Tải bản đầy đủ (.doc) (365 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế xã hội tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 365 trang )

1
2.1. Nghiên cứu ở ngoài nước ..............................................................7
2.2. Nghiên cứu ở trong nước................................................................7
32.1. Mục đích.......................................................................................8
32.2. Nhiệm vụ......................................................................................9
3.1. Nghiên cứu ở ngoài nước ............................................................10
3.2. Nghiên cứu ở trong nước..............................................................10
1.1.2.1. Công nghệ thông tin là công nghệ mũi nhọn..........................16
1.1.2.2. Công nghệ thông tin là công nghệ phổ biến trong mọi lĩnh
vực...............................................................................................................17
1.1.2.3. Công nghệ thông tin là một công nghệ có nhiều tầng lớp......17
1.1.2.4. Công nghệ thông tin là lĩnh vực phát triển và đào thải rất
nhanh...........................................................................................................19
Mô hình “Bốn thành phần, ba chủ thể”...............................................21
............................................................................................................21
1.1.3.1. Ứng dụng công nghệ thông tin...............................................22
1.1.3.2. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin ..................................24
1.1.3.3. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin .....................25
1.1.3.4. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin ..........................26
1.1.3.5. Hoàn thiện môi trường pháp lý ..............................................26


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện
và công cụ kỹ thuật hiện đại, chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn
thông, nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin rất phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người và xã hội. CNTT phục vụ trực tiếp cho việc cải


tiến QLNN, nâng cao hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh
và các hoạt động KT - XH khác, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng đời sống xã hội, phúc lợi của nhân dân. (không nên mở đầu
bằng định nghĩa cụ thể như thế này, có thể theo cách sau:)
Trước đây, khi đề cập đến các nguồn tài nguyên cho phát triển,
người ta thường cho rằng, đó là các yếu tố nằm trong 4 chữ M:
Men, Machines, Materials và Money (con người, máy móc, vật liệu
và vốn). Thế nhưng, trong thời đại ngày nay, khi nói đến tài nguyên
phát triển, không thể không nhắc đến yếu tố thứ năm rất quan trọng
đó là thông tin (Information). Sự xuất hiện của yếu tố thứ năm là
thông tin đã tạo ra sự thay đổi lớn mang tính cách mạng về phương
thức làm việc và mô hình phát triển trong thế giới công nghiệp hoá
với yếu tố dẫn đạo là kinh tế tri thức. Khi thông tin đã thực sự trở
thành một lực lượng sản xuất vật chất quan trọng được thừa nhận ở
tất cả các quốc gia, được sử dụng thường xuyên trong các hoạt động


3

kinh tế - xã hội (KT-XH) thì bước chuyển từ xã hội công nghiệp
sang xã hội thông tin sẽ là tất yếu.
Cuộc cách mạng về công nghệ thông tin (CNTT) đang diễn ra
trên quy mô toàn cầu và càng ngày càng đi vào chiều sâu, không
loại trừ bất cứ quốc gia nào. Nó đã và đang tạo ra một bối cảnh cho
sự ra đời của những cái mới. Bởi, "cuộc cách mạng thông tin đang
trên đường tiến tới, đó không đơn thuần chỉ là cuộc cách mạng về
công nghệ, về máy móc, về kỹ thuật, về phần mềmèm hay tốc độ,
mà trước hết đó là cuộc cách mạng về quan niệm, về đổi mới tư
duy" [59, tr.34].
Áp dụng những tiến bộ, những thành tựu ứ

Ngày nay, CNTT là một trong những động lực quan trọng nhất
của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác, nó có
tác dụng làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của
thế giới hiện đại.ng dụng CNTT trong phát triển KT-XH đang là
vấn đề mang tính thời sự. Ứng dụng CNTT để khai thác triệt để mọi
năng lực, thay đổi phương thức quản lý, đổi mới nền sản xuất gần
như là bắt buộc đối với những quốc gia đang phát triển khi bước
vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
Ngay từ thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã có chủ trương vận dụng CNTT trong một số lĩnh vực. BỞ
nước ta, nhất là từ khi bước sang thời kỳ đổi mới, chủ trương ứng
dụng CNTT ấy đã được nhấn mạnh và cụ thể hoá trong nhiều nghị
quyết của Đảng và Chính phủ. Chẳng hạn như:


4

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 30/3/1991 của Bộ Chính trị về
khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới; đă nêu: "Tập trung
sức phát triển một số ngành KHCN mũi nhọn như điện tử, tin
học...."
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khoá VII xác định:
"...Ưvề ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, trong
đó có như CNTT. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ IX nhấn mạnh: "Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các
ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình
vận tải, bưu chính - viễn thông... Sớm phổ cập sử dụng tin học và
Mạng thông tin quốc tế (Internet) trong nền kinh tế và đời sống xã
hội” [20, tr.94].
Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị khoá IX về đẩy mạnh

ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH, đã
xác định rõ:
Ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần
giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân
tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại
hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón
đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH [22, tr.7].


5

Gần đây, Chính phủ Việt Nam đã ký hiệp định khung E-Asian
với mục tiêu chính là: xây dựng cChính phủ điện tử ( CPĐT),
tThương mại điện tử (TMĐT) và cộng đồng điện tử,, có nghĩa là
Việt Namchúng ta đã cam kết đồng thuận triển khai các hoạt động
của hiệp định, từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm thực hiện
mô hình CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử ở Việt Nam. Việc áp
dụng CPĐT, TMĐT, CĐĐT cũng đồng nghĩa với việc phải giải
quyết các vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia và thành lập khung pháp
lý điều chỉnh. Một khi CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử được vận
hành có hiệu quả, các thao tác kỹ thuật được chuẩn hoá và thực hiện
nhanh chóng, như vậythì mức độ chi phối chủ quan của yếu tố con
người vào nhiều khâu của quá trình quản lý sẽ được giảm đáng kể.
Cộng đồng điện tử, TMĐT sẽ bảo đảm phát triển nhanh một xã hội
tri thức, thu hẹp sự khác biệt về kỹ thuật số, sự thông thoáng và hiệu
quả khi người dân được tiếp cận với hệ thống hành chính, luật pháp
và thông tin hiện đại trong nhiều lĩnh vực.

Cũng như các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, trong điều
kiện đổi mới, Vĩnh Phúc chủ trương tiếp tục nâng cao sức cạnh
tranh về thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Cơ sở hạ tầng
về thông tin và trình độ ứng dụng CNTT là một trong những vấn đề
được nhà đầu tư rất quan tâm khi tìm kiếm cơ hội đầu tư. Ngoài ra,
các nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến sự sẵn sàng và tính mau lẹ của
chính quyền địa phương trong việc giải quyết vướng mắc cho doanh
nghiệp. Ứng dụng, CNTT và vận hành có hiệu quả CPĐT, TMĐT,
cộng đồng điện tử sẽ làm tăng sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu


6

tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, mặt bằng CNTT
của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay vẫn ở trình độ thấp kém, phát triển
chậm, có nguy cơ khôngchưa đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, tụt
hậu xa hơn so với các nhiều địa phương và khu vựckhác. Có thể liệt
kê những vấn đề tồn tại sau đây ở Vĩnh PhúcĐó là: ứng dụng CNTT
chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình CNH, HĐH và yêu cầu về
hội nhập khu vực và quốc tế; vai trò động lực và tiềm năng to lớn
của CNTT chưa được phát huy mạnh mẽ; nguồn nhân lực CNTT
chưa được chuẩn bị và phát triển kịp thời cả về số lượng và chất
lượng; mạng viễn thông và Internet chưa thuận lợi, chưa đáp ứng
các yêu cầu về tốc độ, chất lượng cho ứng dụng CNTT; đầu tư cho
CNTT chưa tương xứng với tiềm năng; QLNN về lĩnh vực này vẫn
còn mơ hồ, yếu kém; ứng dụng CNTT ở một số nơi còn hình thức,
chưa thiết thực và hiệu quả chưa cao...
Có nhiều yếu tố tác động, nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan dẫn đến thực trạng trên. Tình hình đó đòi hỏi phải có
những công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, cả dưới góc độ lý luận

lẫn góc độ thực tiễn. Chính vì vậy, Nguyên nhân của những tồn tại
nêu trên chủ yếu là do nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã
hội ở Vĩnh Phúc về vai trò của CNTT chưa đầy đủ; chưa thực hiện
triệt để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển CNTT; chưa kết hợp chặt chẽ ứng dụng CNTT với quá trình
cải cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước, cơ cấu lại sản xuất, kinh doanh; chậm ban
hành các chính sách đáp ứng nhu cầu ứng dụng và phát triển CNTT;


7

QLNN trong các lĩnh vực CNTT chưa thống nhất, thiếu đồng bộ,
chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho việc cung ứng
dịch vụ viễn thông và Internet, chưa coi đầu tư cho xây dựng hạ
tầng thông tin là loại hình đầu tư xây dựng hạ tầng KT - XH.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc
- Thực trạng và giải pháp” đã được tác giả chọn làm luận văn thạc
sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
Ở ngoài nước, đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vai trò của
CNTT đối với phát triển KT-XH. Tác giả luận văn đã tiếp cận được
một số công trình nghiên cứu khá điển hình như: Văn minh của làn
sóng thứ ba, tác giả Allvin Toffler, Hetdi Toffler; Làn sóng thứ ba,
tác giả Allvin Toffler; Cú sốc tương lai, tác giả Allvin Toffler; Đạo
đức thông tin trong xã hội kinh tế tri thức, tác giả Cameron
Esslement. Trong các tác phẩm này, các tác giả đã đề cập đến sự
xuất hiện của một trào lưu hay một "làn sóng" mới, đó là làn sóng

CNTT. Cùng với sự xuất hiện này, tất yếu dẫn đến những đòi hỏi
thay đổi một cách toàn diện các phương thức vốn được coi là hợp lý
trước đây đối với việc vận hành và phát triển xã hội.
2.2. Nghiên cứu ở trong nước
- Có nhiều tác phẩm viết về vai trò của CNTT trong đời sống
như: CNTT - Tổng quan và một số vấn đề cơ bản, của Ban chỉ đạo


8

Chương trình Quốc gia về CNTT, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội,
năm 1997; Kỷ yếu hội thảo khoa học Kinh tế tri thức và những vấn
đề đặt ra đối với Việt Nam của Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ
KHCN và Môi trường và Bộ Ngoại giao, Hà Nội, năm 2002; Ứng
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của Ban
Tư tưởng văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2001; Chủ nghĩa tư bản và thời đại
thông tin của Bộ KHCN và Môi trường, Lưu hành nội bộ, Hà Nội,
năm 2001; CNTT Hà Nội cất cánh của Hội Tin học Việt Nam, tạp
chí Tin học và Đời sống, (số 3, 5, 6, 9, 11); Thương mại Điện tử, tác
giả Vũ Ngọc Cừ, Trịnh Thanh Lâm, Nxb. Giao thông vận tải, năm
2001; Đề án Tin học hóa hoạt động các cơ quan Đảng tỉnh Vĩnh
Phúc, giai đoạn 2001-2005 và những năm tiếp theo, Tỉnh ủy Vĩnh
Phúc ban hành, năm 2003; Đề án Tin học hóa hoạt động các cơ
quan QLHCNN tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2001-2005, UBND tỉnh
Vĩnh Phúc ban hành, năm 2002.
Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống
về ứng dụng CNTT phục vụ phát triển KT-XH tỉnh Vĩnh Phúc trong
giai đoạn hiện nay.
23. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn của luận

văn
32.1. Mục đích


9

Luận văn có mục đích phân tích, đĐánh giá thực trạng ứng
dụng CNTT ở tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó đề xuất những giải pháp để đẩy
mạnh ứng dụng CNTT trong việc phục vụ phát triển KT - XH của
tỉnh Vĩnh Phúc.
32.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu của đề tài, luận văn xác định các
nhiệm vụ sau đây.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về CNTT và ứng dụng
CNTT.
- Đánh giá thực trạng và những yếu tố tác động đến ứng dụng
CNTT của tỉnh Vĩnh Phúc.
- Xác định những yếu tố định hướng liên quan đến phát triển
CNTT của tỉnh Vĩnh Phúc.
- Làm rõ kinh nghiệm một số tỉnh, thành phố trong nước trong
việc ứng dụng CNTT phục vụ phát triển KT-XH, rút ra bài học cho
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy ứng dụng CNTT phục
vụ phát triển KT-XH của tỉnh Vĩnh Phúc.
4. ĐĐối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào c4.1. Đối
tượng
Quá trình ứng dụng CNTT phục vụ phát triển KT-XH tại các cơ
quan trong hệ thống chính trị của tỉnh Vĩnh Phúc gồm các cấp ủy
đảng, chính quyền, đoàn thể và các tổ chức xã hội.



10

4.2. Phạm vi
- Để thuận lợi cho việc thu thập tư liệu, luận vănĐề tài giới hạn
phạm vi nghiên cứu ứng dụng CNTT của các cơ quan quản lý nhà
nước tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày tái lập tỉnh 01/01/1997 đến nay. Luận
văn không nghiên cứu về phát triển công nghiệp CNTT, thị trường,
kinh doanh sản phẩm CNTT và các giải pháp liên quan đến kỹ thuật
CNTT; luận văn cũng không đề cập đến các đối tượng ứng dụng
CNTT như: nhân dân, doanh nghiệp và các đơn vị tương đương
như: trường học, bệnh viện…
53. Tình hình nghiên cứu của đề tài
3.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
Ở ngoài nước, đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vai trò của
CNTT đối với phát triển KT - XH. Tuy nhiên trong nguồn tham
khảo hạn chế của mình, tác giả luận văn đã tiếp cận được một số tác
phẩm nghiên cứu như: Văn minh của làn sóng thứ ba, tác giả Allvin
Toffler, Hetdi Toffler, NXB. Thanh niên, Hà Nội, năm 1998; Làn
sóng thứ ba, tác giả Allvin Toffler NXB. Thanh niên, Hà Nội, năm
2002; Cú sốc tương lai, tác giả Allvin Toffler, NXB. Thanh niên, Hà
Nội, năm 1998.
3.2. Nghiên cứu ở trong nước
- Trong thời gian qua ở trong nước đã có nhiều tác phẩm viết về
vai trò của CNTT trong đời sống như: CNTT - Tổng quan và một số
vấn đề cơ bản, của Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia về CNTT,
NXB. Giao thông vận tải, Hà Nội, năm 1997; Kỷ yếu hội thảo khoa



11

học Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam của
Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ KHCN và Môi trường và Bộ Ngoại
giao, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, năm 2002; Ứng dụng và phát triển
CNTT phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH của Ban Tư tưởng văn hóa
Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương, NXB. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, năm 2001; Chủ nghĩa tư bản và thời đại thông tin của
Bộ KHCN và Môi trường, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, năm 2001;
CNTT Hà Nội cất cánh của Hội Tin học Việt Nam, tạp chí Tin học
và Đời sống, (số 3, 5, 6, 9, 11); Thương mại Điện tử, tác giả Vũ
Ngọc Cừ, Trịnh Thanh Lâm, NXB. Giao thông vận tải, năm 2001;
Đề án Tin học hóa hoạt động các cơ quan Đảng tỉnh Vĩnh Phúc, giai
đoạn 2001-2005 và những năm tiếp theo, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc ban
hành, năm 2003; Đề án Tin học hóa hoạt động các cơ quan QLNN
tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2001-2005, UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban
hành, năm 2002.
Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách hệ
thống về ứng dụng CNTT phục vụ phát triển KT - XH tỉnh Vĩnh
Phúc trong giai đoạn hiện nay.
. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, tác giả lLuận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Pphương pháp duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử như
công cụ phương pháp luận cơ bản.


12

Đây là một đề tài mới, ít đơn vị nghiên cứu, do vậy tác giả đã

sử dụng các phương pháp sau đây để tiếp cận, làm rõ các nội dung
cần nghiên cứu.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: tTổng hợp, phân
tích.
- Tổng kết thực tiễn.
, đ- Điều tra xã hội học (qua mẫu phiếu sử dụng riêng cho luận
văn).,
- Ccác phương pháp toán kinh tế như hồi qui, mô hình hóa...
- Nghiên cứu tài liệu: phân tích kế thừa các công trình nghiên
cứu trong nước và quốc tế về các nội dung có liên quan đến đề tài.
- Phỏng vấn chuyên gia.: Tác giả phối hợp với Viện Chiến lược
Bưu chính, Viễn thông và CNTT và Sở Bưu chính, Viễn thông tỉnh
Vĩnh Phúc trong việc điều tra, đánh giá thực trạng CNTT tỉnh Vĩnh
Phúc.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa có bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về
CNTT và ứng dụng CNTT, rút ra bài học kinh nghiệm trong việc
ứng dụng CNTT phục vụ phát triển KT-XH.
- Đánh gía thực trạng ứng dụng CNTT phục vụ phát triển KTXH của tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày tái lập (1997) đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục
vụ phát triển KT-XH của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.


13

7. Kết cấu của luận văn
Với các lý do đã trình bày ở trên, nNgoài phần mở đầu, kết luận,
luận văn được kết cấu làm 03 chương, 09 tiết.



14

Chương 1IChương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN
1.1.1. Khái niệm về công nghệ thông tin


15

CNTT ngày nay đã và đang tạo đà cho những thay đổi cơ bản
trong công tác quản lý và các hoạt động sản xuất kinh doanh ở khu
vực công và khu vực tư trên phạm vi toàn cầu.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về CNTT, sau đây chúng ta
sẽ lần lượt tìm hiểu một số khái niệm về CNTT có tính chất phổ
biến.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (địa chỉ trên mạng
Internet:

/>
%87_th%C3%B4ng_tin) thì CNTT là công nghệ ứng dụng cho việc
xử lý thông tin.
Theo GS. Liest Eathington và GS. Dave Swanson, Khoa Kinh
tế học, Đại học Iowa, Hoa Kỳ, thì CNTT là một chuỗi sản phẩm và
dịch vụ mà thông qua đó, việc biến đổi số liệu thành thông tin có thể
tiếp cận được và trở nên có ích. Sản phẩm và dịch vụ CNTT này
bảo đảm cho doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân có thể kiểm soát

được các giao dịch kinh doanh hiệu quả hơn và nhanh hơn [30, tr.1].
Theo GS. Phan Đình Diệu, “CNTT là ngành công nghệ về xử lý
thông tin bằng các phương tiện điện tử, trong đó nội dung xử lý
thông tin bao gồm các khâu cơ bản như thu thập, lưu trữ, chế biến và
truyền nhận thông tin” [17, tr.7].
PGS. Hàn Viết Thuận cho rằng: “CNTT là sự kết hợp của công
nghệ máy tính với công nghệ liên lạc viễn thông được thực hiện trên
cơ sở công nghệ vi điện tử” [43, tr.16].
Dự thảo lần thứ 15 Luật CNTT đã được chỉnh lý theo ý kiến
của các vị đại biểu quốc hội tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI thì:


16

“CNTT là tập hợp các hoạt động có sử dụng công nghệ máy tính
trong quá trình sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao
đổi thông tin số phục vụ KT-XH, quốc phòng, an ninh và phát triển
công nghiệp CNTT” [56, tr.2].
Như vậy, CNTT là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học
và công nghệ liên quan đến thông tin và quá trình xử lý thông tin.
Theo cách nhìn đó, CNTT bao gồm các phương pháp khoa học, các
phương tiện, công cụ và giải pháp kỹ thuật hiện đại, chủ yếu là máy
tính và mạng truyền thông cùng với hệ thống nội dung thông tin
điện tử nhằm tổ chức, lưu trữ, khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động KT-XH, văn hoá,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại...
Đây có thể được coi là một định nghĩa hoàn chỉnh về CNTT vì
nó đã bao quát được toàn bộ nội dung, vai trò và ý nghĩa của CNTT
đối với các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội. Thuật ngữ CNTT trong
luận văn được sử dụng theo cách hiểu này.

1.1.2. Các đặc điểm của công nghệ thông tin
1.1.2.1. Công nghệ thông tin là công nghệ mũi nhọn
Theo nghĩa chung nhất, công nghệ mũi nhọn là công nghệ được
xây dựng dựa trên những thành quả mới nhất của nhiều công nghệ
khác và của những lý thuyết khoa học hiện đại. Do vậy, để xây
dựng được một ngành công nghệ mũi nhọn, trước hết, phải phát
triển ngành khoa học đó trên cơ sở những lý thuyết hiện đại nhất và


17

có những bước đi thích hợp trong quá trình phát triển, ứng dụng các
tiến bộ kỹ thuật của ngành đó vào cuộc sống.
Muốn xây dựng CNTT thành một công nghệ mũi nhọn, cần
phải tiếp cận và theo kịp những tri thức của thế giới về CNTT, từ đó
có những bước phát triển vượt bậc và những ưu thế rõ rệt trong lĩnh
vực đó so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngành
CNTT ở tất cả các nước hiện nay đều được coi là ngành công nghệ
mũi nhọn vì nó luôn đòi hỏi phải dựa trên những lý thuyết mới và sự
phát triển nhanh chóng của các ứng dụng công nghệ.
1.1.2.2. Công nghệ thông tin là công nghệ phổ biến trong
mọi lĩnh vực
Ngày nay, CNTT đã tác động mạnh mẽ đến tất các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Ứng dụng CNTT trở nên phổ biến trong tất cả các
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và các dịch vụ quan trọng trong
đời sống hiện đại của con người như: quản lý công, quản lý sản xuất
kinh doanh, đến việc ứng dụng trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật,
các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,…
1.1.2.3. Công nghệ thông tin là một công nghệ có nhiều tầng
lớp

CNTT có nhiều tầng lớp và tầng lớp trên lại được xây dựng dựa
trên các tầng lớp dưới. Cụ thể CNTT gồm có các tầng lớp sau.
- Các chương trình ứng dụng riêng cho từng cơ quan, đơn vị.
Đây có thể là chương trình ứng dụng được thành lập từ một ngôn
ngữ lập trình, dựa trên hệ quản trị cơ sở dữ liệu (CSDL). Tầng lớp


18

trên cùng này thường được thiết kế tại chỗ hoặc được đặt gia công
bên ngoài.
- Các chương trình ứng dụng và hệ phần mềm cơ bản. Đây là
phần phức tạp nhất, bao gồm các chương trình cơ bản sau.
i) Các chương trình ứng dụng tổng quát, chuyên cho quản lý, xử
lý văn bản, tính toán công nghiệp hay tính toán khoa học mà người
sử dụng cuối cùng có thể viết những ứng dụng dễ dàng hay cũng có
thể sử dụng ngay mà không cần viết thêm chương trình.
ii) Các chương trình “phần mềm trung gian”, cho phép các
chương trình ứng dụng phân tán sử dụng tới mạng thông tin, thông
qua hệ điều hành mạng. Đây là những chương trình có vai trò ứng
dụng quan trọng nhất vào lĩnh vực quản lý hiện nay.
iii) Các chương trình gắn liền với một sản phẩm đặc biệt nào
đó, với những giao diện sử dụng đặc biệt trực tiếp với người tiêu
dùng như máy nghe nhạc, ti vi, máy giặt, máy bay… Các chương
trình này thường do những hãng làm sản phẩm tự viết ra hoặc đặt
gia công tại các công ty chuyên phát triển phần mềm.
- Hệ điều hành và hệ điều hành mạng là môi trường thiết yếu
cho các ứng dụng hoạt động.
- Tầng tiếp theo bao gồm tất cả các hệ máy và mạng đang hoạt
động trên thế giới. Việc sản xuất các máy này bắt đầu từ: làm ra các

bảng tích hợp trong đó gắn các linh kiện điện tử; lắp ráp với phần
điện, cơ khí và các thiết bị ngoại vi,… để trở thành một máy tính


19

hoàn hảo, hay một bộ phận của một thiết bị công nghiệp hay một
sản phẩm tiêu dùng.
- Tầng cuối cùng là việc sản xuất các linh kiện điện tử.
1.1.2.4. Công nghệ thông tin là lĩnh vực phát triển và đào thải
rất nhanh
Những nghiên cứu trên thị trường cho thấy, các sản phẩm CNTT
và thiết bị ngoại vi thường có sự chuyển biến nhanh dưới sự tác động
của các tiến bộ KHCN. Những chuyển biến này chạy theo kịp đà tiến
của công nghiệp điện tử cơ bản theo quy luật Moore, với giá cố định thì
khả năng các linh kiện sau 18 tháng lại tăng gấp đôi về công năng
(dung lượng bộ nhớ, tốc độ xử lý thông tin…).
Như vậy, trong CNTT, phần cứng (thiết bị, các bộ xử lý…) có
tốc độ thay đổi và đào thải nhanh nhất. Trong khi đó, việc thiết kế
hệ thống có tốc độ biến chuyển chậm hơn, cuối cùng phần mềm ứng
dụng tổng quát còn biến chuyển chậm hơn nữa. Cụ thể, hàng thập
kỷ, thế giới mới nảy sinh những thiết kế hệ thống độc đáo hay
những chương trình ứng dụng tổng quát mới.
1.1.3. Cấu trúc của ngành công nghệ thông tin
Theo cCác chuyên gia của Viện Chiến lược BCVTưu chính
Viễn thông và CNTT thuộc Bộ BCVTưu chính, Viễn thông đã
nghiên cứu và đề xuất mô hình CNTT ở Việt Nam có tính đến
những đặc thù riêng của nước ta. Theo mô hình này, ở nước ta hiện
nay, cấu trúc của ngành CNTT được đặc trưng bởi bốn thành phần



20

cơ bản: i) ứng dụng CNTT; ii) cơ sở hạ tầng CNTT; iii) nguồn nhân
lực CNTT; iv) công nghiệp CNTT.
Bốn thành phần này có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn
nhau và tạo nên sức mạnh CNTT của quốc gia và được thúc đẩy,
phát triển bởi ba chủ thể quan trọng là chính phủ, doanh nghiệp và
người sử dụng.
Chính phủ đóng vai trò tạo môi trường pháp lý, thể chế, chính
sách, tổ chức, quản lý, điều phối, đào tạo, hợp tác quốc tế, thúc đẩy
và hỗ trợ cho CNTT phát triển.
Các doanh nghiệp về CNTT tham gia đầu tư, cung cấp sản
phẩm, dịch vụ, phát triển thị trường và cùng tham gia với Chính phủ
trong các hoạt động đào tạo, phổ biến kiến thức, kỹ thuật, công
nghệ, xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển CNTT.
Người sử dụng là các tổ chức, nhân dân - với tư cách là những
đơn vị, cá nhân sử dụng các sản phẩm và dịch vụ CNTT. Người sử
dụng gián tiếp đầu tư vào CNTT thông qua thị trường và cùng với
các doanh nghiệp CNTT thiết kế, cải tiến các sản phẩm và dịch vụ
CNTT, tham gia cùng với Chính phủ trong các hoạt động xây dựng
và thực hiện các chính sách phát triển CNTT.
Ba chủ thể này luôn gắn bó, phối hợp chặt chẽ với nhau, có
quan hệ hữu cơ trong một môi trường phát triển thống nhất bao
gồm: hệ thống pháp lý, chính sách về CNTT, môi trường đầu tư cho
CNTT và thị trường CNTT (Xem sơ đồ minh họa).


21


Mô hình “Bốn thành phần, ba chủ thể”

(Nguồn: Viện Chiến lược BCVT và CNTT, 2005).
Theo các chiến lược, kế hoạch, chương trình ứng dụng và phát
triển CNTT quốc gia thì đến năm 2020, với CNTT làm nòng cốt,
Việt Nam sẽ chuyển đổi cơ cấu KT-XH, cơ bản trở thành một nước
công nghiệp và là một trong những nước có trình độ tiên tiến về
phát triển xã hội thông tin trong khu vực ASEAN.
Đến năm 2010, trên cơ sở phát triển và ứng dụng mạnh mẽ
CNTT, Việt Nam đạt trình độ trung bình khá trong khu vực ASEAN
về xã hội thông tin.
Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 246/2005/QĐTTg ngày ngày 06/10/2005 phê duyệt chiến lược phát triển công
nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020, Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg ngày
07/02/2006 phê duyệt quy hoạch phát triển viễn thông và Internet
Việt Nam đến năm 2010, thì cấu trúc của ngành CNTT của Việt
Nam bao gồm một số nội dung chủ yếu sau.


22

1.1.3.1. Ứng dụng công nghệ thông tin
Nội dung này là nội dung cốt lõi, bao gồm bốn yếu tố sau.
Thứ nhất, xây dựng và phát triển cCDĐTộng đồng điện tử: bảo
đảm mức độ phổ biến rộng của xã hội ứng dụng CNTT trong đó trên
80% thanh niên ở các thành phố, thị xã, thị trấn có thể sử dụng các
ứng dụng CNTT và khai thác Internet. Từng bước đưa CNTT vào
đời sống của nông dân, thu hẹp khoảng cách sử dụng kỹ thuật số giữa
nông thôn và thành thị. Người dân được truy cập thông tin và tri thức
kịp thời thông qua hệ thống phát thanh, truyền hình, Internet... Phát

triển và phổ cập hệ thống quản lý điện tử đến trên 80% số bệnh viện
trên toàn quốc. Phổ cập sử dụng tin học cho trên 70% cán bộ y tế [41,
tr.3].
Thứ hai, xây dựng và phát triển CPĐT: bảo bảo đảm hệ thống
chỉ đạo, điều hành, trao đổi thông tin quản lý nhà nước thông suốt,
kịp thời từ trung ương đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; trên 50%
các văn bản được lưu chuyển trên mạng; đa số cán bộ, công chức
nhà nước có điều kiện sử dụng thư điện tử và khai thác thông tin
mạng trong công việc. 100% các cơ quan của Chính phủ có trang
web thông tin điện tử với đầy đủ thông tin về hoạt động của cơ
quan, pháp luật, chính sách, quy định, thủ tục hành chính, quy trình
làm việc, các dự án đầu tư, đấu thầu và mua sắm. Người dân và các
doanh nghiệp có thể qua trang web tìm kiếm thông tin liên quan đến
các hoạt động của các cơ quan hành chính một cách nhanh chóng,


23

dễ dàng. Hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng và hải quan đạt
trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực. Hệ
thống thông tin về dân cư, cán bộ công chức, tài nguyên, môi
trường, và thống kê có thông tin cơ bản được cập nhật đầy đủ và
cung cấp thường xuyên. Một số dịch vụ khai báo, đăng ký, cấp phép
được thực hiện trực tuyến qua các hệ thống thông tin của các quận,
sSở thuộc các tỉnh, thành phố. Xây dựng CPĐT tại Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh đạt mức trung bình khá trong khu vực. Đẩy mạnh
ứng dụng và phát triển CNTT trong quốc phòng, an ninh phục vụ sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc [41, tr.3].
Thứ ba, xây dựng và phát triển doanh nghiệp điện tử: ứng dụng

mạnh mẽ CNTT - TT trong những ngành dịch vụ kinh tế có tính hội
nhập cao như viễn thông, ngân hàng, hải quan, hàng không, du lịch,
thuế,... bảo đảm năng lực quản lý và chất lượng dịch vụ của các
ngành này đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. 50-70% doanh
nghiệp ứng dụng CNTT vào các hoạt động quản lý, điều hành,
quảng bá thương hiệu, tiếp thị, mở rộng thị trường, giám sát, tự
động hoá các quy trình sản xuất, thiết kế, kiểm tra, đánh giá chất
lượng sản phẩm… Hơn 50% doanh nghiệp tại Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh thực hiện báo cáo thống kê, khai báo thuế, đăng ký và
được cấp phép kinh doanh qua mạng. Trên 40% doanh nghiệp khai
báo, đăng ký và được cấp phép hải quan qua mạng [41, tr.3].
Thứ tư, phát triển giao dịch và thực hiện TMĐT: hình thành và
thúc đẩy phát triển môi trường giao dịch và TMĐT. Hình thành các


24

sàn giao dịch TMĐT, mạng giá trị gia tăng, hệ thống quản lý dây
chuyền cung ứng thông tin. Bảo đảm 25-30% tổng số giao dịch của
các ngành kinh tế được thực hiện thông qua hệ thống giao dịch và
TMĐT. Giao dịch và TMĐT đến 2010 có trị giá tăng gấp 10 lần so
với năm 2002 [41, tr.4].
1.1.3.2. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin
Xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông đáp ứng yêu
cầu trao đổi thông tin của toàn xã hội. Cơ sở hạ tầng viễn thông và
Internet Việt Nam đi thẳng vào công nghệ hiện đại, phát triển
nhanh, đa dạng hoá, cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ chất
lượng cao, bảo đảm an toàn thông tin, bảo mật, giá cước thấp hơn
hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực
ASEAN+3. Tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia

cung cấp dịch vụ viễn thông và Internet. Hỗ trợ để các doanh nghiệp
mới chiếm 40-50% thị phần dịch vụ viễn thông và Internet vào năm
2010 [41, tr.4].
Tất cả các bộ, ngành, cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền
cấp tỉnh và huyện được kết nối Internet băng rộng và kết nối với
mạng diện rộng của Chính phủ. 100% số xã trên toàn quốc có điện
thoại; 100% các điểm bưu điện văn hoá xã và các trung tâm giáo dục
cộng đồng được kết nối Internet; 100% số huyện và nhiều xã trong cả
nước được phục vụ dịch vụ băng rộng với giá cước thấp hơn hoặc
tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực ASEAN+3;
100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên


25

nghiệp và trung học phổ thông có truy cập Internet tốc độ cao; trên
90% các trường trung học cơ sở, bệnh viện được kết nối Internet [41,
tr.4].
1.1.3.3. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin
Đào tạo CNTT tại các trường đại học trọng điểm đạt trình độ và
chất lượng tiên tiến trong khu vực ASEAN cả về kiến thức, kỹ năng
thực hành và ngoại ngữ. 70% sinh viên CNTT tốt nghiệp ở các
trường đại học trọng điểm đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ để
tham gia thị trường lao động quốc tế. 100% sinh viên tốt nghiệp tất
cả các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có đủ kỹ
năng sử dụng máy tính và Internet trong công việc. Đến năm 2010
có trên 100.000 người có trình độ cao đẳng và đại học trở lên về
CNTT , trong đó có khoảng 20% đạt trình độ khu vực và quốc tế.
Bảo đảm 100% trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông có
trang thông tin điện tử. Tăng cường chất lượng và số lượng giảng

viên CNTT ở các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên
nghiệp bảo đảm tỷ lệ dưới 15 sinh viên có 1 giảng viên. Các trường
sư phạm cung cấp đủ số lượng giáo viên dạy tin học cho các trường
học trong cả nước. Hầu hết cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên
các cấp, bác sĩ, y sĩ, sinh viên đại học và cao đẳng, học sinh trung
học chuyên nghiệp, trung học nghề và trung học phổ thông, 50%
học sinh trung học cơ sở và một bộ phận người dân có nhu cầu được
đào tạo kiến thức ứng dụng CNTT và khai thác Internet. Đa số các
bộ, ngành, tỉnh, thành phố có cán bộ lãnh đạo quản lý thông tin,


×