghĩa về
“Tố cáo” trong Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998.Tương tư với cách hiểu trên,
các nhà làm luật đã định nghĩa Tố cáo theo quy định tại Điều 2, khoản 1 Luật
Tố cáo năm 2011 như sau : “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này
quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi
phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức.” Như vậy, cách hiểu như này về cơ bản sẽ dễ cho các
chủ thể thực hiện quyền tố cáo của mình, tuy nhiên về mặt học thuật thì hơi
“thừa chữ”.Nên chăng bỏ đi cụm từ “theo thủ tục do Luật này quy định” và
lập ra một điều khoản khác thì sẽ đảm bảo về nghĩa Tiếng Việt của từ “Tố

18


cáo”.Học viên có ý kiến như vậy bởi lẽ“Tố cáo” là hiện tượng có tuần suất
rất thường ngày và đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử, không phụ thuộc vào sự
tồn tại củacác thủ tục trong Luật nên việc định nghĩa Tố cáo không nhất thiết
phải cho thêm cụm từ như vậy.
Mặt khác, về bản chất củaTố cáo là việc các chủ thể báo cho cơ quan
chức năng biết về một hành vi có thể gây thiệt hại tới các quyền lợi hợp pháp của
mình và các chủ thể khác. Do đó, tố cáo có thể góp phần ngăn chặn các hậu quả
có thể xảy ra, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Phạm vi của tố cáo
nên được khuyến khích và mở rộng, bởi việc đưa các hành vi xấu ra trước pháp
luật trước tiên sẽ giúp các chủ thể bị xâm hại quyền lợi lấy lại được những gì
mình đã bị mất, đồng thời trừng trị những chủ thể gây ra những hậu quả đó, là
nền tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp và công bằng.

Dựa vào những phân tích trên, học viên xin đưa ra định nghĩa “Tố
cáo về đất đai” như sau: “Tố cáo về đất đai là việc công dân báo cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật về
quản lý và sử dụng đất đai của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức”
1.1.3. Khái niệm về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
- Giải quyết khiếu nại
Theo quy định của Luật khiếu nại năm 2011, tại Điều 2, Khoản 11 thì
GQKNTC là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định GQKN.
Như vậy, Giải quyết khiếu nại đơn giản được hiểu là quá trình xem xét,
đánh giá đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ
luật có đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp.
- Các điểm chung về GQKN

19


×