1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, dịch
vụ thẻ Ngân hàng – một trong những ngành dịch vụ phát triển trên cơ
sở ứng dụng công nghệ thông tin đã có những bước tiến dài nhằm
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về tiện ích, chất lượng dịch vụ cho
khách hàng và gia tăng lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng. Trong
những năm gần đây, ở thị trường Việt Nam, các ngân hàng đã không
ngừng cung cấp các sản phẩm thẻ với nhiều tính năng để thu hút
khách hàng sử dụng dịch vụ, đẩy mạnh thanh toán qua thẻ, mở rộng
mạng lưới chấp nhận thẻ nhằm cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường bán
lẻ khá hấp dẫn này.
Tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV,
dịch vụ thẻ được hình thành từ cuối năm 1998 và đưa vào kinh
doanh năm 2002. Phát triển dịch vụ thẻ nằm trong chiến lược đa
dạng hóa dịch vụ ngân hàng và tăng nguồn thu từ hoạt động bán lẻ
của BIDV. Thời gian qua, hoạt động này đã đạt được một số kết quả
đáng khích lệ, bước đầu chiếm lĩnh được thị trường, tạo dựng hình
ảnh, thương hiệu sản phẩm thẻ.
Chi nhánh Sơn La là chi nhánh cấp 2 của BIDV,trong quá trình
hoạt động còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng được đánh giá là có
những bước đi khá chắc chắn. Việc gia nhập thị trường thẻ tuy muộn
hơn so với các ngân hàng khác và hoạt động khó khăn do đối mặt với
2
thị trường cạnh tranh khốc liệt nhưng BIDV Sơn La cũng đã tận
dụng được lợi thế là một chi nhánh cấp 2 của một hệ thống ngân
hàng lớn, đã và đang nỗ lực phát triển dịch vụ thẻ như một kênh bán
lẻ trọng tâm. Cho đến nay, dịch vụ thẻ tại chi nhánh đã đi vào nề nếp
và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên nhìn chung vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa trở thành dịch vụ thế mạnh trong
cạnh tranh, đem lại lợi nhuận cao cho Chi nhánh. Vấn đề đặt ra cho
chi nhánh BIDV Sơn La là làm thế nào phát triển dịch vụ thẻ trong
đó có phát triển phát hành thẻ, thúc đẩy thanh toán thẻ và nâng cao
chất lượng dịch vụ nhằm thu hút khách hàng cá nhân sử dụng thẻ của
Chi nhánh, tăng cường nguồn thu phí dịch vụ và đa dạng hóa các sản
phẩm dịch vụ.
Từ ý nghĩa thực tiễn như vậy, đề tài “Phát triển dịch vụ thẻ
thanh toán tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Sơn La” đã được tác giả lựa chọn nghiên cứu với mong
muốn đưa ra một số giải pháp phù hợp để phát triển dịch vụ thẻ tại
Chi nhánh nói riêng và BIDV nói chung.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ thẻ ngân hàng, bao gồm hoạt
động phát hành thẻ và thanh toán thẻ.
Phạm vi nghiên cứu: Dịch vụ thẻ của Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Sơn La trong 5 năm gần đây
2011,2012,2013, 2014, 6 tháng đầu năm 2015.
3. Phương pháp nghiên cứu
3
- Phương pháp luận nghiên cứu: Dựa trên phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Phương pháp nghiên cứu chung: sử dụng phương pháp thống
kê, phân tích, tổng hợp so sánh trong quá trình thực hiện luận văn.
- Phương pháp thu thập dữ liệu
+ Thu thập dữ liệu thứ cấp: thu thập dữ liệu từ các báo cáo đã
được công bố của NH TMCP ĐT&PT Sơn La, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Hiệp hội thẻ ngân hàng Việt Nam, các cơ quan
thống kê của Nhà nước, các công trình khoa học đã được công bố…
+ Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp: sử dụng phương pháp
điều tra qua bảng hỏi và phỏng vấn
- Phương pháp xử lý dữ liệu: sử dụng phần mềm Excel trong xử
lý dữ liệu, xây dựng các biểu.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận về dịch vụ thẻ và phát
triển dịch vụ thẻ của ngân hàng thương mại, đánh gíá thực trạng
phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam Chi nhánh Sơn La, luận văn nhằm tới mục đích
đề xuất các giải pháp hợp lý phát triển dịch vụ thẻ phù hợp với
chiến lược phát triển của Ngân hàng.
5. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tính đến nay, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa
học liên quan đến nội dung phát triển dịch vụ thẻ của NHTM, cụ thể
như:
- Luận án tiến sỹ:“Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ tại các ngân
hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam” của tác giả Hoàng Tuấn
4
Linh đã bảo vệ thành công tại Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước
tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2008. Luận án đã hệ
thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ thẻ của ngân
hàng thương mại, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ
thẻ tại các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Tác giả đã đề xuất giải pháp và một số kiến nghị
nhằm phát triển dịch vụ thẻ tại các ngân hàng thương mại nhà nước
Việt Nam. Kết luận và các giải pháp của luận án đã dự báo được sự
phát triển đa dạng của các sản phẩm thẻ cũng như tốc độ phát triển
nhanh của thị trường thẻ hiện nay. Luận án đã tìm ra được các giải
pháp chung để thúc đẩy hình thức thanh toán thẻ, phù hợp với chiến
lược phát triển của Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt
Nam.
- Luận văn thạc sĩ: “Phát triển thị trường thẻ ngân hàng tại
Việt Nam” của tác giả Đặng Thị Phương Uyên thực hiện năm 2013
– Trường đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đã khái
quát tình hình thực tế phát hành và thanh toán thẻ ở Việt Nam, hệ
thống hoá những vấn đề lý luận liên quan đến sự ra đời và phát triển
của hình thức thanh toán thẻ trong hệ thống các dịch vụ thanh toán
mà hệ thống ngân hàng cung cấp. Luận văn phân tích, đánh giá thực
trạng và tìm ra nguyên nhân tồn tại trong hoạt động thanh toán thẻ
ngân hàng ở Việt Nam. Bên cạnh đó, đã đề xuất các giải pháp nhằm
phát triển hình thức thanh toán thẻ ngân hàng ở Việt Nam trong thời
gian tới.
- Bài viết:“Thanh toán bằng thẻ ngân hàng: Xu hướng trên thế
giới và thực tiễn tại Việt Nam” của ThS. Đỗ Thị Lan Phương đăng
trên Tạp chí tài chính số 7/2014. Bài viết đã khái quát phương thức
5
TTKDTM ở trên thế giới hiện nay, trong đó thanh toán bằng thẻ
ngân hàng là một phương thức quan trọng, chủ yếu. Từ đó, tác giả
đưa ra giải pháp đẩy mạnh phương thức TTKDTM nói chung và
thanh toán bằng thẻ ngân hàng nói riêng thông qua việc đưa ra một
chính sách phí hợp lý liên quan đến việc sử dụng thẻ nhằm khuyến
khích nhiều cá nhân tham gia vào sử dụng thẻ thanh toán; tiếp tục
đẩy mạnh số lượng POS phục vụ cho nhu cầu thanh toán hàng ngày
của người dân.
- Bài viết: “Phương hướng và giải pháp thanh toán bằng thẻ
ngân hàng trong khu vực dân cư ở Việt Nam đến năm 2020” của
PGS.TS. Lê Đình Hợp tại Kỷ yếu các công trình khoa học ngành
Ngân hàng, thực hiện năm 2010. Bài viết đã phân tích thực trạng
thanh toán bằng thẻ ngân hàng của Việt Nam từ năm 2005 đến năm
2010, từ đó đưa ra một số hạn chế của hoạt động này và đi sâu tìm
hiểu các nguyên nhân của hạn chế. Cuối cùng, để thực hiện vai trò
quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, trong đó có tổ chức
thanh toán tác giả đã xây dựng và đề xuất một số kiến nghị nhằm
khắc phục hạn chế và phát triển dịch vụ thanh toán bằng thẻ ngân
hàng tại các NHTM của Việt Nam.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập
ở trên chủ yếu tập trung vào nghiên cứu về lý luận về thẻ thanh toán
và kinh doanh dịch vụ thẻ, chưa công trình nào đề cập một cách hệ
thống về dịch vụ thẻ tại Ngân hàng ….. Do đó, đề tài “Phát triển
dịch vụ thẻ thanh toán tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam - Chi nhánh Sơn La” sẽ nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn
trong hoạt động kinh doanh dịch vụ thẻ thanh toán của đơn vị.
6
Hơn nữa, mặc dù đã có những công trình nghiên cứu liên quan
nhưng do thực tế chính sách phát triển các sản phẩm thẻ phải phù
hợp với với điều kiện và mục tiêu của từng NHTM; đồng thời môi
trường kinh doanh của ngành ngân hàng cũng luôn có những thay
đổi. Vì vậy, đề tài này vẫn mang tính cần thiết.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục
các chữ viết tắt và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3
chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về dịch vụ thẻ và phát triển dịch vụ
thẻ thanh toán của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Sơn
La
Chương III: Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ thanh toán tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Sơn
La.
7
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ THẺ VÀ PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ THẺ THANH TOÁN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Dịch vụ thẻ của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm thẻ ngân hàng
Tùy thuộc vào từng góc độ nghiên cứu, có rất nhiều quan điểm
khác nhau về thẻ ngân hàng.
Trên phương diện tổng quát, thẻ là danh từ chỉ một vật nhỏ gọn,
chứa đựng các thông tin nhằm sử dụng vào một hoặc một số mục
đích nào đó. Do vậy, thẻ sẽ được gắn với những tính chất, đặc điểm,
nội dung riêng biệt để trở thành một loại thẻ cụ thể như thẻ tín dụng,
thẻ ghi nợ...
Trên góc độ của tổ chức phát hành, thẻ ngân hàng là phương
tiện thanh toán do tổ chức phát hành thẻ phát hành và cấp cho chủ
thẻ để thực hiện giao dịch thanh toán, rút tiền mặt, thực hiện các
dịch vụ khác theo các điều kiện và điều khoản thanh toán được hai
bên thỏa thuận.
Trên góc độ của tổ chức thanh toán, thẻ ngân hàng là một
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt mà chủ thẻ có thể sử
dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán chi phí mua hàng hóa, dịch vụ
tại các điểm chấp nhận thẻ.
Theo quan điểm của Ngân hàng Nhà nước Việt nam tại Quy
chế Phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ
8
hoạt động thẻ ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số
20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc NHNN “Thẻ
ngân hàng là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để
thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các
bên thoả thuận”.
Tóm lại, thẻ là một trong những phương tiện thanh toán không
dùng tiền mặt, ra đời từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và
phát triển gắn liền với việc ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng. Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán mà người
sở hữu có thể dùng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay rút tiền
mặt tại các máy rút tiền tự động thông qua máy đọc thẻ được lắp đặt ở
các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ (cửa hàng, khách sạn, sân bay...)
hay ở các máy rút tiền tự động lắp đặt nơi công cộng.
Thẻ dù do bất cứ tổ chức nào phát hành đều được làm bằng
Plastic theo kích cỡ chuẩn quốc tế là 8,5cm x 5,5cm x 0,07cm và ít
nhất phải có đủ các yếu tố sau:
- Mặt trước thẻ gồm:
+ Nhãn hiệu thương mại của thẻ;
+ Tên và logo của đơn vị phát hành thẻ;
+ Số thẻ và tên chủ thẻ.
- Mặt sau thẻ gồm:
+ Dải băng từ chứa các thông tin được mã hóa theo một tiêu
chuẩn thống nhất như: số thẻ, ngày hết hạn, các yếu tố kiểm tra an
toàn khác...
+ Ô chữ ký dành cho chủ thẻ
9
Ngoài ra thẻ còn có thêm một số yếu tố khác tùy theo quy định
của Tổ chức thẻ quốc tế hoặc các hiệp hội phát hành thẻ.
1.1.2. Phân loại thẻ ngân hàng
Theo từng tiêu thức khác nhau thẻ được chia thành nhiều loại.
Tuy nhiên, việc phân loại chỉ mang tính tương đối, chủ yếu để thuận
tiện cho công tác phân tích. Có thể phân loại thẻ dựa trên một số
tiêu thức sau:
▪ Căn cứ vào bản chất thanh toán: có bốn loại:
- Thẻ ghi nợ (Debit Card): là loại thẻ mà chủ thẻ được chi tiêu
trong phạm vi số dư TKTG thanh toán của mình tại tổ chức phát
hành thẻ. Để sử dụng thẻ này, chủ thẻ phải có một TKTG ngân
hàng. Khi rút tiền tại ATM hay thanh toán tại các ĐVCNT, giá trị
của những giao dịch này lập tức được trừ vào số dư TKTG của chủ
thẻ. Do đó, chủ thẻ không phải mở tài khoản đảm bảo thanh toán thẻ
mà sử dụng dựa trên số dư TKTG hoặc hạn mức thấu chi mà ngân
hàng cho phép.
Thẻ ghi nợ gồm 2 loại sau:
+ Thẻ online: là loại thẻ ghi nợ mà giá trị của những giao dịch
lập tức được khấu trừ và TKTG của chủ thẻ.
+ Thẻ offline: là loại thẻ ghi nợ mà giá trị của những giao dịch
sau nhiều ngày mới được khấu trừ vào TKTG của chủ thẻ.
- Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến
nhất hiện nay. Khi sử dụng thẻ này, chủ thẻ được cấp một hạn mức
tín dụng nhất định để chi tiêu tại những ĐVCNT. Hạn mức tín dụng
do ngân hàng đưa ra căn cứ vào uy tín và khả năng đảm bảo chi trả
10
của khách hàng. Khả năng đảm bảo được xác định dựa trên tình
hình thu nhập, tình hình chi tiêu, tài khoản bảo đảm, địa vị xã hội…
của khách hàng. Đây là một phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt giúp người sử dụng có thể chi tiêu trước, trả tiền sau. Định
kỳ, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê từ ngân hàng. Chủ thẻ phải thanh
toán số tiền đã chi tiêu mà không phải trả lãi. Tuy nhiên nếu thanh
toán không đúng hạn, chủ thẻ sẽ phải chịu phí suất chậm trả và các
loại phí khác. Sau khi thanh toán đủ số tiền phải trả, ngân hàng sẽ
khôi phục HMTD cho chủ thẻ. Điều này tạo nên tính tuần hoàn, là
đặc tính ưu việt của thẻ tín dụng.
- Thẻ trả trước (Prepaid card, Cash Card, e-purse): là loại thẻ
mới được phát triển trên thế giới, khách hàng không cần làm các thủ
tục phát hành thẻ mà chỉ cần trả cho ngân hàng một số tiền sẽ được
ngân hàng cấp cho một tấm thẻ mệnh giá tương đương. Đặc tính của
thẻ này giống như các loại thẻ bình thường khác, tuy nhiên thẻ chỉ
được tiêu trong giới hạn số tiền có trong thẻ và một khoảng thời gian
nhất định tùy theo ngân hàng phát hành, tức là hạn mức của thẻ này
không có tính tuần hoàn.
- Thẻ thanh toán trả sau (Charge Card): là loại thẻ du lịch và
giải trí (Travel and Entertainment Card) của các công ty như
American Express, Diners Club… các tổ chức phi ngân hàng phát
hành; đơn vị phát hành thẻ sẽ tham gia giải quyết trực tiếp mọi giao
dịch giữa chủ thẻ và ĐVCNT; là loại thẻ không quy định trước hạn
mức chi tiêu, cuối tháng khách hàng sẽ phải thanh toán theo bảng kê
thông báo tài khoản.
11
Việc xác định loại thẻ theo tính chất nguồn thanh toán cũng là
một yếu tố giúp ngân hàng lựa chọn đối tượng khách hàng phù hợp
với chiến lược kinh doanh của mình. Căn cứ vào phân đoạn thị
trường và thị hiếu khách hàng, ngân hàng sẽ lựa chọn những loại thẻ
phù hợp để phát triển.
▪ Căn cứ vào đặc tính kỹ thuật
- Thẻ từ (Magnetic Stripe): là loại thẻ mặt sau có một dải băng từ
chia các rãnh (track) để ghi các thông tin về chủ thẻ và các thông tin
cần thiết khác. Hiện nay thẻ ghi nợ nội địa của các ngân hàng Việt
nam chủ yếu là thẻ từ. Ưu điểm của thẻ từ là giá thành rẻ, công nghệ
sản xuất và cá thể hoá thẻ không quá phức tạp, phù hợp thị trường
Việt nam. Tuy nhiên, thẻ từ có độ bảo mật không cao, kẻ gian có thể
lợi dụng đặt các thiết bị ăn cắp thông tin trên thẻ, trên rãnh từ tạo ra
thẻ giả và các giao dịch giả mạo.
- Thẻ thông minh (Smart card, Chip card): là loại thẻ được sản
xuất dựa trên công nghệ vi xử lý. Mặt trước của thẻ có gắn một
Chip điện tử như một máy tính thu nhỏ. Các giao dịch thẻ được xử
lý ngay trên Chip. Đây là công nghệ sản xuất thẻ tiên tiến và hiện
đại, an toàn, giúp giảm lượng thẻ giả mạo do đặc tính công nghệ
cao, khó làm giả và đặc biệt có thể tích hợp nhiều chức năng khác
lên chip, từ đó làm nên một loại thẻ đa năng như chức năng của
chứng minh thư, vé giao thông, các chương trình khách hàng thân
thiết.. Tuy nhiên, hiện nay giá thành sản xuất thẻ chip khá cao và
công nghệ sản xuất thẻ phức tạp, các thiết bị chấp nhận thẻ phải
nâng cấp để chấp nhận được thẻ chip vì vậy hiện mới chỉ có một số
12
ít các ngân hàng Việt nam đang trong quá trình nghiên cứu và phát
hành thử nghiệm thẻ Chip.
- Thẻ Chip theo chuẩn EMV (Europay, Master card, Visa card):
đây là loại thẻ chip tuân theo tiêu chuẩn do các tổ chức thẻ quốc tế
lớn đưa ra. Hiện nay, các tổ chức thẻ lớn như Visa card, Master card
đều có khuyến nghị các ngân hàng phải chuyển sang phát hành thẻ
Chip để đảm bảo an toàn, rủi ro sẽ chuyển từ tổ chức phát hành sang
tổ chức thanh toán nếu NHTT không hỗ trợ giao dịch bằng thẻ chip.
Trong giai đoạn chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip các ngân hàng có
thể phát hành thẻ vừa có dải từ mặt sau vừa có Chip ở mặt trước để
tạo điều kiện thanh toán cho các chủ thẻ.
- Thẻ không tiếp xúc (Contact less): là loại thẻ phát triển dựa trên
công nghệ thẻ Chip, việc thanh toán thẻ thực hiện thông qua việc đưa
thẻ tới gần các thiết bị thu phát và không cần quẹt thẻ (đối với thẻ từ)
hoặc đưa thẻ vào thiết bị đọc (thẻ chip). Trên thẻ không tiếp xúc có
gắn ăngten để thu phát sóng từ thiết bị chấp nhận thẻ, thẻ không tiếp
xúc sẽ giúp tiết kiệm đáng kể thời gian thực hiện giao dịch thanh
toán.
▪ Căn cứ theo phạm vi sử dụng thẻ
- Thẻ nội địa (Local Card) có hai loại:
Local use only card: là loại thẻ do Tổ chức tài chính hoặc ngân
hàng trong nước phát hành, chỉ được sử dụng trong nội bộ hệ thống Tổ
chức đó.
Domestic use only card: là thẻ thanh toán mang thương hiệu của
Tổ chức thẻ quốc tế được phát hành để sử dụng trong nước.
13
- Thẻ quốc tế (International Card): là loại thẻ không chỉ dùng tại
quốc gia thẻ được phát hành mà còn được sử dụng trên phạm vi
quốc tế. Thẻ quốc tế sử dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán do đó
được hỗ trợ và quản lý trong một hệ thống thống nhất, đồng bộ trên
toàn thế giới bởi những tổ chức tài chính, công ty điều hành lớn như
MasterCard, Visa Card, Amex, JCB, …
▪ Căn cứ theo chủ thể phát hành thẻ:
- Thẻ do ngân hàng phát hành: là loại thẻ giúp cho khách hàng
sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng
một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng, loại thẻ này hiện nay được
sử dụng khá phổ biến, nó không chỉ lưu hành trong một quốc gia mà
còn có thẻ lưu hành trên toàn cầu (ví dụ như: thẻ Visa, Mastercard,
…).
- Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch
và giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành như Diners
Club, Amex… và cũng lưu hành trên toàn cầu.
- Thẻ liên kết (Co-brand name): là sản phẩm thẻ ngân hàng được
phát hành thông qua sự liên kết giữa một ngân hàng hay công ty tài
chính với một chủ thể thương mại. Thẻ liên kết mang lại lợi thế cho
cả NHPH, đối tác liên kết và chủ thẻ. Sử dụng sản phẩm thẻ liên kết
khách hàng sẽ vừa nhận được ưu đãi từ NHPH, vừa từ phía đối tác
liên kết. Các ngân hàng có thể đưa ra các ưu đãi về phí, lãi suất, thời
gian ân hạn… Các đối tác có thể đưa ra các ưu đãi về giảm giá,
khuyến mại, chương trình điểm thưởng.
▪ Căn cứ theo góc độ chủ thể sử dụng thẻ:
14
- Thẻ cá nhân: thẻ phát hành theo đề nghị của cá nhân đủ điều
kiện năng lực hành vi dân sự, tài khoản liên kết thẻ là tài khoản của
cá nhân đề nghị phát hành thẻ.
- Thẻ Công ty: thẻ phát hành cho nhân viên của một công ty sử
dụng nhằm mục đích giúp công ty quản lý chặt chẽ việc chi tiêu của
các công ty, phục vụ cho công ty trong kinh doanh. Thẻ công ty liên
kết đến tài khoản mang tên công ty đề nghị phát hành.
1.1.3. Dịch vụ thẻ và các chủ thể tham gia dịch vụ thẻ của ngân
hàng thương mại
Dịch vụ thẻ của ngân hàng thương mại là việc ngân hàng thương
mại cung cấp các sản phẩm thẻ do tổ chức phát hành hoặc thực hiện
các dịch vụ thanh toán thẻ theo quy định của pháp luật. Ngân hàng
thương mại đóng vai trò là tổ chức phát hành thẻ hoặc/và tổ chức
thanh toán thẻ trong quá trình cung ứng dịch vụ.
Các chủ thể tham gia trong dịch vụ thẻ ngân hàng thương mại
bao gồm: tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ, chủ thẻ và
các đơn vị chấp nhận thẻ. Đối với thẻ quốc tế còn thêm một thành
phần nữa là các tổ chức thẻ quốc tế. Mỗi chủ thể đóng vai trò quan
trọng khác nhau trong việc phát huy tối đa tính năng phương tiện
thanh toán hiện đại không dùng tiền mặt của thẻ ngân hàng.
Tổ chức thẻ quốc tế là đơn vị đứng đầu quản lý mọi hoạt động
và thanh toán thẻ trong mạng lưới của mình. Đây là hiệp hội các tổ
chức tài chính, tín dụng lớn có mạng lưới hoạt động rộng khắp và
đạt được sự nổi tiếng với thương hiệu và sản phẩm đa dạng như: tổ
chức thẻ Visa, tổ chức thẻ MasterCard, công ty thẻ American
15
Express, công ty thẻ JCB, công ty thẻ Diners Club, công ty
Mondex…. Tổ chức thẻ quốc tế đưa ra những quy định cơ bản về
hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung
gian giữa các tổ chức và các công ty thành viên trong việc điều
chỉnh và cân đối các lượng tiền thanh toán giữa các công ty thành
viên.
Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT) là ngân hàng, tổ chức tín
dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức khác không
phải là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Trung ương (NHTW) cho
phép thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ mang thương hiệu riêng
hoặc được tổ chức thẻ quốc tế, công ty thẻ trao quyền phát hành thẻ
mang thương hiệu của những tổ chức và công ty này. Tổ chức phát
hành thẻ phải có năng lực tài chính, không vi phạm pháp luật, đảm
bảo hệ thống trang thiết bị phù hợp tiêu chuẩn an toàn cho hoạt
động phát hành và thanh toán thẻ, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực
chuyên môn để vận hành và quản lý. Tổ chức phát hành là tổ chức
có tên in trên thẻ thể hiện đó là sản phẩm của mình.
Tổ chức phát hành thẻ quy định các điều khoản, điều kiện sử
dụng thẻ đối với khách hàng. Ngân hàng có quyền ký kết hợp đồng
đại lý với bên thứ ba là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính
tín dụng khác trong việc thanh toán và phát hành thẻ tín dụng.
Trong trường hợp này, tổ chức phát hành tận dụng được ưu thế của
bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm nhập thị trường và
những ưu thế về vị trí địa lý. Tuy nhiên cũng phải chịu chấp nhận
rủi ro về tài chính bởi ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho bên thứ ba
16
làm ngân hàng đại lý của mình trong việc phát hành thẻ. Bên thứ ba
khi ký kết hợp đồng đại lý với tổ chức phát hành được gọi là ngân
hàng đại lý phát hành. Nếu tên của ngân hàng đại lý xuất hiện trên
tấm thẻ của khách hàng thì nhất thiết ngân hàng đại lý đó phải là
thành viên chính thức của tổ chức thẻ hoặc công ty thẻ quốc tế.
Tổ chức thanh toán thẻ (TCTTT) là ngân hàng, tổ chức được
phép thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ ngân hàng, làm chức năng
trung gian thanh toán giữa tổ chức phát hành thẻ và chủ thẻ. Tổ
chức thanh toán thẻ qua mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ
(ĐVCNT) đã ký kết hợp đồng thanh toán thẻ. Tổ chức thanh toán sẽ
cung cấp cho các ĐVCNT thiết bị phục vụ cho việc thanh toán thẻ,
hướng dẫn đơn vị cách thức vận hành, chấp nhận thanh toán thẻ
cũng như quản lý và xử lý những giao dịch thẻ tại các đơn vị này.
Thông thường, tổ chức thanh toán sẽ thu từ các ĐVCNT một mức
phí chiết khấu cho việc chấp nhận thanh toán thẻ của đơn vị, có thể
tính phần trăm trên giá trị mỗi giao dịch hoặc tính theo tổng giá trị
giao dịch thẻ. Mức chiết khấu cao hay thấp phụ thuộc vào từng ngân
hàng và vào mối quan hệ chiến lược của ngân hàng với ĐVCNT.
Trên thực tế, rất nhiều ngân hàng vừa là tổ chức phát hành vừa là
tổ chức thanh toán thẻ. Với tư cách là ngân hàng phát hành, khách
hàng của họ là chủ thẻ còn với tư cách là tổ chức thanh toán, khách
hàng là các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ có ký kết hợp đồng
chấp nhận thẻ.
Chủ thẻ: Chủ thẻ là những cá nhân hoặc người được uỷ quyền
(nếu là thẻ do công ty uỷ quyền sử dụng) được tổ chức phát hành
17
thẻ, có tên in nổi trên thẻ và sử dụng thẻ theo những điều khoản,
điều kiện ngân hàng quy định. Chủ thẻ chính là cá nhân hoặc tổ
chức đứng tên thỏa thuận về việc sử dụng thẻ với tổ chức phát hành
thẻ và có nghĩa vụ thực hiện thỏa thuận đó. Chủ thẻ phụ là cá nhân
được chủ thẻ chính cho phép sử dụng thẻ theo thỏa thuận về việc sử
dụng thẻ giữa chủ thẻ chính và tổ chức phát hành thẻ. Chủ thẻ phụ
chịu trách nhiệm về việc sử dụng thẻ với chủ thẻ chính. Theo quy
định, mỗi chủ thẻ chính có thể phát hành thêm thẻ phụ, cả thẻ chính
và thẻ phụ cùng chi tiêu chung một tài khoản. Chủ thẻ phụ cũng có
trách nhiệm thanh toán các khoản phát sinh trong kỳ nhưng chủ thẻ
chính là người có trách nhiệm thanh toán cuối cùng đối với ngân
hàng. Chủ thẻ sử dụng thẻ của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ
tại các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ có chấp nhận thẻ, các điểm
ứng tiền mặt thuộc hệ thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực
hiện các giao dịch tại máy rút tiền tự động. Đối với thẻ tín dụng,
sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo quy định của từng
ngân hàng phát hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê. Sao kê là bảng
thông báo chi tiết các giao dịch chi tiêu sử dụng thẻ của chủ thẻ
trong kỳ sao kê, số dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán cũng
như số tiền thanh toán tối thiểu mà khách hàng phải thanh toán
trong kỳ cho ngân hàng và các thông báo liên quan đến việc sử
dụng thẻ. Căn cứ vào các thông tin trên sao kê, nếu không có gì
thắc mắc, chủ thẻ sẽ thực hiện việc thanh toán sao kê cho tổ chức
phát hành thẻ, ngược lại chủ thẻ có quyền khiếu nại đối với các
thông tin, các giao dịch không chính xác hoặc không thực hiện gửi
18
tới ngân hàng yêu cầu được giải đáp.
Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT): Là tổ chức, cá nhân chấp
nhận thanh toán hàng hoá và dịch vụ, cung cấp dịch vụ nạp, rút
tiền mặt bằng thẻ. Các ngành kinh doanh của các ĐVCNT trải
rộng từ những cửa hiệu bán lẻ đến các nhà hàng ăn uống, khách
sạn, sân bay…Tại nhiều nước trên thế giới, khi thẻ ngân hàng đã
trở thành một phương thức thanh toán thông dụng, chúng ta có thể
nhìn thấy những biểu trưng của thẻ xuất hiện rộng rãi tại các cửa
hàng. Ở Việt Nam, các ĐVCNT tập trung chủ yếu tại các ngành
hàng, dịch vụ phục vụ cho người nước ngoài như hàng thủ công
mỹ nghệ, nhà hàng, khách sạn, du lịch, các đại lý bán vé máy bay.
Mặc dù phải trả cho tổ chức thanh toán một tỷ lệ phí chiết khấu
nhất định nhưng thông qua đó các ĐVCNT thu hút được một khối
lượng khách hàng lớn, bán được nhiều hàng hơn, góp phần nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như lợi nhuận của đơn vị.
Để trở thành ĐVCNT của một ngân hàng nhất thiết đơn vị đó
phải có tình hình tài chính tốt và có năng lực kinh doanh. Cũng như
các tổ chức phát hành thẩm định khách hàng trước khi phát hành
thẻ, tổ chức thanh toán cũng tiến hành đánh giá lựa chọn ĐVCNT.
Chỉ có những đơn vị có hiệu quả kinh doanh cao, có khả năng thu
hút được nhiều giao dịch thanh toán thẻ thì ngân hàng mới có thể
thu hồi được vốn đầu tư cho các đơn vị đó và có lãi.
Ngoài ra, tham gia dịch vụ thẻ còn có một số chủ thể khác đó
là Ngân hàng Trung ương (NHTW) - cơ quan quản lý nhà nước về
lĩnh vực tài chính ngân hàng nói chung. Nhiệm vụ chủ yếu của
19
NHTW là đưa ra các văn bản pháp quy có liên quan, tiếp nhận hồ
sơ, xem xét và cho phép các NHTM phát hành thẻ, kiểm tra và giám
sát hoạt động của các ngân hàng đảm bảo không trái pháp luật, tạo
sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thẻ thanh toán. Bên cạnh
đó, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bù trừ giao dịch thẻ là
tổ chức trung gian thực hiện việc trao đổi dữ liệu bằng điện tử hoặc
bằng chứng từ và bù trừ các nghĩa vụ tài chính phát sinh từ các giao
dịch thẻ cho các TCPHT, TCTTT và ĐVCNT theo thoả thuận bằng
văn bản giữa các bên liên quan.
1.2. Phát triển dịch vụ thẻ của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm phát triển dịch vụ thẻ
Ngân hàng là một dạng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền tệ,
bản thân hoạt động ngân hàng không trực tiếp tạo ra sản phẩm cụ
thể nhưng với việc đáp ứng nhu cầu của dịch vụ về tiền tệ, về vốn,
về thanh toán… cho khách hàng, ngân hàng đã gián tiếp tạo ra các
sản phẩm dịch vụ trong nền kinh tế. Phát triển dịch vụ là một khái
niệm khá đa dạng, khái niệm về phát triển một sản phẩm dịch vụ
ngân hàng lại càng phức tạp hơn vì tính tổng hợp, đa dạng và nhạy
cảm của hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Phát triển dịch vụ thẻ là một trong những mảng dịch vụ được
quan tâm hàng đầu hướng tới đối tượng khách hàng cá nhân trong
chiến lược phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ của các ngân hàng
thương mại. Đứng trên góc độ thỏa mãn nhu cầu khách hàng, có thể
hiểu “Phát triển dịch vụ thẻ là việc gia tăng các tính năng, công
dụng của thẻ, đa dạng hóa các sản phẩm thẻ, củng cố hệ thống
20
thanh toán thẻ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng như tăng
khả năng cạnh tranh cho ngân hàng trên thị trường.”
1.2.2. Sự cần thiết của phát triển dịch vụ thẻ trong phát triển kinh
tế xã hội
1.2.2.1. Đối với nền kinh tế xã hội
Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông: Là một phương tiện
thanh toán không dùng tiền mặt, vai trò đầu tiên của thẻ là làm giảm
khối lượng tiền mặt trong lưu thông.
Tăng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh
tế: Hầu hết mọi giao dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu
đều được thực hiện qua hệ thống máy móc điện tử và thanh toán
trực tuyến, vì vậy tốc độ chu chuyển, thanh toán nhanh hơn nhiều so
với những giao dịch qua các phương tiện thanh toán khác như: séc,
uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi…
Góp phần thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước: Sử
dụng thanh toán qua thẻ Ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát được
mọi giao dịch, tạo nền tảng cho công tác quản lý thuế của nhà nước,
góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngoài ra, thẻ còn
góp phần cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách
du lịch và đầu tư nước ngoài.
1.2.2.2. Đối với ngân hàng
Lợi nhuận ngân hàng: Lợi ích lớn nhất mà thẻ đem lại cho ngân
hàng phát hành và thanh toán thẻ là lợi nhuận. Dịch vụ thẻ mang lại
cho Ngân hàng nhiều nguồn thu khác nhau bao gồm: Phí phát hành
- khoản phí mà chủ thẻ phải trả cho ngân hàng để sử dụng thẻ, phí
21
rút tiền mặt, chuyển khoản tại các thiết bị chấp nhận thẻ, phí thường
niên thẻ, phí trong sử dụng thẻ như phí kích hoạt thẻ, phí liên kết
thẻ…. Đối với thẻ tín dụng, ngân hàng còn thu được lãi tín dụng
tính trên số tiền quá hạn thanh toán của khách hàng, các khoản phí
liên quan đến thẻ tín dụng như phí cấp hạn mức tín dụng tạm thời,
phí tra soát, phí cấp lại thẻ…
Ngân hàng thanh toán thẻ còn thu được khoản thu chiết khấu
thương mại phát sinh trên doanh số thanh toán tại các ĐVCNT.
Tăng nguồn vốn cho ngân hàng: Khi phát triển dịch vụ thẻ đồng
nghĩa với việc số lượng tài khoản thanh toán của cá nhân và
ĐVCNT tăng lên, nguồn tiền gửi thanh toán duy trì trên các tài
khoản này sẽ tạo cho Ngân hàng một lượng vốn đáng kể có chi phí
thấp.
Tăng kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng: Việc phát
triển hệ thống máy ATM/POS là phát triển kênh phân phối cho ngân
hàng. Kênh phân phối này không bị hạn chế giờ làm việc và có thể
cung cấp dịch vụ ngân hàng 24/24h, giúp khách hàng giao dịch
nhanh chóng, giảm bớt giao dịch tại quầy ngân hàng
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng: Dịch vụ thẻ phát
triển giúp ngân hàng phát huy thêm một mảng dịch vụ để cạnh
tranh, càng nhiều khách hàng sử dụng thẻ ngân hàng càng có cơ hội
gia tăng uy tín, thương hiệu đồng thời tạo cơ sở để củng cố các sản
phẩm dịch vụ khác.
Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng: Phát triển dịch vụ thẻ dựa
trên nền tảng công nghệ đòi hỏi ngân hàng không ngừng nâng cao
22
trình độ công nghệ, tính hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật nhằm
cũng cấp cho khách hàng điều kiện tốt nhất trong thanh toán, đảm
bảo uy tín, an toàn, hiệu quả trong hoạt động của Ngân hàng.
Mở rộng và quản lý quan hệ khách hàng: Hoạt động dịch vụ thẻ
góp phần tạo ra cho Ngân hàng những đối tác lâu dài và mang tính
ổn định cao vì khi hợp đồng thẻ được ký kết sẽ gắn Ngân hàng với
khách hàng sử dụng thẻ cũng như cơ sở chấp nhận thẻ. Bên cạnh đó,
bằng việc mở rộng quan hệ liên minh kinh doanh với các nhà cung
cấp hàng hóa dịch vụ khác thông qua phát hành thẻ liên kết, Ngân
hàng có thể thu hút thêm một lượng khách hàng lớn.
- Dịch vụ toàn cầu và đạt hiệu quả cao trong thanh toán: Là
thành viên của một TCTQT như Visa hay MasterCard, một Ngân
hàng dù là nhỏ nhất trên thế giới cũng có thể cung cấp cho khách
hàng một phương tiện thanh toán quốc tế có chất lượng như bất cứ
đối thủ cạnh tranh lớn nào. Khả năng cung cấp dịch vụ toàn cầu tạo
điều kiện cho Ngân hàng tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, hội
nhập với cộng đồng quốc tế.
1.2.2.3. Đối với chủ thẻ
Thẻ mang lại sự linh hoạt và tiện lợi đối với thanh toán trong và
ngoài nước: Việc sử dụng thẻ đã hạn chế tối đa những rủi ro có thể
xảy ra do việc sử dụng tiền mặt đem lại. Chủ thẻ có thể thanh toán
tại bất kỳ nơi nào mà không cần mang theo tiền mặt. Đối với những
loại thẻ quốc tế được chấp nhận trên toàn thế giới, thay vì phải
chuẩn bị trước một lượng ngoại tệ hay séc du lịch, chủ thẻ có thể
mang theo thẻ để thanh toán cho mọi nhu cầu chi tiêu của mình.
23
Tiết kiệm thời gian mua: Sử dụng thanh toán bằng thẻ, tài khoản
của thẻ chỉ bị ghi nợ khi nào chủ thẻ thực sự chi tiêu và thanh toán
bằng thẻ. Điều này không những giúp người sử dụng thẻ tận dụng
chi phí cơ hội của tiền mà còn giúp họ tiết tiệm thời gian mua hàng
cũng như thời gian chờ làm các thủ tục với séc du lịch hay tiền mặt,
hạn chế được rủi ro.
Khoản tín dụng tự động, tức thời (đối với Thẻ tín dụng hoặc Thẻ
ghi nợ được thấu chi): Khả năng mua hàng không bị gò bó là một
tiện ích của thẻ. Do mọi người có tâm lý ngại đến ngân hàng làm
thủ tục vay và họ sẽ đánh giá cao thẻ như là một khoản tín dụng
ngắn hạn, thủ tục phát hành đơn giản. Hơn thế nữa, chủ thẻ chỉ phải
thanh toán một phần khi đến hạn thanh toán, số còn lại chủ thẻ có
thể trả sau và chịu lãi suất tín dụng tiêu dùng hiện hành.
Kiểm soát được chi tiêu: Chủ thẻ có thể rút tiền mặt một cách
nhanh chóng ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào tại ngân hàng hoặc
qua các máy ATM và sử dụng một số dịch vụ khác do ngân hàng
cung cấp như: trả nợ vay, chuyển khoản, xem số dư …trên ATM.
Với sao kê tài khoản hàng tháng do ngân hàng gửi đến, chủ thẻ hoàn
toàn có thể kiểm soát được chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời
tính toán được phí và lãi phải trả cho mỗi khoản giao dịch.
Ngoài ra, thẻ được chế tạo dựa trên kỹ thuật mã hóa từ tính và hiện
đại nhất là công nghệ sử dụng các vi mạch điện tử nên khó làm giả, độ
an toàn cao. Thẻ có kích thước nhỏ gọn do đó chủ thẻ có thể dễ dàng
mang theo người để sử dụng. Khi thanh toán tại các ĐVCNT, chủ thẻ
chỉ cần xuất trình thẻ và ký vào hóa đơn thì coi như việc mua bán đã
24
hoàn tất. Cách thức này vừa nhanh chóng, thuận tiện lại có độ an toàn
cao.
Thêm nữa, chủ thẻ ngày càng được hưởng các chế độ ưu đãi,
thỏa dụng cao như các dịch vụ bảo hiểm, đặt vé máy bay, thanh toán
hóa đơn điện, nước, điện thoại hoặc các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe…
1.2.2.4. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ
Đảm bảo chi trả, tăng doanh số bán hàng hoá, dịch vụ và thu
hút thêm khách hàng: Tài khoản của ĐVCNT được ghi có ngay khi
dữ liệu thanh toán được truyền qua hệ thống máy móc điện tử đến
NHTT, đồng thời tạo ra môi trường văn minh, hiện đại trong giao
dịch, mua bán thu hút khách hàng. Từ đó doanh số cung ứng hàng
hoá dịch vụ của ĐVCNT cũng tăng lên và khả năng cạnh tranh lớn
hơn so với các đối thủ khác.
Nhanh chóng thu hồi vốn, an toàn và tiết kiệm chi phí: Khi dữ
liệu về giao dịch thẻ được truyền đến ngân hàng hoặc ĐVCNT nộp
hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng thì tài khoản của ĐVCNT
được ghi có ngay. Số tiền này họ có thể sử dụng ngay vào mục đích
quay vòng vốn hoặc các mục đích khác. Thêm vào đó thanh toán
bằng thẻ cũng ít có nguy cơ bị mất cắp hơn là séc hay tiền mặt và
giúp ĐVCNT giảm đáng kể các chi phí cho việc kiểm đếm, bảo
quản tiền, quản lý tài chính, nhờ vậy giảm được chi phí bán hàng.
Nhanh chóng giao dịch với khách hàng: Khi giao dịch bằng tiền
mặt hay séc, việc kiểm đếm, ghi chép rất phức tạp, mất thời gian.
25
Còn giao dịch bằng thẻ, đơn giản chỉ việc đưa băng từ của thẻ qua
thiết bị đọc thẻ, mọi thông tin trên thẻ được nhận dạng, giao dịch
được thực hiện. Hệ thống này giúp đẩy nhanh quá trình xử lý khi
bán hàng, giúp ĐVCNT cung cấp cho TCPHT những thông tin về
việc bán hàng mà không phải xử lý thủ công trên giấy tờ.
Tăng doanh số bán hàng: ĐVCNT có thể tăng doanh số bán
hàng do thu hút được nhiều khách hàng và hầu hết có mức chi tiêu
cao. Tổng doanh số bán hàng sẽ cao hơn do trị giá mỗi giao dịch
cao hơn và khách hàng có xu hướng mua sắm nhiều hơn do không
bị giới hạn bởi số tiền mặt mang theo người.
Nâng cao hình ảnh, vị thế của ĐVCNT và tăng khả năng phục
vụ khách hàng: Chấp nhận thanh toán bằng thẻ là cung cấp cho
khách hàng một phương thức thanh toán hiện đại, nhanh chóng, tiện
lợi và khách hàng thấy rõ được tính chuyên nghiệp trong thanh toán
của cơ sở kinh doanh. Do đó khả năng quảng bá hình ảnh, thương
hiệu cũng như khả năng thu hút khách hàng tăng lên.
1.2.2.5. Đối với nền kinh tế
Thanh toán bằng thẻ sẽ làm thay đổi thói quen tiêu dùng tiền mặt
trong dân cư, thông qua đó giảm khối lượng tiền mặt trong lưu
thông, hạn chế nguy cơ lạm phát nền kinh tế. Bên cạnh đó, Ngân
hàng Trung ương sẽ dễ dàng kiểm soát được lượng tiền cung ứng,
tạo hiệu quả trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Phát triển dịch vụ thẻ còn góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh giữa
các ngân hàng nhằm hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng
kinh tế. Cạnh tranh giúp hệ thống ngân hàng vững mạnh, hiệu quả